Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học thơ đường chương trình ngữ văn lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.73 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT CHU VĂN AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG TRONG GIỜ DẠY HỌC THƠ ĐƯỜNG – CHƯƠNG
TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10

Người thực hiện: Trần Thị Thùy
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

MỤC LỤC
THANH HOÁ NĂM 2020
Trang


1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Văn học có sức cảm hóa kì diệu đối với tâm hồn con người.Đời sống con
người hữu hạn nhưng cuộc sống của những hình tượng độc đáo, nhữngtác phẩm
ưu tú thì vô hạn, có khả năng khơi nguồn sáng tạo mãnh liệt, làm phong phú
tâm hồn bao thế hệ người đọc. Tuy nhiên, giữa người đọc và tác giả được thể
hiện qua tác phẩm là hai thế giới có nhiều khác biệt về thế giới quan, nhân sinh
quan, quan điểm thẩm mĩ, không gian, thời gian, ngôn ngữ... Vì vậy, luôn có một
khoảng cách nhất định giữa văn bản của nhà văn vàbạn đọc - học sinh. Đã có
nhiều biện pháp đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy
họcNgữ văn nhằmđáp ứng nhu cầu, năng lực, trình độ củangười học cũng
nhưmục tiêu môn học và nhu cầu của xã hội trong thời kì mới. Thế nhưng, trong


những năm gần đây, việc dạy học văn trong nhà trường vẫnđang là vấn đề thời
sự bức xúc và nhức nhối của toàn xã hội. Thực tế đáng lo ngại là học sinh ngày
càng không hứng thú với giờ học văn, khoảng cách giữa văn chương nhà trường
và đời sống xã hội, khoảng cách giữa văn bản và bạn đọc - học sinh dường
nhưngày một xa hơn. Giờ học tác phẩm văn chương chưa đáp ứng được mục
tiêu môn học và chưa phát huy hết những tiềm năng lớn lao của nó.
Thơ Đường là thành tựu rực rỡ của nền văn học Trung Quốc nói riêng và
của văn hoá nhân loại nói chung. Đó là một giai đoạn hoàng kim của thơ ca
Trung Quốc với những nhà thơ vĩ đại như: Lí Bạch, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị… Thơ Đường du nhập vào nước ta từ rất sớm, người Việt Nam tiếp nhận
nó như một thứ thơ “nội sinh”, cho đến nay thơ Đường vẫn rất gần gũi với người
Việt Nam. Vì thế, không có gì khó hiểu khi trong chương trình Ngữ văn THCS
và THPT, thơ Đường chiếm một vị trí quan trọng nhất định với một số lượng
văn bản không ít. Thơ Đường có nhiều khả năng trong việc bồi dưỡng tư
tưởng,tình cảm, sự tinh tế, khả năng rung động trước cái đẹp và phát triển các kĩ
năng tư duy của học sinh.Tuy nhiên, thơ Đường thuộc loại văn bản khó dạy đối
với giáo viên, khó học đối với học sinh. Khoảng cách giữa một thể loại văn bản
Hán ngữ cổ điển có những quy tắc, ước lệ riêng với những người đọc Việt Nam
có đặc điểm tâm lí, lối tư duy và quan điểm thẩm mĩ hiện đại đang là thách thức
lớn đối với giáo viên Ngữ văn.
Trong thực tế ở nhà trường phổ thông, việc dạy học thơ Đường nhìn
chung chưa thật sựhiệu quả. Phần lớn học sinh khá thờ ơ, lạnh lùng, ít hứng thú
với việc tiếp cận, khám phá giá trị của văn bản. Làm thế nào để tạo hứng thú cho
học sinh trong giờ dạy học thơ Đường? Đây có lẽ vẫn là một câu hỏi khiến nhiều
giáo viên còn băn khoăn, trăn trở.
Chọn nghiên cứu Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ
dạy học thơ Đường – Chương trình Ngữ văn lớp 10, tôi mong muốn được góp
2



một phần nhỏ vào việc khắc phục những bất cập, hạn chế kể trên trong dạy học
thơ Đường ở nhà trường phổ thông.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Khi quyết định lựa chọn đề tài này, mục đích nghiên cứu của tôi là nhằm
đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờdạy học thơ Đường
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Văn ở nhà trường phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này nhằm nghiên cứu Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh
trong giờ dạy học thơ Đường – chương trình Ngữ văn lớp 10.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết đề tài này, tôi đã vận dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân loại
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thực nghiệm, đối chứng
- Phương pháp tổng hợp
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Khái niệm thơ Đường
Thơ Đường là khái niệm rộng, có khi chỉ tất cả các bài thơ được sáng tác
vào đời Đường ở Trung Quốc (bất kể thuộc thể thơ nào), có khi lại chỉ tất cả các
bài thơ làm theo thể Đường luật (bất kể được sáng tác vào lúc nào, ở Trung
Quốc hay ở Việt Nam).
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi dùng khái niệm thơ Đường theo nghĩa
thứ nhất, tức là chỉ các bài thơ được sáng tác vào đời Đường ở Trung Quốc (bất
kể thuộc thể thơ nào).
2.1.2. Thơ Đường trong chương trình Ngữ văn lớp 10
Trong những năm gần đây, chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn đã có nhiều

thay đổi. Một trong những thay đổi quan trọng của chương trình phần Văn là tỉ
lệ số tiết của phần văn học nước ngoài được tăng lên. Trong đó, phần thơ Đường
so với các thành tựu văn học nước ngoài khác cũng được dành nhiều thời gian
hơn. Điều đó cho thấy, thơ Đường có vị trí nhất định trong khung chương trình,
sách giáo khoa Ngữ văn các cấp.
Bảng thống kê số lượng và thời lượng đọc - hiểu các văn bản thơ Đường
trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10
3


