Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Một số biện pháp hướng dẫn và thúc đẩy quá trình tự học đối với học sinh yếu, cá biệt trong lớp chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.67 KB, 22 trang )







SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN VÀ THÚC
ĐẨY QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CHO HỌC SINH YẾU
VÀ CÁ BIỆT TRONG LỚP CHỦ NHIỆM

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là điều rất quan trọng và cần thiết
trong điều kiện hiện nay. Thật vậy, thời gian tự học là lúc các em có điều kiện tự
nghiền ngẫm vấn đề học tập theo một yêu cầu, phong cách riêng và với tốc độ
thích hợp. Điều đó không chỉ giúp các em nắm vấn đề mộ
t cách chắc chắn, bền
vững, bồi dưỡng phương pháp học tập và khả năng vận dụng tri thức, mà còn là
dịp tốt để các em rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động sáng tạo.
Trong thời đại mà khoa học, kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay,
nhà trường dù tốt đến mấy cũng không đáp ứng được nhu cầu đa dạng và đang
phát triển của cuộc sống. Vì vậ
y, chỉ có tự học, tự bồi dưỡng mỗi người mới có thể
bù đắp được cho mình những lỗ hổng về kiến thức để thích ứng với yêu cầu cuộc
sống đang phát triển.
Như vậy, tự học là một trong những phẩm chất quan trọng nhất mà nhà
trường hiện đại cần trang bị cho học sinh, vì nó có ích không chỉ khi các em còn
ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi đ
ã bước vào cuộc sống.


Trong trường học, để quản lí lớp học, nhà trường cử ra một trong những
giáo viên giảng dạy có đủ tiêu chuẩn làm công tác chủ nhiệm. Giáo viên chủ
nhiệm phải là người: có năng lực chuyên môn tốt, có kinh nghiệm, tinh thần trách
nhiệm và nhiệt tình làm công tác giáo dục, quản lí học sinh, có uy tín với học sinh
và tập thể sư phạm. Giáo viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay
mặt hiệu trưởng
để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh. Giáo viên
chủ nhiệm là người tổ chức quản lý lớp học, dìu dắt học sinh như con em của
mình trưởng thành qua từng năm tháng. Giáo viên chủ nhiệm là chất keo kết dính
tạo nên sự đoàn kết thân ái giữa các thành viên trong lớp học. Sự tận tụy, trách
nhiệm và kĩ năng chủ nhiệm tốt, giáo viên chủ nhiệm sẽ tạo nên một tậ
p thể lớp
vững mạnh, chất lượng giáo dục cao và được học sinh yêu thương, quí trọng.
Trên thực tế, công tác chủ nhiệm của giáo viên không phải lúc nào cũng
thành công. Mỗi trường học, mỗi lớp học, luôn tồn tại một số lượng không nhiều
học sinh có năng lực học tập yếu và có ý thức kỉ luật kém và thường được gọi là
học sinh cá biệt. Với những lớp họ
c có học sinh yếu và cá biệt, giáo viên có kĩ
năng chủ nhiệm yếu, thường rất vất vả trong công tác quản lí, giáo dục các em.
Các em thường có biểu hiện ngỗ ngược không vâng lời, không chấp hành nội qui
nhà trường, có thái độ học tập không nghiêm túc, đôi lúc còn lôi kéo những học
sinh trong lớp và lớp khác quậy phá để chứng tỏ mình… Những học sinh này làm
ảnh hưởng không nhỏ đến nền nếp, chất lượng học tập chung của lớp và của nhà
trường.
Có thể nhận thấy, trong thời gian gần đây, số học sinh cá biệt đang có xu
hướng ngày càng gia tăng. Qua mỗi năm học, kết quả học tập c
ủa những học sinh
này phần lớn nằm ở mức yếu hoặc kém. Tuy nhà trường cùng giáo viên chủ nhiệm
kết hợp với cha mẹ học sinh đã đưa ra nhiều biện pháp uốn nắn, giáo dục và thúc
đẩy qua trình học tập của các em, nhưng nhìn chung vẫn chưa đạt được những kết

quả như mong đợi.
Trước những thực tế nêu trên, với vai trò của người quản lí giáo dục và
c
ũng từng là giáo viên đạt những thành công trong công tác chủ nhiệm, tôi mạnh
dạn đề xuất sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số biện pháp hướng dẫn và
thúc đẩy quá trình tự học đối với học sinh yếu, cá biệt trong lớp chủ nhiệm”
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Những quan niệm về tự học và vấn đề hình thành năng lực t
ự học
cho học sinh trong nhà trường phổ thông.
1.1.1. Quan niệm về tự học
Con người ta ngay khi sinh ra đã phải tự học, tự học để nhận biết thế giới
xung quanh, tự học để tồn tại và phát triển. Khổng Tử cho rằng cách học như thế
nào quan trọng như học cái gì, học không chỉ ở trường còn học ở bạn bè “Tam
nhân đồng hành, tất hữu ngã sư
” (trong 3 người đi cùng, tất có thầy ta trong đó)
Cha ông ta từ xưa cũng luôn đặt tự học làm trọng. Người đã kế thừa và phát
huy cao nhất truyền thống đó là Bác Hồ. Bác đã từng căn dặn: “Còn sống thì còn
phải học, còn phải hoạt động cách mạng”. Theo Người tự học chính là sự nỗ lực
của bản thân người học, sự làm việc của bản thân người học m
ột cách có kế hoạch
trên tinh thần tự giác học tập. Người cho rằng trong tự học, ý chí tự học tập và sự
sáng tạo là đều vô cùng quan trọng.
Cũng bàn về tự học, Chu Mạnh Nguyên cho rằng: “Tự học, tự nghiên cứu
là một quá trình trong đó mỗi người tự suy nghĩ, tự sử dụng các năng lực trí tuệ và
các phẩm chất của bản thân, tự khai thác vận dụng những
điều kiện vật chất có thể
để biến một kiến thức nào đó của người khác (của nhân loại) thành kiến thức sở
hữu của mình, vận dụng một kiến thức nào đó của người khác để làm cho công

