Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh cá biệt ở lớp 8a trường THCS ngọc phụng, thường xuân, thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 18 trang )

Mục Lục
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.3. Các giải pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của SKKN
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài

Trang
2
2
3
3
3
4
4
5
5
16
16


16
17


2
Dân tộc Việt Nam chúng ta từ ngàn đời xưa đã có truyền thống “tôn sư
trọng đạo” và có những câu nói vô cùng giản dị mà chứa đựng những ý nghĩa
sâu sắc về vấn đề Đạo và Thầy. Thầy là người vạch đường chỉ lối cho mỗi người
“Không thầy đố mày làm nên”. Trong mỗi chúng ta vẫn tự luôn nhắc mình rằng
“Tiên học lễ, hậu học văn” điều đó nói lên vai trò quan trọng của việc giáo dục
đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh. Nói đến đức là người ta có thể dễ ràng hiểu
đó là những kỹ năng sống sao cho có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Đó là
những kỹ năng điều chỉnh hành vi của bản thân trước sự thay đổi của môi trường
sống. Đặc biệt đối với những người làm công tác giáo dục thì vấn đề này phải
đặc biệt được quan tâm. Tuy nhiên không phải thầy, cô ai cũng nắm rõ các biện
pháp giáo dục đặc biệt là biện pháp giáo dục đối với những học sinh cá biệt sao
cho có hiệu quả cao nhất.
Từ thực tế cho thấy rằng trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học
sinh khác nhau không phải em học sinh nào cũng ngoan và học giỏi. Người ta
thường nói “nhất qũy nhì ma thứ ba học trò” nên trong một lớp học sẽ có nhiều
em hiếu động thường xuyên vi phạm kỷ luật của nhà trường, của lớp đề ra sẽ
ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học của thầy cô giáo và các bạn học sinh trong
lớp.
Trong quá trình dạy học và giáo dục bên cạnh việc dạy cho học sinh
những kiến thức khoa học thì nhà trường còn có vai trò rèn luyện đạo đức, giáo
dục các kỹ năng sống cho học sinh nhằm trang bị cho các em những kỹ năng
sống phù hợp. Trên cơ sở đó để các em hình thành những hành vi, thói quen lành
mạnh, tích cực và có khả năng điều chỉnh, giải quyết và quản lý hành vi, thái độ
của mình trước các tình huống nảy sinh trong cuộc sống nhằm loại bỏ những
thói quen, hành vi tiêu cực.

Công tác giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh gắn chặt với vai trò
của giáo viên chủ nhiệm (GVCN) đặc biệt trong việc giáo dục học sinh cá biệt.
Mỗi thầy cô với tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của mình bằng
mọi cách phải giúp các em có được nhận thức đúng đắn về thái độ và hành vi
ứng xử được thể hiện trong cuộc sống, lao động, học tập để uốn nắn các em giúp
các em trở thành con ngoan, trò giỏi.
Xuất phát từ lòng yêu nghề và trách nhiệm của người giáo viên trực tiếp
đứng lớp đồng thời là một giáo viên chủ nhiệm lớp bản thân tôi nhận thấy rằng
vai trò của giáo viên không những dạy cho học sinh những tri thức mà còn dạy
cho các em những hành vi tích cực về đạo đức, về lẽ sống đặc biệt là giúp cho
những học sinh cá biệt nhận ra được những sai lầm của mình để biết cách khắc
phục trở thành người có nhân cách tốt giúp ích cho gia đình và xã hội.
Là một giáo viên chủ nhiệm nên bản thân tôi có nhiều điều kiện tiếp xúc
với nhiều đối tượng học sinh như: học sinh xuất sắc, học sinh ngoan, học sinh
khá, học sinh trung bình và cả học sinh “không ngoan” mà các em được gắn cho
mình cái mác là “học sinh cá biệt” đáng nói nhất là có những học sinh bị đưa ra


3
hội đồng kỷ luật nhà trường hoặc bị đình chỉ thôi học. Vì vậy vấn đề đăt ra cho
tất cả những ai làm công tác giáo dục là làm thế nào để giúp các em phát triển
lành mạnh, đúng hướng để trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.
Từ thực tế qua nhiều năm làm công tác giảng dạy và cũng nhiều năm làm
công tác chủ nhiệm tôi nhận thấy rằng giáo dục học sinh nói chung và giáo dục
dạo đức, kỹ năng sống học sinh cá biệt ở lớp chủ nhiệm nói riêng vô cùng khó
khăn về mọi mặt. Bản thân tôi đã từng băn khoăn, trăn trở: Do đâu mà số học
sinh chưa ngoan ở các lớp vẫn còn nhiều? Các kinh nghiệm và các biện pháp tôi
đã và đang giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm đã thật sự hiệu quả? Với tinh thần
chung và mục tiêu của giáo dục hiện nay thì giáo viên chủ nhiệm phải xử trí các
vấn đề nêu trên như thế nào để đạt được mục tiêu hình thành nhân cách học sinh