Số thứ
tự

Tên bài học

Số tiết trong chương trình

1

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng - (Lí Bạch)

1

2

Thu hứng - (Đỗ Phủ)

1


- Hoàng Hạc lâu- (Thôi Hiệu)
3

- Khuê oán- (Vương Xương Linh)

Đọc thêm 1 tiết

- Điểu minh giản- (Vương Duy)
Tuy nhiên, nhìn vào khung chương trình, chúng ta thấy, thời lượng dành
cho mỗi văn bản thơ Đường khá ít ỏi, phần lớn mỗi bài chỉ dạy trong một tiết,
thậm chí ba bài đọc thêm trong một tiết; trong khi đây là thể thơ khó, dung
lượng kiến thức lại nhiều. Vì thế, giáo viên và học sinh gặp rất nhiều khó khăn
trong quá trình dạy và học.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua thực tế dạy học của bản thân, tôi nhận thấy, phần lớnhọc sinh không
thích học thơ Đường. Trong số 450 học sinh được phỏng vấn có tới 70% học
sinh trả lời không thích, 15% học sinh trả lời chán học, 10% trả lời bình thường,
5% học sinhtrả lời thích học thơ Đường. Quan sát một số giờ dạy tôi thấy, học
sinh chưa tập trung chú ý cao độ vào giờ học. Vì thế, dù nhiệt tình, hăng say với
bài giảng, song giáo viên vẫn không thể nào thu hút hết sự chú ý của tất cả học
sinh.
Hơn nữa, không khí giờ học thơ Đường còn trầm buồn, thiếu sự giao cảm
đồng điệu giữa học sinh và giáo viên, giữa học sinh và nhà văn.Dường như
những tâm sự sâu kín, những xúc cảm mãnh liệt mà tác giả gửi gắm qua tác
phẩm chẳng khơi gợi được gì ở học sinh. Câu hỏi của giáo viên đưa ra thường
chìm trong im lặng. Nhiều khi giáo viên đặt câu hỏi rồi tự trả lời. Giữa giáo viên
và học sinh không có sự đồng điệu trong cảm xúc.
Ngoài ra, tâm lí thực dụng cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hứng
thú học tập thơ Đường của học sinh. Từ trước đến nay, thơ Đường được học ở
chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 không nằm trong nội dung ôn thi

tốt nghiệp; thi Đại học, Cao đẳng. Điều này lí giải vì sao dạy học thơ Đường ở
nhà trường THPT có tính thực dụng rõ rệt. Học sinh học chỉ mang tính đối phó.
Khi làm bài, hầu hết các em chỉ sao chép tài liệu hoặc suy diễn tùy tiện. Việc
chép thơ sai hoặc nhớ nhầm tên tác giả, tác phẩm diễn ra một cách phổ biến.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng cũng là nguyên nhân gây ra
tâm lí thực dụng trong dạy học thơ Đường. Đa số học sinh ngày nay đều mong
muốn thi vào những ngành nghề có thể đảm bảo cuộc sống vật chất đầy đủ cho
4


tương lai. Vì thế học sinh học khối C giảm hẳn kéo theo sự giảm sút hứng thú
đối với môn văn.Phỏng vấn học sinh về lợi ích của việc học thơ Đường, có tới
80% học sinh trả lời rằng, việc học thơ Đường không đem lại lợi ích thiết thực,
không giúp được gì cho cuộc sống của các em hôm nay và mai sau. Vì vậy, tốt
nhất nên dành thời gian để học các môn khác, học những phần có lợi ích thiết
thực hơn.
Trên đây là một số thực trạng phổ biến mà bản thân tôi đã rút từ chính
quá trình giảng dạy của bản thân và đồng nghiệp. Thực trạng trên cho thấy, việc
tìm ra các biện pháp giúp cho việc dạy học thơ Đường trở nên nhẹ nhàng, hiệu
quả hơn đối với cả giáo viên và học sinh là một việc làm cấp thiết, đòi hỏi chúng
ta phải chung tay giải quyết.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Hướng dẫn học sinh xác định mục tiêu mong muốn trước khi đọc văn
bản
Giáo viên có thể sử dụng kĩ thuật KWLđể hướng dẫn học sinh xác định
mục tiêu mong muốntrướckhi đọc văn bản. KWL là sơ đồ liên hệ các kiến thức
đã biết liên quan đến bài học, các kiến thức muốn biết và các kiến thức học được
sau bài học. Sau khi giới thiệu bài học, mục tiêu cần đạt của bài học, giáo viên
phát phiếu học tập KWL cho học sinh. Học sinh điền các thông tin trên phiếu
như sau:

Tên bài học:………………………….
Tên học sinh:……………….Lớp…….Trường………..
K

W

L

(Những điều đã biết)

(Những điều muốn biết)

(Những điều đã biết được
sau bài học)

-

-

-

-

-

-








Sau đó, giáo viên hướng dẫn học sinh viết vào cột K những gì đã biết liên
quan đến nội dung bài học; viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội
dung bài học. Ví dụ, khi học bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng của Lí Bạch, học sinh có thể viết vào cột W một số thông tin sau:
- Tìm hiểu tình bạn giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên.
- Tìm hiểu về Mạnh Hạo Nhiên.
5