việc của bản thân có hiệu quả hơn”.
Trong bộ sách: “Tuyển tập tác phẩm tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu”
gồm 2 tập, GS. Nguyễn Cảnh Toàn, người có nhiều tâm huyết với vấn đề tự học
đã đưa ra một quan niệm về tự học có thể xem là hoàn chỉnh: “Tự
học là tự mình
dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng
lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (phải sử
dụng các công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân
sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh vực hiêu biết nào đó,
một số kỹ năng nào đó, một số
phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng
biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới cũng có thể coi là một
hình thức tự học cao cấp”. Theo GS. Có 3 cấp độ tự học:
- Tự học dưới sự hướng dẫn của thầy, giáp mặt thầy một số tiết trong ngày,
trong tuần.
- Tự học có hướng dẫn của thầy nhưng không giáp mặt thầy mà nhận
được sự
giúp đỡ của thầy từ xa.
- Tự học không có sự hướng dẫn của thầy. Người học tự đọc sách giáo khoa, tài
liệu thông qua đó mà tự hiểu, tự thấm các kiến thức trong sách.
Như vậy “tự học” là cả một quá trình con người vượt qua hoàn cảnh và
vượt qua chính mình, tự vận dụng tất cả ý chí nghị lực, phẩm chất tư duy, phẩm
chất nhân cách, tâm hồ
n, bản lĩnh văn hóa, mục đích sống, khát vọng sống của bản
thân để vượt qua mọi khó khăn, tự so sánh, đối chiếu, tự phê bình, tự sửa chữa để
chiếm lĩnh tri thức. Tự học được diễn ra mọi nơi, mọi lúc, học ở mọi người và
bằng mọi cách. Hiệu quả của việc tự học được đánh giá bởi chính hiệu suấ
t và
hiệu quả công việc của từng người. Việc tự học được thực hiện ở những mức độ
khác nhau tùy thuộc vào mục đích và khả năng tiếp thu, hoàn cảnh và thời gian

của từng người không ai giống ai. Tuy nhiên, tất cả mọi người tự học đều nhằm
đến mục đích biết được càng nhiều càng tốt để nâng mình lên đến một trình độ cao
hơn, ph
ục vụ công việc của mình thuận lợi và có hiệu quả hơn. Thế giới đang
bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của thông tin, của khoa học và công nghệ hiện đại, bất
cứ ai, ở bất cứ địa vị và vị trí nào trong xã hội cũng đều phải tự học, bởi chỉ có
như vậy mỗi người mới tồn tại, tự đứng vững trên
đôi chân của mình và góp phần
thúc đẩy xã hội phát triển.
1.1.2. Vấn đề hình thành năng lực tự học cho học sinh trong nhà
trường phổ thông.
Tự học của học sinh THPT luôn gắn liền với năng lực chủ động tích cực,
học sinh phải tự nghiên cứu tài liệu, tự mình phát hiện kiến thức, nắm bắt kiến
thức, tự mình biết vận dụng chuyển hóa kiến thức bài học dưới sự dẫn dắt, định
hướ
ng của giáo viên. Tự học của học sinh THPT chỉ mới dừng ở cấp độ một
nhưng đây chính là cơ sở, là nền móng vững chắc cho kinh nghiệm tự học, tự
nghiên cứu ở mức độ cao sau này. Phạm vi kiến thức tự học của học sinh THPT
trước hết thuộc chương trình sách giáo khoa phổ thông và những tài liệu liên quan
“Đối với học sinh tự học, tự nghiên cứu ph
ải dựa trên cơ sở của việc học và nắm
vững một hệ thống kiến thức cơ bản, đồng thời được trang bị để nắm được cách
học và cách nghiên cứu, có kỹ năng học nghiên cứu, tiến tới có kỹ xảo và thói
quen tự học, tự nghiên cứu, vì vậy ở đây vai trò của các nhà giáo dục trực tiếp
hơn, cần thiết hơn”.
Theo Nguyễn Kỳ, “tự học” của học sinh THPT có bốn đặc trưng cơ bản:
- Người học tự tìm kiến thức bằng chính hành động của mình.
- Người học tự thể hiện mình.
- Người thầy hướng dẫn tổ chức cho trò tự nghiên cứu.
- Người học tự đánh giá, tự kiểm tra, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn

thiện
đồng thời tự rút kinh nghiệm về cách học, cách giải quyết vấn đề của mình.
Như vậy, quá trình tự học của học sinh có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Hướng dẫn thông qua những tình huống và đề ra những nhiệm
vụ học tập cho học sinh.
Giai đoạn 2: Tổ chức các hoạt động trao đổi thảo luận, thuyết trình. . .
Giai đoạn 3: Làm trọng tài kiểm tra đ
ánh giá nhận thức của học sinh.
Như vậy, nói đến vấn đề tự học của học sinh THPT không phải là nói tới
một vấn đề gì cao siêu khó thực hiện. Tự học của học sinh không đòi hỏi mức độ
cao như tự học của một nhà nghiên cứu. Tự học của các em chủ yếu dựa vào các
bài học cụ thể trong sách giáo khoa, những tài liệu có liên quan đến bài học để
đối
chiếu, so sánh mở rộng làm cho quá trình nhận thức của các em mang tính chủ
động và có tính chất nghiên cứu. Quan trọng hơn việc tự học của học sinh được
hình thành và rèn luyện dưới sự hướng dẫn định hướng của giáo viên. Mục đích
“tự học” của học sinh THPT là làm sao giúp các em hiểu sâu sắc trọn vẹn bài học
bằng chính năng lực của mình và biết vận dụng nó như một “kinh nghiệm” của
bản thân. Đây chính là yêu cầu hàng đầu cần đặt ra trong quá trình học tập của học
sinh. Điểm mấu chốt để rèn luyện cho học sinh một năng lực tự học tốt trong mỗi
giờ học, yêu cầu người giáo viên phải biết cách hướng dẫn các em tự học từ mức
độ thấ
p đến mức độ cao để khi rời ghế nhà trường các em có được một năng lực tự
học hoàn thiện.
1.2. Học sinh cá biệt và nguyên nhân phát sinh học sinh cá biệt
1.2.1.Khái niệm về học sinh cá biệt :
Học sinh cá biệt là thuật ngữ thường dùng của nhà trường, thầy cô giáo chỉ
những học sinh hoang nghịch : thường gây gỗ đánh nhau, bỏ giờ, trốn học … ,
không chấp hành nội qui nhà trường … thêm vào đó là sự lôi kéo của b
ạn bè về