một cách toàn diện về Đức – Trí - Thể - Mỹ?
Từ lý do trên mà bản thân tôi đã trăn trở, suy nghĩ và viết nên đề tài
nghiên cứu: “Giáo dục đạo đức, rèn luyện kỷ năng sống cho học sinh cá biệt ở
lớp 8A trường THCS Ngọc Phụng, Thường Xuân” với đề tài này tôi hy vọng sẽ
góp phần vào công tác giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh cá biệt.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu về vấn đề này bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp cho
những học sinh cá biệt từng bước thay đổi thái độ và hành vi của mình trong
cuộc sống và học tập theo hướng tích cực. Giúp các em biết coi trọng bản mình
và xác định việc học sẽ phục vụ bản thân, phục vụ cho đất nước.
Nghiên cứu lý luận về công tác chủ nhiệm lớp đã thể hiện vai trò của giáo
viên như thế nào trong công tác giáo dục đạo đức học sinh và đã đạt kết quả như
thế nào?
Xác định vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội ảnh hưởng đến sự hình
thành nhân cách của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp.
- Học sinh lớp 8A trường THCS Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân.
1.4. Phương pháp ghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thông tin lý luận vai
trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể
của học sinh.
- Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn,
học sinh trong lớp, hội cha mẹ học sinh, bạn bè và hàng xóm của học sinh.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường,
Đoàn - Đội.



4
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác
trong trường.
- Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo
dục đạo đức, rèn kỹ năng sống học sinh cá biệt ở lớp 8A trường THCS Ngọc
Phụng, huyện Thường Xuân.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh ghiệm
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh là vấn đề hết sức quan trọng trong
giai đoạn phát triển xã hội hiện nay. Chính vì vậy mà Bác Hồ đã từng nói “Có tài
mà không có đức thì là người vô dụng còn có đức mà không có tài thì làm việc
gì cũng khó”. Thật vậy, ngoài việc học tập thì việc rèn luyện đạo đức, kỹ năng
sống cho học sinh là vô cùng quan trọng.
Trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh thì sự kết hợp giữa gia
đình, nhà trường và xã hội là vô cùng quan trong. Vì vậy để giáo dục tốt đạo
đức, kỷ năng sống cho học sinh phải kết hợp chặt chẽ với ba môi trường giáo
dục này.
Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò khác nhau trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách, đạo đức và lối sống cho học sinh trong đó thì nhà
trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng trong việc phối hợp với
gia đình và xã hội.
Bên cạnh đó hiện nay Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm và đầu tư cho giáo
dục, bằng nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Trong toàn ngành giáo dục đang thực hiện cuộc vận động hai không với bốn nội
dung”, phong trào thi đua “mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học
và sáng tạo”, “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” để hướng đến
một môi trường giáo dục lành mạnh là nơi ươm những mầm xanh cho đất nước.
Thực tế hiện nay môi trường sống đang còn nhiều biểu hiện tiêu cực đặc
biệt là sự phát triển vượt bậc của mạng xã hội đã tác động tiêu cực đến môi
trường giáo dục và không ngừng ảnh hưởng đến sự hình thành đạo đức, nhân

cách và lối sống của học sinh đẫn đến các em có những hành vi lệch lạc không
phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của học sinh. Vì vậy giáo viên chủ
nhiệm cần kết hợp và phát huy tốt các mối quan hệ trên nhằm giáo dục đạo đức,
kỹ năng sống cho hoc sinh thông qua những bài học về tình yêu quê hương, đất
nước, về lịch sử chiến đấu của các anh hùng dân tộc để bảo vệ quyền tự do dân
chủ của đất nước, những diễn biến về tình hình của đất nước thời hòa bình, và
nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi học sinh là những công dân tương lai làm chủ
của đất nước.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay do sự phát triển mạnh mẽ của xã hội, của công nghệ thông tin
thì giáo dục dạo dức cho học sinh là vấn đề vô cùng khó khăn và nan giải đối


5
với đội ngủ giáo viên dặc biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp. Do chịu ảnh hưởng
một phần của xã hội nên đạo đức của học sinh đang có chiều hướng sa sút nên
những biểu hiện sai lệch về phẩm chất đạo đức, thiếu những kỹ năng sống cơ
bản của học sinh ngày càng gia tăng và sự vi phạm đạo đức không chỉ bó hẹp là
đối tượng học sinh nam như những năm trước đây mà hiện nay đã xãy ra với đối
tượng là học sinh nữ ngày càng nhiều. Đặc biệt có những em buộc phải nhận
hình thức kỷ luật thôi học vì đánh nhau hội đồng do mâu thuẫn trên mạng xã hội
đã làm xôn xao dư luận xã hôi trong những năm vừa qua.
Qua tìm hiểu tại một số trường trên địa bàn của huyện tôi nhận thấy rằng
việc giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh đã được quan tâm thông qua
viêc tổ chức hoạt động trong và ngoài giờ lên lớp giúp hình thành các thói quen
tốt cho học sinh tuy nhiên chưa đem lại hiệu quả cao vì vẫn còn tình trạng làm
cho có hoặc qua loa chiếu lệ, nội dung đang còn sơ sài, phương pháp giảng dạy
chưa hấp dẫn và chưa tổ chức được các hoạt động dã ngoại vì nhiều lý do.
Một thực tế hiện nay đã và đang diễn ra tại các trường THCS nói chung
và trường THCS Ngọc Phụng nói riêng là hiện tượng học sinh vi phạm đạo đức