- Tìm hiểu khung cảnh tiễn bạn trên sông.
- Cảm nhận tâm trạng của tác giả khi tiễn bạn…
Những mục tiêu trên của học sinh có thể còn nông cạn, hời hợt, nhưng
thông qua những phản hồi này, giáo viên có thể thấy cần phải hướng học sinh
quan tâm sâu hơn đến vấn đề gì, phương pháp và biện pháp dạy học như thế nào
cho phù hợp. Chẳng hạn, khi học bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết thêm vào cột W một số
vấn đề mà các em chưa quan tâm, chưa đề cập đến trong phiếu học tập của
mình, như:
-Để biết đặc điểm thơ tứ tuyệt đời Đường.
-Tìm hiểu giá trị, ý nghĩa của tình bạn trong cuộc sống…
2.3.2. Mở đầu bài giảng bằng những mẩu chuyện sinh động về tác giả
Mở đầu bài giảng của giáo viên là một trong những yếu tố quyết định
hiệu quả giờ học. Khi giáo viên vào đề tốt sẽ kích thích được trí tò mò, hứng thú
học tập và tạo tâm lí tiếp nhận tốt cho học sinh, ngược lại sẽ khó tránh khỏi tâm
lí mệt mỏi, chán chường và sự rời rạc, buồn tẻ tất yếu của giờ học
Có nhiều cách để mở đầu bài giảng, song trong điều kiện phương tiện đồ
dùng dạy học phần thơ Đường hạn chế như hiện nay, cách phổ biến nhất mà giáo

viên thường làm là giới thiệu về tác giả, tác phẩm hoặc những yếu tố có liên
quan đến sự ra đời của tác phẩm. Mở đầu bài giảng bằng những mẩu chuyện
sinh động về tác giả cũng là một trong những cách tạo sự cuốn hút, hấp dẫn đối
với người học, bởi câu chuyện thuộc về một cá nhân, một con người cụ thể bao
giờ cũng có sức lôi cuốn và kích thích trí tò mò của người nghe nhiều nhất.
Chẳng hạn, khi dạy bài Khe chim kêu của Vương Duy, giáo viên có thể
vào đề như sau: “Vương Duy là một trong những nhà thơ Đường tiêu biểu.
Không chỉ là nhà thơ nổi tiếng, ông còn là người vẽ tranh rất giỏi. Tài thơ và họa
của Vương Duy được đánh giá bằng lời ca ngợi rất tế nhị, xác đáng của Tô Đông
Pha, nhà văn, nhà thơ lớn đời Tống: Đọc thơ Ma Cật, thấy trong thơ có họa;
xem họa Ma Cật, thấy trong họa có thơ. Ở con người đậu tiến sĩ năm hai mươi
mốt tuổi này còn có những tài lạ khác: viết chữ thảo, chữ lệ rất tốt, tinh thông
âm nhạc đến mức được triều đình bổ làm quan đại nhạc thừa.
Tài âm nhạc và tài hội họa của Vương Duy còn in đậm trong giai thoại sau:
“Một người bạn của Vương Duy, không thấy ghi rõ họ tên, có được một bức
tranh vẽ cảnh ban nhạc đang biểu diễn, nhưng không rõ đang tấu bài gì. Vương
Duy nhìn qua liền bảo:
- Bức trang này chính là vẽ vào lúc đội nhạc công hợp tấu đến phách thứ nhất
của đoạn ba, điệu nghệ thường vũ y khúc.
Có kẻ hiếu sự, tập hợp các nhạc công lại, cho tấu điệu nhạc này, đến
phách thứ nhất của đoạn ba, đều nhất loạt bắt dừng lại, không được một cử động
dù nhỏ. Bấy giờ mới mang bức họa ra đối chiếu, xem xét kỹ từng nhạc công,
từng người thổi sáo, kẻ gãy đàn, gõ trống, đến tận cánh tay, ngón tay, thì thấy
6


giữa cảnh trong tranh với cảnh thực của đội nhạc công bên ngoài hoàn toàn
không khác nhau một chút nào. Bởi vậy, không ai là không lè lưỡi thán phục”
[14; tr 87]. Từ đó, giáo viên có thể dẫn dắt tiếp: “Kinh nghiệm hội họa và âm
nhạc của ông đã ảnh hưởng nhiều đến cách tổ chức những kí hiệu trong thơ, Khe