phía mình nhằm thỏa mản cá tính hoặc thỏa mản nhu cầu giải tỏa tâm lý bị ức chế
về hoàn cảnh của bản thân mình .
HSCB là hiện tượng tâm lý ở lứa tuổi thanh thiếu niên, nó dễ bị lôi cuốn
làm cho HS dễ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu dẫn đến tình trạng bỏ học giữa
chừng và có nguy cơ phạm tội là nỗi day dứt của nhà trường, gia
đình và xã hội .
Học sinh cá biệt biểu hiện ở nhiều khía cạnh, trạng thái khác nhau, tạm
chia làm 4 nhóm :
- Nhóm 1: Cá biệt là do vi phạm nội quy của Nhà trường, của lớp, mất trật
tự trong giờ học, lười học bài, đi học muộn …
- Nhóm 2: Cá biệt là do ham chơi điện tử, sẵn sàng bỏ học, lừa dối bố mẹ,
thầy cô. - Nhóm 3: Cá biệt là do vi phạm những chuẩn mự
c đạo đức, hỗn láo
với thầy cô giáo, cha mẹ, hay nói tục chửi bậy.
- Nhóm 4: Cá biệt là do vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp, trấn lột, cờ
bạc …
- Nhóm 5: Cá biệt là do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè,
hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ (nhóm học sinh cá biệt này đang có
xu hướng gia tăng trong xã hội hiện nay).
Ở tất cả các nhóm HSCB trên đều ảnh hưởng đến s
ự hình thành nhân cách
và năng lực học tập của học sinh. Dù ở nhóm HSCB nào nếu chúng ta không kịp
thời uốn nắn, giáo dục các em thì dễ dẫn đến các em từ những vi phạm nhỏ đến
việc làm không có ý thức khác, rồi bỏ học và có nguy cơ trở thành tội phạm .
1.2.2. Nguyên nhân phát sinh học sinh cá biệt :
- Từ gia đình: Thiếu sự quan tâm hay quá tin tưởng, chiều chuộng của gia
đình; những éo le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến sự hư đốn, hay
nói một cách khác là đạo đức học sinh yếu kém.
- Từ xã hội : Thực trạng những mặt xấu của xã hội; Trong điều kiện xã hội
hiện nay từng giờ từng ngày những cám dỗ,ảnh hưở

ng tiêu cực của xã hội dội vào
nhà trường và tác động đến học sinh.
- Từ nhà trường: Nhà trường chưa có biện pháp phù hợp trong việc quản lí
giáo dục học sinh; chưa quan tâm đúng mức tới những HS có hoàn cảnh đặc biệt
(những em quá đầy đủ về vật chất, được chiều chuộng; ngược lại những em quá
khó khăn thiếu thốn về vật chất hoặc những em có hoàn cả
nh éo le, những em có
cá tính khác thường…); chưa tạo ra môi trường thân thiện thức sự khi các em đến
trường, làm cho các em thấy nhàm chán khi đến trường, có nhu cầu muốn tự thay
đổi và làm mới môi trương sống; từng giáo viên chưa trở tành chỗ dựa về tinh thần
cho các em mỗi lúc gặp khó khăn, giáo viên còn ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm,
sợ bị xúc phạm khi đối diện với HS hư, thiếu tâm huyết với nghề, chưa quan tâm
phát hiệ
n và ngăn chặn kịp thời những hành vi lệch lạc của HS…
-Từ bản thân học sinh: Giai đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi. Từ tuổi
thiếu niên chuyển sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình bằng sự
hiểu biết chưa hoàn thiện của mình; có thể do bản năng hoặc bệnh a dua hay bệnh
lấy lệ . Thậm chí các em còn nghĩ làm như vậy là không sai! Khi đạo đức yếu kém
thì học lực cũng tỉ lệ thuận với nó. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả, các em kiến thức
bị hổng dẫn đến mất căn bản; điểm kiểm tra thấp so với các bạn cùng lớp làm các
em mặc cảm đưa đến hiện tượng sợ bị kiểm tra, tiếp theo là chán học và cuối cùng
nảy sinh bỏ học.
Rất nhiều yếu t
ố làm cho HS trở thành HSCB, nhưng ở đây chỉ nêu một số
nguyên nhân tác động trực tiếp đến HS làm nảy sinh những tư tưởng, tình cảm
không lành mạnh làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách và làm hạn chế đến
năng lực học tập của các em .
1.3. Vấn đề tâm lí học lứa tuổi học sinh THPT và nhiệm vụ của giáo
viên chủ nhiệm.
1.3.1. Vấn đề tâm lí học lứa tuổi học sinh THPT

1.3.1.1. Nh
ững yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí của lứa tuổi
học sinh THPT
- Khái niệm tuổi thanh niên: Là giai đọan phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì
và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên kéo dài từ 14, 15- 25
tuổi, được chia thành 2 thời kì: 14,15 đến 17,18 tuổi: thanh niên mới lớn (HS
THPT); 17,18 đến 25 tuổi: tuổi thanh niên (giai đoạn 2 của tuổi thanh niên)
- Đặc điểm cơ thể:
+ Sinh lý: Tuổi đầu thanh niên là thời kì đầu đạt được sự tăng trưởng về mặt
thể l
ực, nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại, đa số các em
đã vượt qua thời kì phát dục.
+ Tâm lý: Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do
cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển.
- Những điều kiện xã hội của sự phát triển
+ Trong gia đình: Vị trí ngày càng được khẳ
ng định. Được tham gia bàn bạc
việc gia đình. Yêu cầu cao hơn trong công việc, trong cách suy nghĩ.
+ Ngoài xã hội: (Thay đổi đáng kể)15 tuổi được làm CMT, 18 tuổi được đi
bầu cử, đủ tuổi nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động, nữ đủ tuổi kết hôn.
+ Ở nhà trường: (Nòng cốt các phong trào) Tham gia tổ chức Đoàn TNCS.
Hệ thống tri thức ngày càng phong phú.
1.3.1.2. Đặc điểm của ho
ạt động học tập và sự phát triển trí tuệ ở lứa
tuổi học sinh THPT
+ Đặc điểm của hoạt động học tập: HĐHT đòi hỏi tính tích cực, năng động
cao, đòi hỏi sự phát triển mạnh của tư duy lý luận. Hình thành hứng thú học tập
liên quan đến xu hướng nghề nghiệp. Hứng thú học tập được thúc đẩy, bồi d
ưỡng
bởi động cơ mang ý nghĩa thực tiễn, sau đó mới đến ý nghĩa xã hội của môn học.