đang có chiều hướng gia tăng, tình trạng học sinh nghỉ học vô lý do, chơi điện tử
đang được báo động. Nặng hơn là có những trường hợp học sinh vô lễ với các
thầy, cô giáo đang trực tiếp giảng dạy. Nhìn chung những biểu hiện của các em
là chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình- nhà trường- xã hội, những ảnh
hưởng bởi hoàn cảnh gia đình, môi trường sống ngài xã hội đã tác động đến quá
trình hình thành nhân cách và kỹ năng sống của học sinh.
Từ năm học 2017-2018 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 6A cho đến
năm hoc 2019- 2020 các em đã lên lớp 8A. Nên ngay từ khi mới nhận lớp qua
kết quả khảo sát đầu năm cũng như qua tìm hiểu thực tế từng đối tượng học sinh
trên lớp bằng tiếp xúc trực tiếp với từng học sinh tôi nhận thấy rằng: tập thể lớp
chưa mạnh, nề nếp còn yếu và nỗi lên có 9/31 học sinh cá biệt với các biểu hiện
ở: Kết quả khảo sát đến cuối tháng 9 năm lớp 6 năm học 2017- 2018 trong bảng
Số
lượng
2
1
5
1

Biểu hiện sai lệch về hạnh kiểm, đạo đức
Có những thái độ vô lễ với giáo viên, hay vi phạm các nội quy của
lớp
Hay nghĩ học, không mang sách giáo khoa, vở ghi, không ghi bài.
Hay nói chuyện riêng trong lớp, không học bài cũ, không đeo khăn
quàng , thẻ
Đánh nhau với bạn

2.3. Giải pháp được sử dụng để giải quyết vấn đề



6
Đứng trước tình hình thực tế của lớp chủ nhiệm bản thân tôi rất băn khoăn
và trăn trở để làm sao tìm ra biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng học
sinh nhưng phải đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Bằng kinh nghiệm thực tế
của bản thân cùng với sự tham khảo ý kiến của đồng nghiệp bản thân tôi đã áp
dụng các biện pháp giáo dục sau:
2.3.1. Ổn định tổ chức lớp và nắm bắt tình hình của lớp chủ nhiệm
Đây là việc đầu tiên mà giáo viên chủ nhiệm cần phải làm để nắm bắt
được tình hình của lớp: sĩ số, nam, nữ, đối tượng học sinh, số điện thoại liên lạc
với gia đình….
- Đưa ra các quy định về xếp loại hạnh kiểm của học sinh hàng tuần, hàng
tháng với mức điểm cụ thể đạt được.
- Ổn định tổ chức lớp, chia tổ sắp xếp chỗ ngồi, bầu ban cán sự lớp thông
qua sự tín nhiệm của học sinh và quan sát của giáo viên.
- Giáo viên chủ nhiệm bước đầu tiên phải tìm hiểu kỉ các đặc điểm phát
triển tâm, sinh lý của từng học sinh, hoàn cảnh gia đình của từng em để tiến
hành phân luồng học sinh nắm bắt kịp thời những học sinh cần được quan tâm,
theo dõi(học sinh cá biệt).
2.3.2. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt
Việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hiện tượng cá biệt của học sinh sẽ
quyết định đến việc lựa chọn phương pháp và hiệu quả của phương pháp giáo
dục học sinh cá biệt. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt như:
- Ảnh hưởng từ xã hội: Do các dịch vụ giải trí không lành mạnh, phim ảnh
bạo lực, phim ảnh tình cảm lứa đôi không phù hợp với lứa tuổi đã trở nên phổ
biến và dễ tìm kiếm nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Các
quán Intenet đã hấp đẫn và lôi cuốn các em vào những trò chơi vô bổ.
- Ảnh hưởng từ gia đình: Gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn bố mẹ
phải lao động vất vả, đi làm xa không có thời gian quan tâm đến việc học của
con em mà phó mặc cho nhà trường. Gia đình có bố mẹ sống bất hòa không
hạnh phúc... Lứa tuổi học sinh rất nhạy cảm, những cuộc cải vả của bố mẹ, sự to

tiếng và bạo lực của người lớn làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng đến tâm
sinh lý từ đó mà nảy sinh những tiêu cực trong cuộc sống.
- Ảnh hưởng từ bản thân học sinh: Do tư chất học sinh chậm trong nhận
thức, chậm hiểu bài … nên bỏ học, bỏ giờ đần đần hình thành thói quen hay bỏ
giờ dẫn đến học lực sa sút. Do đặc điểm phát triển tâm sinh lý không bình
thường, không tập trung nghe giảng, tiếp thu hạn chế dẫn đến ý thức học kém
thuường xuyên quậy phá không tập trung trong học tập.
2.3.3. Tìm hiều đặc điểm của học sinh cá biệt


7
Để đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp đối với những học sinh có
những biểu hiện cá biệt sao cho đạt được hiệu quả cao thì trước hết giáo viên
chủ nhiệm cần phải nắm rõ những đặc điểm tâm lý của học sinh cá biệt như:
- Biểu hiện cụ thể ở học sinh cá biệt là sự thỏa mãn rất không bình thường
các nhu cầu vật chất, tinh thần mà sự thỏa nãm nhu cầu này lại phản ánh sự phát
triển lệch lạc về các nhu cầu đó.
- Theo thời gian, các yêu thích lệch lạc, các sai lầm tích tụ lại hình thành ở
các em tâm lý phản xã hội, chống đối mọi điều bình thường của xã hội. Lâu dần
những học sinh này càng sa vào những thiếu sót, khuyết điểm. Mặc dù bản thân
các em vẫn biết là sai nhưng vẫn tìm cách che đậy những khuyết điểm của mình.
- Một trong những tính cách đặc trưng của học sinh cá biệt còn là thái độ
bất chấp mọi ảnh hưởng giáo dục, coi thường hoặc phủ nhận các thầy, cô giáo.
Nguyên nhân sâu xa hình thành thái độ này là do nếp sống, hậu quả lối sống sai
trái của gia đình. Tình trạng này kéo dài sẽ để lại cho trẻ những vết hằn, những
mất mát trong tình cảm và cuối cùng là sự đổ vỡ niềm tin với người lớn dẫn đến
các em mất niềm tin vào chính bản thân mình.
Đối với phương pháp này đã được bản thân tôi áp dụng nhiều lần và đã
giúp tôi hiểu rõ hơn về học sinh ở nhiều mặt như: về tâm lý, hoàn cảnh, và hành
vi của học sinh…. Để từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng cá biệt ở học