chim kêu là một trong những bài thơ tiêu biểu cho điều đó. Vậy, bây giờ chúng
ta sẽ đi vào bài học để thấy được sự kết hợp giữa thơ ca, hội họa và âm nhạc
trong con người thiên tài này”.
2.3.3. Hướng dẫn học sinh xuất phát từ nguyên tác và bản dịch nghĩa để hiểu
nội dung văn bản
Nguyên tác là nơi biểu hiện trực tiếp, khách quan tư tưởng và những nỗi
niềm thầm kín của tác giả. Người đọc chỉ có thể hiểu đúng, hiểu sâu sắc nội
dung tác phẩm khi xuất phát và trung thành với nguyên tác trong quá trình phân
tích. Bản dịch thơ dẫu có hay đến mấy cũng không hẳn đã lột tả hết được hết
những điều tác giả gửi gắm trong đó.
Chẳng hạn, hai câu thơ:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
(Bạn từ lầu Hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng).
(“Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng” - Lí Bạch).
Từ “cố nhân” được Ngô Tất Tố dịch là bạn. Dịch như thế là đúng nhưng
chưa đủ, chưa lột hết thần thái của từ “cố nhân”. Trong thơ ca, từ “cố nhân” bao
giờ cũng hàm nghĩa rất tha thiết. Từ “cố” trong thơ Đường rất hay được sử dụng
(cố hương, cố quốc, cố viên tâm…), như gợi về cái đã qua, cái quá khứ níu giữ
bền chặt với tâm hồn mỗi người. Lí Bạch chia tay với Mạnh Hạo Nhiên là chia
tay với một người bạn cũ, người bạn tâm giao, bạn tri âm tri kỉ, là người bạn hiểu
mình hơn ai hết. Còn từ “bạn” chỉ mang nét nghĩa bình thường. Từ “cố nhân” còn
gợi nỗi lòng của Lí Bạch, thi nhân dường như đang chia tay với chốn đi - về của
lòng mình. Để học sinh cảm nhận được cái hay của nguyên tác cũng như bản
dịch, giáo viên có thể yêu cầu học sinh so sánh, đối chiếu, chẳng hạn: “Đối chiếu
với bản dịch thì em thấy từ nào trong bản dịch thơ dịch chưa sát với nguyên tác?
Theo em, dùng từ “cố nhân” hay “bạn” hay hơn? Vì sao? Trong suy nghĩ của
em, từ “cố nhân” gợi lên điều gì?”.

Hoặc, ở hai câu cuối bài thơ:
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
(bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời).
“Cô phàm” là cánh buồm lẻ loi, cô đơn, tác giả dịch thành “bóng buồm”.
Dịch như thế đã làm mất đi sự lẻ loi, cô đơn của cánh buồm cũng như không làm
nổi bật được nỗi cô đơn rợn ngợp trong lòng kẻ ở, người đi. Để học sinh cảm
nhận được điều này, giáo viên đặt câu hỏi: “Đối chiếu với bản dịch thì em thấy
7


từ “cô phàm” trong bản dịch thơ đã dịch sát với nguyên tác chưa? Theo em,
dùng từ “cô phàm” hay từ “bóng buồm” có sức gợi và biểu cảm hơn? Vì sao?
Bằng cách đối chiếu với nguyên tác, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận ra ý tứ
thâm trầm, sâu xa của nguyên tác mà nếu chỉ dừng lại ở bản dịch thôi thì chưa
đủ. Vì vậy, thường xuyên đối chiếu nguyên tác với bản dịch nghĩa trong quá
trình dạy học thơ Đường nói riêng và dạy học các tác phẩm văn học nước ngoài
nói chung là một vấn đề có tính nguyên tắc giúp người dạy - người học lí giải
sâu sắc, thuyết phục hơn nội dung, ý nghĩa của tác phẩm.
2.3.4. Hướng dẫn học sinh phân tích một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu
của thơ Đường.
2.3.4.1. Phân tích phép đối
Phép đối là một trong những tiêu chí, nguyên tắc bắt buộc trong thơ
Đường. Đối phải đảm bảo cả về thanh, về từ loại và về ý. Hình thức đối phổ biến
là đối câu trên với câu dưới. Song, đôi lúc người ta dùng lối đối trong câu (vế
trước đối với vế sau) mà thi pháp thơ Đường gọi là tự đối hay tiểu đối.
Trong quá trình dạy học thơ Đường, việc tìm ra phép đối, đặc biệt cắt
nghĩa được giá trị, hiệu quả nghệ thuật của nó là điều rất quan trọng, giúp học
sinh vừa có kiến thức nhất định về phép đối vừa biết phân tích giá trị tu từ; biết

sử dụng thao tác so sánh, đối chiếu trong viết văn.
Chẳng hạn, khi phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ, giáo viên cần
giúp học sinh lưu ý cách đối chỉnh ở cặp câu 5 - 6:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà).
Trong cặp câu này, tác giả đã sử dụng lối đối câu trên với câu dưới, đối cả
về từ loại, về thanh và về ý. Về từ loại, động từ đối với động từ: khai (nở) / hệ
(buộc), danh từ đối với danh từ: khóm cúc / con thuyền, số từ đối với số từ:
lưỡng (nở hai lần) / nhất (một, duy nhất). Về thanh, chữ thứ 2, 4, 6 của câu dưới
ngược thanh với chữ thứ 2, 4, 6 của câu trên: B - T -T - B - B - T - T /B - B - T - T
- T – B- B. Về ý, ý của câu dưới đối với ý của câu trên: Khóm cúc nở hoa đã hai
lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước / Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng
nhớ nơi vườn cũ. Lối đối như vậy, người ta gọi là đối chỉnh. Phép đối chỉnh
trong hai câu thơ đã làm nổi bật tâm trạng nhớ nhà, nhớ quê của tác giả. Khóm
cúc nở hoa khiến nhà thơ tuôn rơi nước mắt. Con thuyền lẻ loi, trôi nổi trên
dòng Trường Giang là nơi trú ngụ của cả gia đình tác giả. Con thuyền cô lẻ ấy bị
ngăn bởi dòng nước, đi không ổn mà về cũng không ổn. Vì thế, tấm lòng nhớ
nhà, nhớ quê đành “buộc chặt” nơi con thuyền ấy. Nhờ cách đối giữa câu trên
với câu dưới mà chúng ta thấy rõ sự giằng xé trong tâm trạng nhà thơ. Để học
sinh nhận ra điều đó, giáo viên yêu cầu học sinh đọc, xác định tín hiệu nghệ
8