Tích cực: thúc đẩy các em học tập và đạt kết quả cao các môn đã lựa chọn. Tiêu
cực: chỉ quan tâm đến môn học liên quan đến việc thi mà sao nhãng các môn học
khác.
+ Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ: Tri giác có mục đích đã đạt tới mức
rấ
t cao. Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, đồng thời
vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Các em
đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ. Có sự thay đổi về tư duy: các em có
khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, chặt chẽ có căn cứ và
mang tính nhất quán. Nguyên nhân: Do sự phát triển c
ủa quá trình nhận thức. Do
ảnh hưởng của hoạt động học tập. Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của
não phát triển.
+ Kết luận sư phạm: Các nhà giáo dục cần giúp các em có thể phát huy hết
năng lực độc lập suy nghĩ của mình, nhìn nhận và đánh giá các vấn đề một cách
khách quan.
1.3.1.3. Những đặc điểm nhân cách chủ yếu:
+ Sự phát triển của tự ý thức: Chú ý đến hình dáng bên ngoài
. Quá trình tự
ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi, có tính đặc thù riêng. Sự tự ý thức của các em
xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động đến địa vị mới mẻ trong tập thể,
những quan hệ mới với thế giới xung quanh buộc thanh niên phải ý thức được đặc
điểm nhân cách của mình.
+ Sự hình thành thế giới quan: Chỉ số đầ
u tiên của sự hình thành thế giới
quan là sự phát triển của hứng thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên
tắc chung nhất, những quy luật phổ biến của tự nhiên, của xã hội Việc hình
thành thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận thức, mà còn thể hiện
ở phạm vi nội dung. Kết luận sư phạm: Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục cầ
n

phải xây dựng thế giới quan lành mạnh, đúng đắn cho các em.
+ Giao tiếp và đời sống tình cảm: Giao tiếp trong nhóm bạn. Tuổi thanh niên
mới lớn là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất. Ở lứa tuổi này, các em có khuynh
hướng làm bạn với bạn bè cùng tuổi. Các em tham gia vào nhiều nhóm bạn khác
nhau. KLSP
: Nhà giáo dục cần chú ý đến ảnh hưởng của nhóm, tổ chức cho các
nhóm tham gia vào các hoạt động tập thể của Đoàn
+ Hoạt động lao động và sự lựa chọn nghề: Hoạt động lao động tập thể có
vai trò lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách thanh niên mới lớn. Việc
lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành công việc khẩn thiết của học sinh lớn. KLSP
:
Nhà giáo dục cần giúp các em lựa chọn ngành nghề phù hợp với khả năng, năng
lực của các em.
1.3.1.4. Một số vấn đề giáo dục: Trước hết cần xây dựng mối quan hệ tốt
giữa thanh niên và người lớn trên tinh thần bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Người
lớn cần phải giúp đỡ các em một cách khéo léo, tế nhị để hoạt động của các em
được phong phú, hấp d
ẫn và độc lập. Người lớn không được quyết định thay, làm
thay trẻ. Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
1.3.2. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm, ngoài các nhiệm vụ qui định của giáo viên bộ môn
(điều 31, mục 1 điều lệ Trường THPT cơ sở, trường THPT và trường phổ thông có
nhiều cấp học) còn có những nhiệm vụ sau đây (điều 31 mục 2):
- Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ
chức giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến b
ộ của cả lớp;
- Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với giáo viên
bộ môn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đội THTP Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội
có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp mình chủ
nhiệm;

- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kì và cuối năm học, đề nghị
khen thưởng và kỉ luật họ
c sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng,
phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kì nghỉ hè, phải ở lại
lớp, hoàn chỉnh việc ghi vò sổ điểm và học bạ của học sinh.
Những vấn đề lí luận nêu trên là cơ sở vững chắc để chúng tôi thực hiện các
giải pháp cho hướng nghiên cứu của đề tài: “Một số biện pháp hướ
ng dẫn và thúc
đẩy quá trình tự học đối với học sinh yếu, cá biệt trong lớp chủ nhiệm”
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Nhiệm vụ của trường học là “Giáo dục” và rèn luyện các em học sinh nên
người. Riêng đối với học sinh có lực học yếu và cá biệt, với bản lĩnh, lòng vị tha,
yêu thương, giáo viên chủ nhiệm không chỉ “Giáo dục”, rèn luyện mà còn phải
biế
t giúp đỡ, cải tạo các em từ những học sinh hư, có lực học yếu thành con ngoan
trò giỏi, công dân tốt. Nghề dạy học “nghề cao quý trong các nghề cao quý”, là
nghề “ trồng người”. Vinh quang của nghề dạy học và công tác chủ nhiệm là ở
chỗ: Một lớp học, xuất phát có nhiều học sinh có lực học yếu và HSCB, hết năm
học có thể xoá được tám mươi phần trăm “gánh nặng” cho lớp, cho trường, cho
gia đình.
Thời gian qua, nhà trường cũng đã chú ý nhiều đến việc tìm kiếm các con
đường nâng cao chất lượng tự học. Tuy nhiên sự vận động của nhà trường theo
hướng này còn hết sức chậm chạp, vì chưa tìm được những biện pháp hướng dẫn,
thúc đẩy thích hợp. Nghề dạy học vốn là nghề “sáng tạo trong các nghề sáng tạo”.
Nói theo cách nói của thầy thuốc: Thầy phải “chẩn” đúng bệnh, dùng lo
ại thuốc
“đặc trị”, mới hồi phục được sức khoẻ cho những con “bệnh” có lực học yếu, cá
biệt.
2.1. Xây dựng hình thành, phát triển, kích thích động cơ học tập cho
học sinh yếu, cá biệt