sinh để có cách giải quyết, uốn nắn các em sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
2.3.4. Tiếp xúc với học sinh cá biệt
Đây là hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học
tập thân thiện. Giáo viên chủ nhiệm có tiếp xúc thường xuyên với học sinh cá
biệt mới biết được các em biết gì và cần gì, các em là người như thế nào, có
hoàn cảnh gia đình ra sao. Quan trọng hơn cả là thông qua tiếp xúc bằng tình
thương yêu của một người giáo viên giành cho học sinh sẽ rút ngắn được khoảng
cách giữa thầy và trò lúc này các em không còn e ngại, rụt rè mà trở nên gần gũi
hơn đối với giáo viên để có thể chia sẻ và nói lên được điều mà các em mong
muốn.
Có nhiều cách để giáo viên tiếp cận học sinh như: Trong giờ học giáo viên
có thể gọi học sinh phát biểu ý kiến xây dựng bài, trong giờ nghỉ giải lao giáo
viên có thể nói chuyện, hỏi thăm học sinh hoặc giảng những câu hỏi và bài tập
cho học sinh. Giáo viên có thể gặp riêng học sinh để nói chuyện một cách nhẹ
nhàng, chân thành, phân tích cho học sinh hiểu rõ mức độ nguy hại của những
hành vì mà các em mắc phải và hậu quả sẽ như thế nào nếu thường xuyên diễn ra.
Khi tiếp xúc với học sinh bản thân tôi luôn kiên nhẫn, kiềm chế, cố gắng
học cách lắng nghe và luôn đặt mình vào hoàn cảnh, vị trí của học sinh để hiểu
được nguyên nhân, hiểu được tâm tư nguyện vọng của các em để có những biện
pháp giáo dục đúng đắn phù hợp với từng đối tượng học sinh. Bằng tình yêu
thương chân thành tôi sẽ đóng cả ba vai trò vừa là cô vừa là mẹ và vừa là bạn


8
luôn quan tâm giúp đỡ các em tận tình và dành thời gian nói chuyện, tâm sự
cùng các em, chia sẽ những khó khăn, niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Bằng
tình yêu thương chân thành tôi tin rằng các em sẽ cảm nhận được và dần dần sẽ
cảm hóa được các em.
Sau khi tiếp xúc nhiều lần với học sinh tôi nhận thấy rằng không những
hiểu được học sinh mà còn tạo được sự tin tưởng và có được tình cảm của học

sinh đối với mình. Vì vậy đã tạo được tâm lý thoải mái, thân thiện, rút ngắn
khoảng cách giữa thầy và trò giúp học sinh có thể nhận ra rằng thầy cô không hề
gét mình. Từ đó học sinh có cơ hội để tâm sự và chia sẻ với thầy cô nhiều hơn.

Hình 1: Giáo viên tiếp xúc với học sinh thông qua giờ học
2.3.5. Phát huy tốt vai trò của BGH, phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm
trong giáo dục học sinh cá biệt
Hiện nay có thể nói rằng trong công tác giáo dục đạo đức, kỹ năng sống
cho học sinh không còn là việc riêng của nhà trường nữa mà phải nhắc tới vai
trò của giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh. Để đạt được hiệu quả cao
thì giáo viên chủ nhiệm phải là người biết cách phát huy vai trò chủ đạo của ban
giám hiệu và là cầu nối giữa nhà trường và phụ huynh học sinh. Có như vậy,
chúng ta mới làm tốt công tác giáo dục và thực hiện tốt đường lối “Xã hội hóa
giáo dục” của Đảng và Nhà Nước đã vạch ra.


9
- Ban giám hiệu nhà trường: Phải đi sâu, đi sát vào tình hình cụ thể, thực
tế của lớp nhất là những học sinh cá biệt của lớp để có kế hoạch kết hợp với gia
đình để lập nên kế hoạch giúp đỡ toàn diện cho học sinh. Trong các buổi chào cờ
Ban giám hiệu nhà trường cùng Tổng phụ trách Đội cố gắng tìm ra sự tiến bộ
của các em dù là nhỏ nhất để nêu gương.
- Giáo viên chủ nhiệm: Thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh để
cung cấp thông tin của các em cho phụ huynh biết một cách kịp thời. Trên cơ sở
đó phụ huynh học sinh sẽ tiếp tục phối hợp với ban giám hiệu nhà trường để
giáo dục các em.
- Giáo viên chủ nhiệm phối hợp với giáo viên bộ môn qua từng tiết dạy có
thể bỏ ra một khoảng thời gian để động viên khen ngợi về sự tiến bộ của các em
tạo nên sự gần gũi, một niềm tin trong học tập về thầy cô giáo của mình.
- Cha mẹ học sinh và hội phụ huynh học sinh: là điều kiện để hạn chế và