thuậttrong hai câu thơ. Sau đó, giáo viên tiếp tục cho các em thảo luận về hiệu
quả của tín hiệu nghệ thuật đó. Cách làm này vừa giúp học sinh khám phá ý
nghĩa văn bản một cách tích cực vừa nhận ra dụng ý nghệ thuật mà tác giả gửi
gắm.
Như vậy, chỉ ra phép đối và phân tích giá trị tu từ của nó trong việc biểu

hiện nội dung tác phẩm sẽ giúp người đọc lĩnh hội những ý tứ thâm trầm, sâu
sắc và thấy được sự tài tình của tác giả.
2.3.4.2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình
Bút pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng phổ biến trong thơ ca. Đặc biệt, trong
thơ Đường, khi các nhà thơ chủ trương không nói hết ý của mình “ý tại ngôn
ngoại” thì bút pháp tả cảnh ngụ tình càng có vị trí quan trọng.Vì thế, một trong
những biểu hiện của năng lực đọc hiểu thơ Đường là người đọc phải xác định
được mối quan hệ giữa tình và cảnh, chú ý khai thác tình trong cảnh để thấy rõ
tâm sự, nỗi niềm của thi nhân.
Chẳng hạn, ở bài Thu hứng của Đỗ Phủ, những hình ảnh như rừng phong
ảm đạm, sương móc trắng xóa, khí thu hiu hắt, hoa cúc nhỏ lệ…đều nhuốm màu
tâm trạng. Đó là nỗi bi thương, nỗi u hoài man mác trong lòng người xa quê.
Giáo viên cần gợi cho các học sinh liên tưởng, giải mã ý nghĩa của các hình ảnh,
biểu tượngthiên nhiên; liên hệ chúng với tâm trạng con người; đọc ra tâm trạng
của nhân vật trữ tình đằng sau những hình ảnh, biểu tượng đó. Ví dụ, hoa cúc là
biểu tượng nổi bật nhất của mùa thu, tới mức khi nói “một nhành thu” có nghĩa
là “một nhành cúc” và ngược lại, nói “cúc nhật” có nghĩa là “mùa thu”; “sương
móc” tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo; “rừng phong” cũng là hình ảnh
tượng trưng cho mùa thu (thu về cả rừng phong đỏ úa hoặc vàng úa), cho sự li
biệt. Tóm lại, tất cả những hình ảnh trên đã làm nên thần thái của mùa thu, hồn
thu. Đó là một buổi chiều thu cụ thể, chiều thu của Quỳ Châu. Thế nhưng, từ
buổi chiều thu cụ thể, đích thực đó, người đọc có thể nhận ra nỗi lòng của một
con người cụ thể ở giai đoạn xế thu của cuộc đời và sống trong một thời điểm cụ
thể, cũng có thể nói là xế thu của một triều đại được coi là hùng mạnh vào bậc
nhất của lịch sử phong kiến Trung Hoa. Bằng cách dẫn dắt như thế, giáo viên sẽ
giúp học sinh thấu hiểu được tâm sự của tác giả ẩn sau bức tranh thu cũng như
hiểu đúng, hiểu sâu hơn chủ đề, tư tưởng của văn bản. Giáo viên cũng có thể nêu
câu hỏi gợi mở, dẫn dắt học sinh phát hiện tâm tình của thi nhân trong bức tranh
cảnh vật: “Bài thơ/câu thơ tả cảnh hay tình? Vì sao? Tâm trạng, tâm sự của nhà
thơ đằng sau bức tranh?...”

Hoặc, nếu nhìn qua, nhìn bề ngoài thì hai câu cuối bài thơ Hoàng Hạc lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng cuả Lí Bạch là hai câu thơ tả cảnh. Một
họa sĩ có thể dựa vào hai câu thơ đó để vẽ nên một bức tranh đẹp. Song, suy
ngẫm kĩ sẽ thấy, về cơ bản đây là hai câu tả tình. Mới nhìn qua, tưởng là một
cảnh tĩnh, suy ngẫm sẽ hình dung được một cảnh “động” đang diễn ra trước mắt
người đọc: từ bản thân “chiếc buồm” đến “hình bóng” của nó, đến bóng “xa
xa”… xa dần của nó cho đến lúc mất hút vào bầu trời bát ngát là cả một quá
9


trình, quá trình chuyển dịch ngày càng xa của con thuyền và quá trình trông theo
vời vợi của cặp mắt người đưa tiễn. Thuyền đã mất hút song người đưa tiễn vẫn
còn đứng kia, chơ vơ, đơn côi trên lầu Hoàng Hạc. Sông Trường Giang là huyết
mạch giao thông, thương nghiệp của cả vùng Hoa Trung và Hoa Nam. Giữa mùa
xuân thanh bình này, hẳn trên sông thuyền bè ngược xuôi tấp nập. Vậy mà người
đưa tiễn chỉ nhìn thấy một cánh buồm đơn chiếc (cô phàm) của “cố nhân”. Vì
sao vậy? Vì tấm lòng định hướng cho đôi mắt. Người ra đi cô đơn, người đưa
tiễn cũng cô đơn nhìn theo một cánh buồm cô đơn. Người đưa tiễn cứ đứng lặng
mãi bên sông thì mới có thể thấy hình ảnh cánh muồm lẻ loi, đơn chiếc giữa trời
nước bao la, cánh buồm dần xa… rồi mất hút, vậy mà vẫn còn nhìn theo để:
Chỉ thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời.
Chẳng một lời nói về tình. Cả bài thơ là cảnh mà cả bài thơ là tình - tình
bằng hữu của Đường thi, tình bạn của con người.
Để học sinh phát hiện và cảm nhận được hiệu quả nghệ thuật của bút
pháp tả cảnh ngụ tình trong hai câu thơ trên, giáo viên cho học sinh đọc cả bản
nguyên tác và bản dịch thơ, yêu cầu các em chú ý giá trị biểu cảm của các từ:
“cô phàm” (bóng cánh buồm lẻ loi), “viễn ảnh” (xa dần), “bích không tận” (mất
hút), “duy kiến” (chỉ thấy). Tiếp đến, giáo viên có thể đặt câu hỏi: “Theo em,
hai câu thơ sau là tả cảnh hay tả tình? Từ việc phân tích giá trị biểu đạt của
những từ ngữ trên, em cảm nhận được tâm tình gì của thi nhân?”.