Xây dựng động cơ học tập cho học sinh là một trong những vấn đề quan
trọng nhất của việc bồi dưỡng tinh thần tự học. Có thể khẳng định rằng nhu cầu
học tập, tìm hiểu và nhận thức là một thuộc tính bẩm sinh của con người. Và động
cơ học tập không chỉ
là một quá trình tự phát, không chỉ là một quá trình tự nhiên
và phát sinh thầm lặng. Giáo viên cần hình thành, phát triển, kích thích động cơ
học tập của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng em, để từ đó các em tự kích
thích động cơ học tập của chính mình.
- Trong các tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp và hướng nghiệp, giáo
viên chủ nhiệm có thể cho học sinh thảo luận và thuyết trình về mộ
t số câu
hỏi sau:
+ Có những môn học nào mà các em thích hoặc không thích? Vì sao?
+ Học tập là một nghĩa vụ xã hội hay chỉ là nhu cầu của cá nhân?
+ Mục đích của việc học tập có phải là để nắm được những kiến thức cần
thiết, bổ ích hay chỉ là để có được điểm tốt?
+ Một khi tự đánh mất và tự tạo lỗ hổng kiến thức, chúng ta sẽ ph
ải đối mặt
với những nguy cơ, khó khăn gì hay chỉ đơn giản là bị điểm kém?
+ Những yêu cầu của thầy cô giáo và của cha mẹ đối với các em là nhằm
mục đích gì? Có ích hay không có ích?
+ Em suy nghĩ gì về câu nói: “học để biết, học để làm, học để chung sống và
học để tự khẳng định mình”
GVCN chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm một câu hỏi. Mỗi nhóm đều phải
có 1 đế
n 2 học sinh yếu, cá biệt. Giáo viên yêu cầu một học sinh yếu làm thư kí
nhóm, một học sinh cá biệt đóng vai trò thuyết trình cho nhóm mình, các bạn học
sinh khác trong nhóm phải nhiệt tình giúp đỡ hỗ trợ bạn.
Khi mỗi nhóm thuyết trình xong, các nhóm khác bổ sung, tranh luận và cuối
cùng giáo viên góp ý, bổ sung, khuyến khích, động viên, khen thưởng, ghi vào sổ

nhật kí và bảng thành tích,…
- Kết thúc cuộc thảo luận, thuyết trình, giáo viên giao việc về nhà làm
cho các em:
+ Yêu cầu mỗi em học sinh yếu, cá biệt trong mỗi nhóm, cùng với sự giúp
sức của các bạn trong nhóm, có nhiệm vụ tập hợp bài viết của các nhóm khác, về
nhà viết lại thành một đề tài hoàn chỉnh, sau đó nộp cho giáo viên chủ nhiệm.
+ GVCN có nhiệm vụ duyệt, sửa chữa, bổ sung,… rồi trả lại cho các nhóm.
Trưởng nhóm viết lại và đóng thành tập xã luận. Mỗi nhóm sẽ cất giữ tập bài viết
đó, xem đó như là một “công trình” kiến thức bổ ích thể hiện khả năng nhận thức
đúng đắn về việc xây dựng cho mình một động cơ học tập.
Những việc làm nêu trên tuy rất nhỏ nhưng có tác dụng rất lớn trong việc tạo
ra động cơ học tập lành mạnh cho các em học sinh yếu, cá biệt nói riêng và học
sinh trong cả lớp nói chung. Và nó chính là nền tảng vững chắc để hình thành nên
ý thức tự học cho các em.
2.2. Hướng dẫn và thúc đẩy học sinh yếu, cá biệt tự làm việc với sách
Đọc sách là một trong những dạng hoạt động nhận thức cơ bản của con
người, một loại hình tự học quan trọng và phổ biến. Đọc sách là con đường thu
lượm tri thức nhanh và có hiệu quả. So với các hình thức học tập khác, học tập
bằng con đường đọc sách có nhiều ư
u thế. Thứ nhất, nguồn thông tin trong sách là
ổn định, chính xác, độ tin cậy và giá trị khoa học cao, phù hợp với nhận thức, đặc
điểm lứa tuổi học sinh, vì thế quá trình lĩnh hội chúng là vấn đề không khó. Thứ
hai, thời đại bùng nổ thông tin, sách, tài liệu học tập, giáo trình cơ bản rất đa dạng
và phong phú, người học rất thuận lợi cho việc lựa chọn. Thứ ba, học sinh lúc đọc
sách là chủ
thể thực sự của hoạt động học tập, vì thế tính tích cực, tự giác, độc lập
sáng tạo,… sẽ được phát huy ở mức độ cao. Thứ tư, khi các em tự làm việc với
sách, việc thu nhận kiến thức sẽ trở nên sâu sắc và vững chắc hơn.
Tri thức mà các em thu được thông qua bài giảng trở nên quá ít ỏi và “áp đặt”
một chiều. Các em phải đọc sách để mở rộng, đào sâu, b