giáo dục học sinh cá biệt vì học sinh hình thành nhân cách chính từ mối trường
sống trong gia đình. Cha mẹ phải thật sự gương mẫu là chỗ đựa tinh thần vũng
chắc cho học sinh nhất là những lúc các em cố sự thay đổi về mặt tâm lý, tình cảm.
Đối với phương pháp này bản thân tôi đã từng áp dụng nhiều lần và đều
đem lại kết quả tốt trong việc khắc phục những hành vi sai lệch của học sinh
bằng biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa Ban giám hiệu nhà trường, giáo viên chủ
nhiệm và phụ huynh học sinh. Cụ thể là học kỳ I năm học 2019- 2020 tôi đã áp
dụng với các đối tượng học sinh có biểu hiện khác nhau và cũng đã thu được kết
quả nhất định.
Cụ thể như em L.N.A mặc dù là học sinh nữ nhưng có thể nói rằng em là
một học sinh cá biệt nổi cộm của lớp và thường xuyên có thái độ vô lễ với giáo
viên bộ môn đồng thời hay vi phạm các nội quy như: không đeo khăn quàng,
thẻ, mặc trang phục không theo quy định của học sinh, không ghi chép bài,
không tham gia các hoạt động của lớp như vệ sinh khu vưc tự quản, chăm sóc
vườn hoa cây cảnh...
Mặc dù đã được nhắc nhở nhiều lần nhưng em vẫn không tiến bộ. Nhờ có
sự quan tâm và kết hợp chặt chẽ giữa ban giám hiệu nhà trường, giáo viên chủ
nhiện và qua nhiều lần trao đổi giữa ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm với phụ
huynh học sinh để phụ huynh nắm bắt tình hình thì bước đầu học sinh đã có sự
tiến bộ. Đồng thời tôi đã nhiều lần chủ động nói chuyện và chia sẽ động viên để
hiểu được một phần nào đó điễn biến tâm lý của hoc sinh nhằm đưa ra biện pháp
phù hợp. Bằng sự chân thành mình học sinh đã nhận đươc cái sai của mình và có
hướng khắc phục không tái phạm.
Có thể nói rằng trong khoảng thời gian làm công tác chủ nhiệm lớp đây là
em học sinh mang lại cho tôi nhiều trăn trở nhất có những lúc biện pháp giáo
dục tôi đưa ra không mang lại kết quả như mong muốn nhưng không phải vì thế
mà “ buông” vì bản thân tôi biết rằng nếu mình chọn như vậy thì cánh cửa tương


10

lai phía trước của em sẽ đóng lại và thay vào đó phải hành động cụ thể để giúp
em có một bước đệm vững vàng, một hành trang tri thức .

Hình 2: Học sinh chăm sóc cây cảnh
Để cho em có tinh thần trách nhiệm hơn với tập thể lớp tôi giao cho em
một nhiệm vụ đó là chăm sóc một chậu cây cảnh của lớp và hàng ngày em đã
tích cực đến sớm để hoàn thành nhiệm vụ của mình được giao và tham gia tích
cực các hoạt động tập thể cùng các bạn

Hình 3: Học sinh tham gia hoạt động văn nghệ


11
Bên cạnh đó em đã xác định được rõ ràng mục đích của việc học là gì? Và
để đạt được mục đích đó thì bản thân em phải có sự cố gắng bắt đầu từ những
hành động như chuẩn bị bài cũ ở nhà, trong lớp chú ý học, tích cực xây dựng
bài, chấp hành tốt mọi nội quy của nhà trường.
Với sự nổ lực của bản thân tôi trrong công tác chủ nhiệm cùng với sự giúp
đỡ của Ban Giám hiệu và các thầy, cô giáo bộ môn đặc biệt là sự cố gắng của
bản thân học sinh đã giúp em “thoát khỏi” mác của học sinh cá biệt để từ một
học sinh hay vô lễ với giáo viên, có học lực trung bình, sống khép kín không
tham gia bất kỳ một hoạt động tập thể nào cùng các bạn trở thành một học sinh
có học lực khá thường xuyên phát biểu ý kiến trong giờ học và trả bài trong khi
cô giáo kiểm tra bài cũ, sống hòa đồng với bạn bè và tích cực tham gia các hoạt
động ngoại khóa, hoạt đọng tập thể