Như vậy, chú ý khai thác mối quan hệ giữa tình và cảnh sẽ giúp học sinh
hiểu được những lớp ý nghĩa sâu sắc của văn bản, chạm được những tình ý sâu xa
của thi nhân. Đây là một trong những cách để học sinh vừa cắt nghĩa, lí giải sâu
tác phẩm, vừa được rèn luyện năng lực cảm thụ và thưởng thức thơ Đường.
2.3.4.3. Nghệ thuật tương phản
Nghệ thuật tương phản cũng là một trong những thủ pháp nghệ thuật tiêu
biểu của thơ Đường. Thông thường các nhà thơ sử dụng bút pháp này để làm nổi
bật sự đối lập giữa các sự vật, các trạng thái tình cảm…Một trong những biểu
hiện rõ nét nhất của bút pháp này là các nhà thơ thường tạo dựng nên những mối
quan hệ đối lập như: xưa và nay, mộng và thực, tiên và tục, sống và chết, vô
cùng và hữu hạn, không gian và thời gian… từ những mối quan hệ đối lập này,
người đọc có thể luận ra điều tác giả muốn gửi gắm.
Trong dạy học thơ Đường, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh phân tích
hiệu quả của nghệ thuật tương phản để cảm, hiểu thấu đáo giá trị nội dung, tư
tưởng của văn bản. Hơn nữa, thông qua việc tìm hiểu các mối quan hệ đối lập,
học sinh còn phát hiện ra những tứ thơ độc đáo, mới lạ cũng như thấy được cái
hay, cái đẹp của văn bản.
Để giúp học sinh phát hiện những mối quan hệ đối lập và hiệu quả của
chúng trong việc biểu hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, giáo viên phải từng
10


bước dẫn dắt học sinh từ đọc, phát hiện, phân tích đến đánh giá, khái quát qua hệ
thống câu hỏi gọi mở, như:
- Liệt kê những từ ngữ/ hình ảnh tương phản trong nguyên tác?
- Tại sao tác giả lại đối lập giữa từ ngữ/hình ảnh này…với từ ngữ/hình
ảnh…kia?
- Dụng ý của tác giả khi đặt hai từ ngữ/hình ảnh…này bên cạnh nhau?
- Tác giả muốn nhấn mạnh điều gì khi sử dụng hai hình ảnh tương phản,
đối lập đó?

Chẳng hạn, bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu thể hiện suy ngẫm, chiêm
nghiệm của tác giả về cuộc đời. Để biểu đạt điều đó, nhà thơ đã sử dụng nghệ
thuật tương phản, dựng lên mối quan hệ đối lập giữa quá khứ - hiện tại, cái còn cái mất, cõi trần - cõi tiên. Để học sinh phát hiện được điều này, trước hết giáo
viên yêu cầu học sinh đọc kỹ văn bản và yêu cầu: “Em hãy chỉ ra những cặp từ,
hình ảnh đối lập nhau trong bài thơ? Dụng ý của tác giả khi sử dụng những cặp
từ, hình ảnh đối lập đó?”. Sau đó, giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm để chỉ
ra giá trị biểu đạt của các cặp phạm trù đối lập vừa tìm được. Cuối cùng, giáo
viên dùng phương pháp giảng bình để chốt lại vấn đề trọng tâm: “Bài thơ miêu
tả lầu Hoàng Hạc nhưng sâu xa là để nói về cõi tiên trong sự đối lập với cõi trần,
về lẽ còn - mất trong cuộc đời để rồi đau đớn, hụt hẫng, luyến tiếc khi một thời
vàng son đã qua đi không trở lại. Hình ảnh Hạc vàng đã bay đi không trở lại
tượng trưng cho linh hồn của lầu đã mất, tức là cái đẹp, cái linh thiêng đã hút
bóng cùng huyền thoại. Bài thơ tả cảnh nhưng lại ngầm thể hiện bao suy ngẫm,
chiêm nghiệm về cuộc đời. Sự độc đáo của bài thơ là ở chỗ đó”.
Như vậy, chú ý phân tích nghệ thuật tương phản trong dạy học thơ
Đường là cách để giúp học sinh nhận ra những ý tứ thâm trầm, sâu sắc của tác
giả ẩn sau những mối quan hệ đối lập. Hơn nữa, khả năng phân tích, bình giá thơ
Đường của học sinh cũng từng bước thuần thục hơn.
2.3.4.4. Bút pháp lấy động tả tĩnh
Lấy động tả tĩnh cũng là một trong những thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu
của thơ Đường. Nó có quan hệ mật thiết với bút pháp chấm phá, tức là dùng cái
này để biểu đạt cái kia, mà người ta gọi là “vẽ mây nảy trăng”. Các nhà thơ
Đường chủ trương không nói hết ý, không nói trực tiếp ý của mình và chỉ “gợi”
chứ không tả; người đọc phải tự luận ra ý tứ của tác giả.
Chẳng hạn, bài thơ Điểu minh giản của Vương Duy miêu tả cảnh đêm
trăng xuân trong khe núi. Nét đặc sắc của bài thơ là lấy động để tả tĩnh:
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lạnh ngắt trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim núi giật mình,
11



Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.
(Ngô Tất Tố dịch)
Hoa quế rất nhỏ, khi rụng chỉ có tiếng động khe khẽ thế mà con người
cũng nghe được chứng tỏ đêm phải rất yên tĩnh và tâm hồn con người cũng rất
bình yên.Trăng lên không có tiến sao lại làm “kinh sơn điểu”? Chim núi giật
mình bởi ánh trăng hay “giật mình” bởi màn đêm quá tĩnh lặng?Tiếng động ở
câu cuối càng chứng tỏ màn đêm quá tĩnh lặng mà thôi. Vậy là cái tĩnh lặng của
đêm lại được cảm nhận qua tiếng động của những âm thanh khẽ khàng. Nhà thơ
đã lấy cái động để thể hiện cái tĩnh - sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên thanh
thản của tâm hồn con người. Có thể nói, bài thơ gợi nên cảm giác tiếng đêm xao
động tâm hồn bình yên.Để giúp học sinh cảm nhận được điều đó, giáo viên có
thể nêu vấn đề:
- Em có nhận xét gì về âm thanh trong bài thơ?
- Hiệu ứng của âm thanh đó như thế nào?
- Nó làm cho bức tranh sinh động hơn hay tĩnh lặng hơn? Vì sao?
- Nếu không có âm thanh đó, bức tranh cảnh vật trong bài thơ sẽ như thế
nào?
- Tác giả đã sử dụng bút pháp nghệ thuật nào để miêu tả cảnh vật?
Bằng cách nêu vấn đề như thế, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận ra mục
đích của tác giả không phải miêu tả cảnh động mà chỉ dùng tiếng động để gợi sự
tĩnh lặng của đêm trăng xuân và sự bình yên trong tâm hồn con người. Nét độc
đáo của bài thơ là ở chỗ đó.
Biết phát hiện, phân tích, đánh giá bút pháp tả cảnh ngụ tình, nghệ thuật
đối và thủ pháp lấy động tả tĩnh là minh chứng cho năng lực đọc hiểu thơ Đường
của học sinh. Đây là tri thức phương pháp quan trọng giúp học sinh có thể vận
dụng vào đọc hiểu các văn bản thơ Đường bất kì.
2.3.5. Hướng dẫn học sinhthảo luận nhóm trong quá trình đọc - hiểu thơ
Đường

Đặc trưng của thơ Đường là cô đọng, hàm súc, khó hiểu. Các nhà thơ
Đường thường không nói trực tiếp, không nói hết ý của mình nên có nhiều cách
hiểu, cách lí giải khác nhau về nội dung, ý nghĩa của văn bản. Vì thế, tổ chức
cho học sinh hoạt động nhóm là biện pháp thích hợp nhằm hướng đến cách hiểu
cặn kẽ, thấu đáo giá trị của tác phẩm đồng thời phát triển những kĩ năng cần
thiết ở học sinh như kĩ năng phân tích, cảm thụ, đánh giá một vấn đề văn học.
Tùy vào nội dung của từng văn bản để xác định vấn đề thảo luận. Tuy
nhiên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm theo một số dạng
câu hỏi, bài tập như sau:
12


2.3.5.1. Thảo luận nhóm khi phát hiện ra những mâu thuẫn nội tại trong văn
bản.
Theo Vưgôtxki: “Trong mộttác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng hàm chứa
một mâu thuẫn nào đó, một sự không ăn khớp bên trong nào đó giữa nội dung và
hình thức, giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nhà văn thường có ý thức bắt
cái kinh khủng phải nói bằng ngôn ngữ của hơi thở nhẹ” [15; tr166]. Thủ pháp
này giúp nhà văn bộc lộ những tư tưởng sâu sắc thông qua hình thức nghệ thuật
độc đáo. Phát hiện và lý giải được sự thống nhất biện chứng của những mâu
thuẫn này trong việc bộc lộ chủ đề và làm nên giá trị nghệ thuật đặc sắc của tác
phẩm là một việc không dễ dàng. Đây cũng chính là một trong những nội dung
mà giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm.
Chẳng hạn, nhan đề Hoàng Hạc lâulà một vấn đề quan trọng nhưng
khó, có thể cho học sinh thảo luận nhóm:“Nhan đề bài thơ là Lầu Hoàng Hạc
nhưng ngoài sự xác định vị trí của lầu Hoàng Hạc “nơi đây”, toàn bài không
nói gì về “lầu” cả. Vậy, theo em, miêu tả lầu Hoàng Hạc có phải là mục đích
chính của bài thơ không? Tại sao?”.
Hoặc, giáo viên cũng có thể nêu vấn đề cho học sinh thảo luận khi dạy bài
Khuê oán của Vương Xương Linh: “Nhan đề bài thơ là Nỗi oán của người phòng