ổ sung những tri thức đã
có, tìm kiếm những tri thức mới, tiếp cận những lí thuyết mới, những quan điểm
mới mà khuôn khổ bài giảng không cung cấp được. Vì thế việc hướng dẫn và thúc
đẩy học sinh yếu, cá biệt nói riêng và học sinh trong cả lớp nói chung, biết tự làm
việc với sách là điều rất quan trọng, bởi nó là một yếu tố không thể thiếu trong quá
trình tự học để
chiếm lĩnh tri thức.
- GVCN phải thường xuyên trao đổi với giáo viên bộ môn, để giúp các
em tìm được những cuốn sách hay, có ích cho việc học tập của mình.
- GVCN hướng dẫn học sinh cách đối xử với sách, cách chọn và đọc
sách:
+ Hãy xem sách như một người bạn thân thiết, cầm sách, cất sách với thái độ
trân trọng và yêu thương, không làm cong mép, không viết bậy lên sách, không lật
sách một cách thô bạo,…
+ Từ tên sách cần tìm, việc đầu tiên chúng ta sẽ lựa chọn tên tác giả (những
tác giả uy tín), sau đó đọc mục lục tìm những nội dung liên quan đến những kiến
thức mà ta quan tâm, tiếp đến là đọ
c lượt qua một số nội dung xem tác giả viết thế
nào và có phù hợp với sự tiếp nhận của mình không. Và cuối cùng là ta chọn sách.
+ Đọc kĩ những nội dung kiến thức liên quan đến vấn đề mà ta cần tìm hiểu,
tiếp đến tóm tắt, khái quát, grap hoá những kiến thức trọng tâm để dễ thuộc, dễ
nhớ
- Trong các tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp và hướng nghiệp, giáo
viên chủ nhi
ệm có thể cho học sinh thảo luận và thuyết trình về một số câu
hỏi:
+ Khi giáo viên yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị bài học cho tiết học tới thì
việc đầu tiên mà em cần làm là gì? Việc làm ấy cụ thể là những gì? nêu ví dụ về
cách chuẩn bị bài cho một số môn học. Và hãy giải thích vì sao lại cần thiết làm
những việc ấy? hãy cho biết việc làm có lợi ích gì đối với em khi tiếp thu kiến

thức trong bài học mới.
+ Bình luận câu nói: “sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”.
- GVCN tổ chức học nhóm ngoài giờ lên lớp, để thúc đấy quá trình tự làm
việc với sách của các em có lực học yếu, cá biệt nói riêng và học sinh trong cả lớp
nói chung, theo những định hướng của từng giáo viên bộ môn cho mỗi môn học cụ
thể.
2.3. Sắp xếp sơ đồ chỗ ngồi với m
ục đích xây dựng nhóm học theo bàn,
để hướng dẫn, thúc đẩy quá trình tự học của học sinh yếu và cá biệt
Mỗi bàn học, giáo viên sắp xếp một học sinh khá hoặc giỏi ngồi gần một học
sinh có lực học yếu hoặc cá biệt. Và những học sinh khá, giỏi có nhiệm vụ nhắc
nhở, giúp đỡ, động viên những bạn học sinh yếu và cá biệt ngồi cùng bàn trong
vấn đề học tập cũng như thực hiện nội qui của nhà trường. Tuyệt đối không xếp
học sinh yếu về học lực và học sinh cá biệt ngồi cạnh nhau trong bàn học.
Bốn thành viên trong ban cán sự lớp đồng thời là tổ trưởng của bốn tổ được
bố trí ngồi ở bốn vị trí khác nhau để quan sát lớp:
- Lớp trưởng kiêm Trưởng ban bảo vệ cơ s
ở vật chất của lớp và Tổ trưởng tổ
1.
- Lớp phó học tập kiêm bí thư chi đoàn và tổ trưởng tổ 2.
- Lớp phó văn thể mĩ kiêm Thủ quĩ và Tổ trưởng tổ 3.
- Lớp phó lao động kiêm Sao đỏ và Tổ trưởng tổ 4
TT -2
HSY-6
HSK -6 HSCB-6

TT -4
HSY-12
HSK -12 HSCB-12
HSCB-5 HSK -5

HSY-5 HSTB
HSCB-
11
HSK-11
HSY-11 HSTB
HSTB HSY-4
HSK -4 HSCB-4
HSTB HSY-10
HSK-10 HSCB-10
HSCB-3 HSK -3
HSY-3
TT- 1 HSCB-9 HSK-9
HSY-9
TT -3
HSTB HSY-2
HSK -2 HSCB-2
HSTB HSY-8
HSK -8 HSCB-8
HSCB-1 HSK -1
HSY-1 HSTB
HSCB-7 HSK -7
HSY-7 HSTB
=== Lối vào

Chú thích sơ đồ:
- TT-1: Tổ trưởng tổ 1; tương tự TT-2, TT-3, TT-4
- HSK: Học sinh khá
- HSY: Học sinh có lực học yếu.
- HSCB: Học sinh cá biệt
- HSTB: Học sinh trung bình.

Dân gian có câu “học thầy không tày học bạn”. Vì thế, trong mỗi bàn học,
GVCN sẽ giao trách nhiệm cụ thể cho từng học sinh khá, giỏi, các em phải có
nhiệm vụ kèm cặp, hướng dẫn, giúp đỡ cho những bạn học sinh có học lực yếu
trong bàn c
ủa mình. Công việc cụ thể như sau: nhắc nhở, giúp đỡ bạn soạn bài,
BGV
làm bài tập; khuyến khích bạn phát biểu xây dựng bài, siêng năng học bài để đạt
điểm tốt, động viện bạn nghiêm túc trong việc thực hiện nội qui, nề nếp,…
Trách nhiệm này của các học sinh khá, giỏi phải tiến hành thường xuyên và
tận tuỵ không chỉ diễn ra ở trên lớp học mà cả thời gian ngoài giờ lên lớp.
GVCN sẽ hướng dẫn, thúc đẩy và theo dõi, giám sát kĩ việc này, đặc biệt là
những nhóm h
ọc ngoài giờ lên lớp, nhằm tránh trường hợp các em lợi dụng cơ hội
để tụ tập đi chơi. Phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để thực hiện tốt công việc
này.
2.4. Thi đua, khen thưởng để thúc đẩy quá trình tự học của học sinh yếu
và cá biệt
Mỗi bàn học sẽ thi đua với nhau về kết quả học tập cũng nh
ư nề nếp. Cuối
mỗi tuần điểm tính thi đua cho mỗi bàn là căn cứ phần lớn dựa trên sự tiến bộ của
các bạn học sinh có lực học yếu và cá biệt: soạn bài, làm bài tập, phát biểu xây
dựng bài bao nhiêu lượt, đạt được bao nhiêu điểm tốt, việc thực hiện nội qui, nề
nếp,… Tuyệt đối nghiêm cấm việc chép bài, làm bài hộ.
Phân công chấm đi
ểm thi đua cho mỗi bàn: Bàn 1 chấm bàn 2, bàn 2 chấm
bàn 3 và cứ thế. Nội dung chấm thi đua giữa các bàn cụ thể như sau:

Tuần
(ngày/
tháng/năm)



Bàn
học
Nội dung thi đua

Tổng
điểm


Xếp
loại
Soạn
bài, làm
bài tập
(1đ/hs)
Phát biểu
xây dựng
bài (1
đ/lượt)
Điểm tốt
(1đ/lượt, tính
luôn cho bài
kiểm tra)
Thực hiện nội qui,
nề nếp và tham gia
phong trào (trừ 1
điểm/1 lần vi phạm




Bàn học nào có số điểm thi đua cao nhất sau mỗi tuần được thưởng năm
mươi nghìn đồng (Tùy vào tình hình kinh tế của địa phương mà đề nghị mức
thưởng cho phù hợp) và được miễn trực nhật cho tuần học tới. Tiền thưởng sẽ
được cộng dồn và trao thưởng vào cuối học kì.
Bàn học nào có số điểm thi đua thấp nhất sau mỗi tuần sẽ trực nhật thay cho
bàn có số điểm cao nhất trong tuần đó.
Tổng kết mỗi tháng mà có bàn học hai lần bị điểm thấp, GVCN phải mời
phụ huynh của các em lên làm việc, để phối hợp cùng nhà trường thúc đẩy và giáo
dục các em.
Nguồn khen thưởng sẽ trích từ quỹ Hội cha mẹ học sinh của lớ
p.
Số điểm thi đua trong mỗi tuần là cơ sở để xếp loại hạnh kiểm cuối mỗi học
kì.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Đánh giá hiệu quả đề tài là một trong những nội dung rất quan trọng; Bởi
hiệu quả đó có tác dụng làm sáng tỏ tính đúng đắn, khẳng định tính khả thi của
những đề xuất trong đề tài. Việc đánh giá hi
ệu quả đề tài được tiến hành bằng
cách:
1. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm theo các định hướng, biện pháp mà đề
tài đã đề xuất;
2. Kiểm tra, đánh giá chất lượng hai mặt giáo dục của một lớp chủ
nhiệm cụ thể. Vào đầu HKII, chúng tôi đã định hướng cho GVCN lớp 12C12
thực hiện một số giải pháp mà đề tài đề xuất. Và Kết quả khảo sát ch
ất lượng
học tập, quá trình rèn luyện đạo đức của học sinh và thi đua phong trào, thực hiện
nề nếp, nội qui đã thu được như sau:






Học

Chất lượng
haimặt
giáo dục
và tỉ lệ
đạt
yêu
cầu
Lớp chủ
nhiệm12
C12






Chất lượng học tập






Chất lượng rèn luyện đạo đức
Giỏi khá TB Yếu kém Tốt khá TB Yếu kém

Học
kì I
45 học
sinh

0

9

28

8

0

15

22

8

0

0
Học
45 học

kì II
sinh
01 20 22 2 0 43 2 0 0 0

Thi đua phong trào, thực hiện nề nếp, nội qui:
- Giải nhì báo tường.
- Giải nhì nề nếp.
- Giải khuyến khích về cắm trại.
- Hai giải ba và một giải nhì về thể dục thể thao.
3. Nhận xét:
Có thể dễ dàng nhận thấy, tỉ lệ chất lượng hai mặt giáo dục của lớp 12 C12
trong học kì 2 cao hơn học kì 1(nguồn minh chứng được ghi nhận trong hồ
sơ của
nhà trường). Từ những kết quả thu nhận được trong quá trình ứng dụng xây dựng
kế hoạch chủ nhiệm theo các định hướng, biện pháp mà đề tài đã đề xuất, chúng
tôi mạnh dạn khẳng định rằng, vấn đề mà đề tài nghiên cứu hoàn toàn phù hợp với
lí luận và thực tiễn giáo dục. Kết quả thực nghiệm bước đầu đã khẳng định tính
khả
thi, tính hiệu quả của các biện pháp mà đề tài đã đưa ra. Các đề xuất của đề tài
được giáo viên và học sinh đánh giá cao.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Công tác chủ nhiệm là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác giáo dục của
Nhà trường. Nó góp phần to lớn trong việc nâng cao chất lượng học tập, xây dựng
và rèn luyện đạo đức, nhân cách của học sinh. Nhà trường và giáo viên phải xác
định, mình chính là nơi để giúp các em tr
ở thành những công dân tốt, tạo nên
những “sản phẩm” giáo dục tốt nhất mà xã hội yêu cầu. Chúng tôi cho rằng công
tác chủ nhiệm là một nhiệm vụ không hề dễ dàng, công tác này đòi hỏi ở người
thầy không chỉ có “tâm” mà phải có sự tinh tế, khéo léo và nghệ thuật để ứng xử
cho phù hợp. Trong đó, công tác giáo dục, hướng dẫn và thúc đẩy quá trình tự học
cho những học sinh có lực học yếu, cá biệt là m
ột trong những nhiệm vụ khó khăn
nhất, đòi hỏi sự tỉ mỷ, nỗ lực, tân tâm của thầy cô chủ nhiệm.
Nâng cao được chất lượng học tập của học sinh có lực học yếu, học sinh cá