Hình 4: Học sinh trong giờ kiểm tra bài cũ


12

2.3.6. Giáo dục thông qua sinh hoạt lớp cuối tuần
Việc giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh không thể thiếu những
buổi sinh hoạt lớp cuối tuần. Đây là thời điểm để mỗi học sinh tự đánh giá và
đánh giá hoạt động của lớp đồng thời sẽ tạo điều kiện cho những học sinh còn
nhút nhát, không giám trình bày ý kiến của mình trước đám đông có điều kiện
để trình bày ý kiến của mình thông qua đó sẽ rèn luyện được kỹ năng lắng nghe
và trình bày ý kiến của học sinh giúp các em mạnh dạn hơn tự tin hơn.
Để học sinh nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm tức là những
chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện hạnh kiểm của mình, giáo
viên chủ nhiệm thông báo cho các em biết được mức độ xếp loại hạnh kiểm
thông qua các tuần, tháng, học kỳ và cả năm học. Hiểu được thì các em sẽ cố
gắng tránh được những vi phạm để tránh liệt kê vào danh sách học sinh cá biệt.
Giờ sinh hoạt của lớp tôi phụ trách thường được bắt đầu bằng việc tóm tắt
kết quả học tập và rèn luyện của cả lớp trong tuần. Thông qua sổ đầu bài, sổ cờ
đỏ và các giáo viên bộ môn mà giáo viên chủ nhiệm nhận xét, đánh giá từng học
sinh một. Đặc biệt trong các tiết sinh hoạt đối với những học sinh cá biệt tôi luôn
trú trọng đến biện pháp nêu gương, kích lệ động viên tinh thần các em có sự cố
gắng dù là rất nhỏ trong học tập kịp thời hoặc kể những câu chuyện về tấm
gương đạo đức vượt khó vươn lên để cảm phục các em. Đó chính là động lực,
mục tiêu để các em cố gắng hơn nữa trong học tập.
Thông qua giờ sinh hoạt lớp giáo viên chủ nhiệm kịp thời uốn nắn những
sai trái, khuyết điểm của học sinh khi vi phạm. Đồng thời với sự chân thành của
giáo viên chủ nhiệm học sinh khi vi phạm sẽ nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa.
Trong khi giáo dục các em thì giáo viên chủ nhiệm không nên nặng về
kiểm điểm, phê bình mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động
đến các em làm cho các em mắc sai lầm, vận dụng các điều khoản trong nội quy,
quy chế xếp loại hạnh kiểm làm cho các em thấy vi phạm ở mức độ nào và nêu
ra hướng khắc phục.
2.3.7. Khen thưởng, xử phạt hợp lý
Đây là tuyệt chiêu nhằm tuyên dương kích lệ các em học sinh tốt. Đồng

thời việc khen ngợi động viên cực kỳ quan trọng đối với học sinh cá biệt hay
học sinh vô kỷ luật trong lớp. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm hãy tìm hiểu cơ hội để
khen ngợi các em khi nhận thấy học sinh cá biệt có những chuyển biến tích cực.
Bên cạnh đó giáo viên cần phải biết áp dụng các hình thức xử phạt sao
cho hợp lý bởi lẽ mục đích cuối cùng của xử phạt là giúp các em tiến bộ. Chẳng
hạn lớp có học sinh đánh nhau với bạn giáo viên có thể cho các em dừng việc
học ngồi yên lặng một mình để giảm căng thẳng, viết bản kiểm điểm để nhận ra
lỗi của mình. Đối với các em nghịch phá sẽ rất sợ hình thức xử phạt này khi phải
nhìn các bạn mình chơi đùa. Vì thế các em sẽ cố gắng không tái phạm nữa. Khen


13
thưởng ở đây có nhiều cách và bản thân tôi đã áp dụng trong mọi hoà cảnh khác
nhau như trong giờ học, trong sinh hoạt đầu tuần và sinh hoạt cuối tuần
Cụ thể ở lớp tôi chủ nhiệm có em N.D.K trong lớp em thường xuyên
không ghi chép bài, không chú ý học, hay nói tự do, nói chuyện trong lớp mặc
đù đã được giáo viên chủ nhiệm dùng nhiều biện pháp giáo dục như viết bản
kiểm điểm, phê bình trước lớp, mời phụ huynh, hạ hạnh kiểm…. nhưng em vẫn
không tiến bộ.
Có lần trong giờ học khi em K đang nói chuyện với bạn tôi gọi lên trả lời
câu hỏi và kết qủa là em đã không trả lời và tôi nói rằng “Nếu em không nói
chuyện, chú ý học và lần sau trả lời câu hỏi được thì cô cho em 9 điểm và không
trách phạt nữa”. Thật đáng mừng kể từ đó em K không còn nói chuyện nữa và
chú ý phát biểu ý kiến xây dựng bài. Sau nhiều lần tiến bộ em được cô giáo khen
ngợi trước tập thể lớp và bất ngờ được ban giám hiệu nhà trường khen ngợi
trong buổi chào cờ đầu tuần. Kể từ đó em K đã có tiến bộ rất nhiều và có ý thức
hơn trong học tập không nói chyện riêng và thường xuyên tham gia phát biểu
xây dựng bài.
Việc khen thưởng và xử phạt học sinh là cả một nghệ thuật, nếu biết khen
đúng lúc, đúng người, đúng chỗ thì rất hiệu quả nhưng ngược lại giáo viên

không quan tâm đến cảm xúc của học sinh không tìm hiểu nguyên nhân mà áp
dụng ngay các hình thức kỷ luật thì sẽ làm cho học sinh có cảm giác tự ti, mất
niềm tin vào giáo viên và bản thân sẽ làm cho học sinh không có hướng phấn
đấu để sửa những sai lầm. Đo đó giáo viên phải biết điểm mạnh của những học
sinh yếu để khen thưởng, động viên kích lệ kịp thời giúp các em tự tin hơn về
bản thân, có thể chia sẽ, tâm sự về những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống.