biệt có một ý nghĩa rất to lớn đối với nhà trường và xã hội; thành công trong giáo
dục học sinh có lực học yếu, cá biệt sẽ góp phần quan trọng trong việc giữ gìn an
ninh tr
ật tự xã hội và cung cấp cho xã hội những công dân tốt, có tri thức. Đối với
gia đình, CMHS, việc giáo dục và nâng cao chất lượng học tập cho học sinh yếu,
cá biệt sẽ đem lại nguồn hạnh phúc lớn lao cho họ, giúp họ tránh được nỗi bất
hạnh lớn nhất là con cái hư hỏng, không có kiến thức để định hướng, lập nghiệp
trong tương lai. Đối với nhà trường nói chung và tập thể lớp nói riêng, đó là điều
kiện đảm bảo cho trường, lớp có chất lượng học tập ổn định, trật tự, nề nếp, các
thành viên trong lớp sẽ cùng nhau tu dưỡng và học tập đạt kết quả cao.
Nâng cao được chất lượng h
ọc tập cho học sinh có lực học yếu, học sinh cá
biệt là một vấn đề không phải mới, nhưng cũng là vấn đề không hề cũ. Để có được
những biện pháp giáo dục học sinh yếu và học sinh cá biệt hiệu quả, đòi hỏi người
giáo viên chủ nhiệm phải có tâm huyết và trách nhiệm cao trong công tác chủ
nhiệm. Chúng tôi tin tưởng rằng, những biện pháp giáo dục mà đề tài đưa ra sẽ là
m
ột gợi ý nhỏ, bồi dưỡng nghiệp vụ chủ nhiêm cho giáo viên nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục về mọi mặt cho lớp chủ nhiệm.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu bồi dưỡng công tác chủ nhiệm trường trung học, Nhóm tác giả
trường cán bộ quản lí giáo dục, TPHCM 2010.
2. Tài liệu tập huấn công tác giáo viên chủ nhiệm trong trường trung học
cơ sở, trung học phổ thông, Nguyễn Thanh Bình và nhóm tác giả, Hà N
ội 2011.
3. Sổ chủ nhiệm, Sở GD&ĐT Đồng Nai, năm 2011-2012.
4. Công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông, Hà Nhật Thăng, NXBGD,
1998. 5. Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, Thái Duy Tuyên,
NXBGD, 2008
6. Và một số tài liệu, tạp chí, trang Web khác.


NGƯỜI THỰC HIỆN




Nguyễn Đức Bảng












SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
TRƯỜNG THPT VÕ TRƯỜNG TOẢN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Cẩm Mỹ, ngày 29 tháng 05 năm 2013
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012 – 2013

Tên sáng kiến kinh nghiệm:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN VÀ THÚC ĐẨY
QUÁ TRÌNH TỰ HỌC CỦA HỌC SINH YẾU VÀ CÁ BIỆT TRONG LỚP CHỦ

NHIỆM
Họ và tên tác giả: Nguyễn Đức Bảng Phó hiệu trưởng
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục
Phương pháp dạy học bộ môn

Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác: …………………

1. Có tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới:

- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có:

2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp
dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao

- Hoàn toàn mới và đã triển khai ápdụng tại đơn vị đạt hiệu quả cao
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và triển khai áp dụng
tại đơn vị có hiệu quả

3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính
sách: Tốt
Khá Đạt
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực
hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt

Khá
Đạt

- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt
hiệu quả trong phạm vi rộng : Tốt
Khá Đạt
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN
VỊ







SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
TRƯỜNG THPT VÕ TRƯỜNG TOẢN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO
THÀNH TÍCH ÔNG NGUYỄN ĐỨC BẢNG ĐỀ NGHỊ DANH HIỆU
CHIẾN SĨ THI ĐUA CẤP CƠ SỞ
I. Sơ yếu lý lịch bản thân và chức năng nhiệm vụ được giao.
1. Sơ yếu lý lịch:
- Họ và tên: NGUYỄN ĐỨC BẢNG
- Năm sinh: 16/09/1976
- Quê quán: Xã Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, Tỉnh Quảng Ngãi
- Chức danh: Phó hiệu trưởng trường THPT Võ Trường Toản.
2. Nêu chức năng, nhiệm vụ được giao: Phụ trách cơ sở vật chất và các
hoạt động ngoài giờ lên lớp.


II. Thành tích đạt được trong các năm qua:
- Năm học 2006 -2007: Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh (giấy khen của Sở
GD&ĐT Đồng Nai).
- Năm học 2006 -2007: Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở (giấy khen của Sở
GD&ĐT Đồng Nai).
- Năm học 2009 -2010: Gương điển hình tiên tiến của nghành (kỉ niệm
chương của Sở GD&ĐT Đồng Nai).
- Năm học 2011-2012: có sáng kiến kinh nghiệm với đề tài có tính khả thi
cao trong cơng tác chủ nhiệm: Một số biện pháp giúp đỡ, rèn luyện học sinh yếu
và cá biệt trong lớp chủ nhiệm.
- Năm học 2011-2012: Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở (giấy khen của Sở
GD&ĐT Đồng Nai).
- Ln ln là một Đảng viên ưu tú của chi bộ.
- Ln tích cực học tập, trau dồi để nâng cao năng lực quản lí giáo d
ục (Đã
tốt nghiệp khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản li giáo dục)
- Bản thân ln chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách pháp luật của nhà
nước.
III. Kết quả khen thưởng :
- Năm học 2009 – 2010: đạt danh hiệu lao động tiên tiến năm học 2009 –
2010 vào sổ khen thưởng số 519/QĐKT ngày 31 tháng 05 năm 2010.
- Năm học 2010 – 2011: đạt danh hiệu lao động tiên tiến năm học 2010 –
2011 vào sổ khen thưởng số
465/QĐKT ngày 28 tháng 06 năm 2011.
- Năm học 2011-2012: Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở (giấy khen của Sở
GD&ĐT Đồng Nai).

Cẩm Mỹ, ngày 29 tháng 5 năm 2013
Xác nhận của Ban Lãnh Đạo Người viết thành

tích
Hiệu Trưởng






Phan Duy Khánh Nguyễn Đức Bảng

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

I. THƠNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Nguyễn Đức Bảng
2. Ngày tháng năm sinh: 16/09/1976
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: Số 112, tổ 4, ấp Bể Bạc, xã Xuân Đông, Cẩm Mó, Đồng Nai.
5. Điện thoại: : 061 3749688 (Cơ quan); ĐTDĐ: 0908 965964.
6. Fax: E-mail:
7. Chức vụ: Phó hiệu trưởng.
8. Đơn vị cơng tác: Trường THPT Võ Trường Toản.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chun mơn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2000.
- Chun ngành đào tạo: vật lí – điện tử.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chun mơn có kinh nghiệm: Dạy học và quản lí
- Số năm có kinh nghiệm: dạy học 11 năm; quản lí 2 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 01 (Đề tài: M
ột số

biện pháp giúp đỡ và rèn luyện học sinh yếu, cá biệt trong lớp chủ nhiệm)








×