Hình 5: Ban giám hiệu khen thưởng học sinh
đạt kết quả học tập cao trong giờ chào cờ


14
2.3.8. Xây dựng lại niền tin ở học sinh cá biệt thông qua hoạt động tập thể,
hoạt động ngoài giờ lên lớp
Một điều quan trọng mà bất kỳ ai cũng dễ ràng nhận ra rằng bình thường
trẻ em có niềm tin vào thế giới người lớn, yêu thương mọi người xung quanh.
Nhưng vì lý do xã hội và hoàn cảnh phức tạp của cá nhân mà một số học sinh
niềm tin bị đổ vỡ, mặc cảm về chính bản thân. Vì vậy mà những người làm công
tác giáo dục cần khéo léo tinh thông để từng bước khôi phục lại giúp các em
hiểu đúng quy tắc xã hội và có lòng tin hơn đối với cuộc sống thông qua các
biện pháp như: giáo dục đạo đức, nhân cách sống thông qua các buổi trò chuyện,
đối thoại, nêu gương, tổ chức các hoạt động lao động, sinh hoạt thể dục thể thao,
sinh hoạt văn nghệ múa hát tập thể, các cuộc thi, kể chuyện Bác Hồ…..
Trong các hoạt động giáo dục vui chơi, hoạt động tập thể tôi luôn quan
tâm, tuyên dương, kích lệ các em kịp thời dù chỉ với một sự tiến bộ nhỏ nhất.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động sôi nỗi mà các em yêu thích, tạo điều kiện
cho tất cả học sinh đều được tham gia một cách tích cực có nhiều cơ hội thể hiện
năng lực của mình trước tập thể. Từ đó giúp các em tự tin hơn về bản thân và
đây là yếu tố quan trọng giúp các em ngày một tiến bộ hơn.
Đặc biệt tôi sẽ tạo lại niềm tin cho học sinh bằng cách tin tưởng giao cho

em một nhiệm vụ như làm tổ phó, lớp phó lao động… để học sinh ý thức được
vai trò, vị trí của mình, từ đó học sinh sẽ chủ động điều chỉnh lại hành vi của
mình cho phù hợp với chức trách và nhiệm vụ được giao.
Theo tôi phương pháp này rất có ý nghĩa và đem lại kết quả giáo dục tốt
đối với học sinh tự ti mất niềm tin vào bản thân. Thông qua các hoạt động giáo
dục kỹ năng sống sẽ giúp các em mạnh dạn hơn, có cơ hội bộc lộ những ưu điểm
của bản thân giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn.

Hình 6: Học sinh tham gia hoạt động thể dục thể thao


15
2.3.9. Kết hợp kỷ luật và tình thương
Đừng vì những biểu hiện nhất thời của học sinh mà gán ghép cho các em
cái tên “học sinh cá biệt” vì vô hình chung dã tách học sinh ra khỏi tập thể lớp,
cô lập các em mà thầy cô phải chú ý đến đặc điểm tâm lý lứa tuổi của các em
khi đang ở giai đoạn nhạy cảm và có những rối loạn của tuổi dạy thì với những
phản ứng không kiểm soát được nên cần phải được uốn nắm, định hướng ngay
từ khi các em mắc những lỗi nhỏ để tránh dẫn đến việc lớn phải dùng biện pháp
kỷ luật. Kỷ luật là hình thức giáo dục không chỉ giáo dục học sinh vi phạm mà
còn có tính răn de các em khác nữa. Vì vậy nên dùng đến kỷ luật nhưng là kỷ
luật kết hợp với tình yêu có như vậy người thầy mới không khắc sâu những vết
thương lên tinh thần của học trò về sau này. Đừng để các em học sinh rơi vào
trạng thái thấy mình là kẻ cá biệt và cô độc trong lớp rồi nảy sinh những biểu
hiện tiêu cực. Mục đích của việc làm này là “giơ cao đánh khẽ” và với mong
muốn giúp học sinh có kỷ luật tốt hơn.
Phương pháp này tôi đã áp dụng nhiều lần với từng đối tượng học sinh có
hững biểu hiện khác nhau và đều mang lại hiệu quả. Cụ thể là trong học kỳ I
năm học 2019- 2020 lớp tôi chủ nhiệm có em N.T.H có biểu hiện thường xuyên
nghỉ học, có dấu hiệu nghiện chơi geme và muốn bỏ học. Mặc dù đã áp dụng

nhiều biện pháp kỹ luật từ nhẹ đến nặng nhưng vẫn không đem lại hiệu quả. Vì
vậy tôi đã quyết định đến thăm gia đình học sinh tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến
học sinh có ý định bỏ học thì tôi biết được rằng bố và mẹ em đi làm xa không có
người quản lý nên em thường xuyên hay chơi game dẫn đến bị nghiện game.
Sau khi mẹ đi làm xa về biết thì thường xuyên la mắng khiến em bị ức chế và
không muốn đi học nữa.
Sau khi tìm ra được nguyên nhân tôi đã tìm cách nói chuyện, chia sẽ với
học sinh nhưng đều rất khó khăn. Sau nhiều lần kiên trì gợi chuyện thì em mới
mở lòng tâm sự. Em nói rằng rất cảm động trước sự quan tâm của cô giáo cùng
với sự động viên của ban giám hiệu nhà trường, rằng sự quan tâm đó đã giúp em
nhận thấy cái sai và và hứa sẽ bỏ game, đi học chuyên cần hơn. Kết quả là học
sinh không còn ý định bỏ học nữa và đã không còn chơi game, đi học chuyên
cần hơn rất nhiều.
Qua đây tôi nhận thấy rằng đối với những học sinh nhạy cảm các em
không dễ mở lòng tâm sự và chỉ cần quay lưng, không đi đến cùng là giáo viên
có thể đã bỏ rơi một cuộc đời và không ai biết trước được cuộc đời sau này của
em sẽ ra sao?
Tôi tin rằng bằng tình cảm chân thành và tình yêu thương của người thầy
sẽ có sức cảm hóa mạnh mẽ đối với học sinh nhất là học sinh cá biệt nhiều thầy
cô đã kiên trì theo quan điểm giáo dục nhân văn gợi lên tình cảm tốt đẹp trong
tâm hồn học trò. Vì vậy trước những hành động bộc phát những hành vi được
coi là cá biệt của học sinh mà giáo viên chỉ sử dụng những biện pháp mạnh mà


16
không có tình thương, không có sự thấu hiếu sẽ đẫn đến những tổn thương cho
học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một thời gian dài thử nghiệm và áp dụng các nội dung của sáng kiến
kinh nghiệm bắt đầu từ năm học 2017- 2018 đến hết học kỳ I năm học 20192020 bản thân tôi nhận thấy rằng những học sinh có những hành vi sai lệch đều

có tiến bộ rõ ràng đã góp phần xây dựng một tập thể lớp vững mạnh hơn và sự
tiến bộ đó được thể hiện trong công tác thi đua của nhà trường:
Kết quả thi đua cuối năm học đạt được:
- Năm học 2017- 2018: Tập thể lớp xếp thứ 5/11 lớp đạt lớp tiên tiến.
- Năm học 2018- 2019: Tập thể lớp xếp thứ 4/10 lớp đạt lớp tự quản.
- Học kỳ I năm học 2019- 2020: Những hạn chế của những học sinh cá
biệt gần như đã được khắc phục, cụ thể :
Đầu
năm

Học
kỳ I

1

0

1

0

4

2

1

0

Biểu hiện sai lệch về hạnh kiểm, đạo đức


Có những thái độ vô lễ với giáo viên, hay vi phạm các nội
quy của trường lớp.
Hay nghĩ học, không mang sách giáo khoa, vỡ ghi, không
ghi bài.
Thường xuyên nói chuyện riêng trong lớp, không học bài cũ,
không đeo khăn quàng thẻ…..
Đánh nhau với bạn.

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Một điều quan trọng làm nên thành công trrong giáo dục học sinh cá biệt
đó là giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt được dặc diểm tâm sinh lý của từng độ
tuổi, nắm bắt được hoàn cảnh gia đình học sinh để lắng nghe để thấu hiểu được
rằng các em cần gì và muốn gì thì mới đưa ra được phương pháp giáo dục phù
hợp tạo được điểm tựa, khôi phục lại niềm tin cho học sinh để các em thấy rằng
mình không hề kém cỏi và luôn được yêu thương, được quan tâm.
Tóm lại việc giáo dục học sinh cá biệt có thành công hay không thì phụ
thuộc vào giáo viên đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm. Người thầy phải có “tâm”.
Đây chính là sự yêu thương đối với học sinh, tâm huyết với nghề dùng cả tình
yêu thương của mình nhẹ nhàng phân tích những khuyết điểm, những đúng sai
trong nhận thức và hành động của các em mà không phải mặc cảm nặng nề về
lỗi lầm của mình. Việc giáo dục học sinh cá biệt có một ý nghĩa to lớn với xã
hội, thành công trong giáo dục học sinh cá biệt sẽ góp phần quan trọng trong
việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội, giúp phụ huynh tránh được nỗi bất hạnh lớn
nhất là con cái hư hỏng.


17
Từ thực tế trên khi được chủ nhiệm ở những lớp có nhiều đối tượng học

sinh cá biệt với những biểu hiện khác nhau bản thân tôi rất chú trọng đến việc
giáo dục học sinh cá biệt với những biện pháp phù hợp với những đối tượng học
sinh khác nhau bước đầu đã có những thành công nhất định và góp phần khẳng
định chất lượng giáo dục làm nên thương hiệu của nhà trường.
3.2. Kiến nghị
- Đối với Ban Giám Hiệu nhà trường:
+ Cần tổ chức hơn nữa các hoạt động vui chơi, giải trí cho học sinh để
các em có sân chơi lành mạnh, bổ ích.
+ Cần tăng cường công tác giáo dục kỹ năng sống cho các em để các em
hiểu thêm về vai trò, trách nhiệm của lứa tuổi học đường.
+ Chỉ đạo cho GVCN tăng cường phối hợp với cha mẹ học sinh để kịp
thời giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả.
+ Phối hợp với hội phụ huynh học sinh để phụ huynh không coi nhẹ việc
giáo dục học sinh ở nhà.
+ Có hình thức khen ngợi các giáo viên làm công tác chủ nhiệm hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
- Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
+ Các cấp lãnh đạo thường xuyên tổ chức các cuộc thi, các hội thảo về
công tác chủ nhiệm để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
+ Mở các lớp hướng dẫn, nghiêm cứu khoa học sư phạm để giáo viên có
cơ hội chia sẽ, học tập những bài học hay nhũng kinh nghiệm tốt để áp dụng vào
thực tế góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
+ Cần mở những lớp tập huấn kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt cho giáo
viên chủ nhiệm.
Trên đây là toàn bộ kinh nghiệm của tôi trong quá trình giáo dục học sinh
cá biệt vẫn đang còn nhiều thiếu sót, hạn chế và còn mang tính chủ quan của cá
nhân nên tôi rất mong được sự góp ý của hội đồng giáo dục các cấp cũng như
của tất cả các thầy, cô và đặc biệt là thầy, cô giáo làm công tác chủ nhiệm để cho
đề tài này ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯƠNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 3 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết

Lê Thị Hà


18

1.
2.
3.
4.

Tài liệu tham khảo
Sự phát triển tâm lý của học sinh cá biệt,
Các biện pháp giáo dục học sinh cá biệt,
Tâm lý lứa tuổi của học sinh THCS,
Tham khảo tài liệu từ internet.



×