khuê nhưng vì sao mở đầu bài thơ, tác giả lại nói “Người đàn bà trẻ nơi phòng
khuê không biết buồn”? Điều đó có mâu thuẫn không? Tại sao?”.
Thảo luận nhóm khi phát hiện ra những mâu thuẫn nội tại trong văn bản sẽ giúp
học sinh hiểu được dụng ý nghệ thuật của tác giả, thấy được giá trị nghệ thuật
độc đáo của tác phẩm. Hơn nữa kỹ năng phân tích, đánh giá vấn đề văn học của
các em cũng phát triển hơn.
2.3.5.2. Thảo luận nhóm khi phát hiện ra những hình tượng có tính đa nghĩa
trong văn bản
Tác phẩm văn học phản ảnh cuộc sống với tất cả sự phong phú, sinh
động và phức tạp của nó. Do vậy, nó gợi ra cho người đọc vô vàn ý nghĩa, khái
niệm và cách lí giải, làm cho nội dung tác phẩm mang tính đa nghĩa.Tính đa
nghĩa của tác phẩm cũng là một nội dung quan trọng để tổ chức cho học sinh
thảo luận nhóm.
Tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương được biểu hiện ở nhiều cấp độ
khác nhau như: cấp độ ngôn từ, cấp độ hình ảnh, hình tượng, cấp độ kết cấu…
Tùy nội dung, cách biểu hiện của từng bài mà giáo viên có cách khai thác riêng.
Chẳng hạn, ở cấp độ ngôn từ, từ “yên hoa” trong bài Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lí Bạch bao hàm nhiều nét nghĩa như hoa
trong khói, cảnh đẹp mùa xuân, cảnh phồn hoa đô hội. Câu thơ gợi ra khung
cảnh chia ly, với thời tiết đẹp và không gian đẹp. Giữa cảnh mùa xuân tươi tắn
ấy, từ một nơi thanh cao thoát tục tiễn đưa bạn tới chốn phồn hoa đô hội, Lí
Bạch đã gửi gắm nỗi niềm lo lắng không biết điều gì sẽ đến với bạn. Câu thơ do
đó không chỉ tả cảnh mà còn ẩn chứa nỗi niềm tâm sự của tác giả. Để học sinh
phát hiện được tính đa nghĩa của từ “yên hoa”, giáo viên có thể gợi ý:
-Trong câu thơ thứ hai có một cụm từ mang giá trị nghệ thuật đặc sắc.
Theo em, đó là cụm từ nào?
13


- Em có thể nêu lên một số nét nghĩa mà từ “yên hoa” gợi ra không?

- Em hiểu được tâm sự gì của Lí Bạch gửi gắm qua câu thơ trên?
Hoặc, hình ảnh “cô chu” trong bài Thu hứng của Đỗ Phủ vừa gợi ra hình ảnh
con thuyền lẻ loi, đơn chiếc lại vừa chỉ sự cô đơn của nhà thơ, biểu tượng cho tấm
lòng thiết tha được trở về quê hương của tác giả. Giáo viên có thể nêu vấn đề cho
học sinh thảo luận: “Có ý kiến cho rằng: “cô chu” có nghĩa là con thuyền lẻ loi,
đơn chiếc. Ý kiến khác lại khẳng định: tác giả dùng hình ảnh “cô chu” để biểu
hiện sự cô đơn của mình. Ý kiến của em về vấn đề này?”.
Khai thác tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật là biện pháp giúp học
sinh hiểu cặn kẽ, sâu sắc hơn giá trị của văn bản. Đồng thời, tính tích cực, năng
động, sáng tạo của học sinh cũng được phát huy, bởi, để phát hiện và lí giải được
những tầng nghĩa của hình tượng nghệ thuật, học sinh cần phải làm việc tích
cực, phát huy tối đa năng lực cá nhân.
2.3.6.Hướng dẫn học sinh tập dịch và làm thơ Đường
Tập dịch và làm thơ Đườnglà một biểu hiện của việc khuyến khích học
sinh “đồng sáng tạo”với văn bản. Giáo viên có thể sử dụng biện pháp này ở cuối
buổi học để kiểm tra kết quả đọc - hiểu thơ Đường của học sinh.
Dịch thơ Đường là việc làm không dễ dàng. Tuy nhiên, giáo viên nên
khuyến khích học sinh tập dịch thơ Đường để tăng thêm hứng thú và niềm say
mê thơ Đường của các em. Để thực hiện hoạt động này, giáo viên dẫn dắt học
sinh qua một số bước như: (1). Cung cấp nguyên tác của bài thơ; (2). Hướng dẫn
học sinh tập dịch nghĩa từ, cụm từ; (3). Giúp học sinh đối chiếu bản dịch nghĩa
của bài thơ với bản dịch của các em; (4). Nhận xét, đánh giá và cho điểm bài
làm để khuyến khích học sinh. Có thể học sinh không dịch được nhiều, nhưng
chỉ cần dịch đúng một câu cũng đủ làm các em hứng khởi, tự tin vào năng lực
của bản thân. Niềm say mê thơ Đường của học sinh vì thế sẽ được nhân lên rất
nhiều.
Cùng với dịch thơ, tập làm thơ Đường cũng là cách để giáo viên khơi gợi
hứng thú của học sinh đối với thơ Đường. Ở Việt Nam, việc tập làm thơ Đường
diễn ra khá phổ biến. Thông thường, người ta dựa vào những quy định về niêm
luật, bố cục, kết cấu… của một bài thơ Đường luật để tạo ra các tác phẩm của

mình. Giáo viên cũng có thể dựa vào cách này để khuyến khích học sinh tập làm
thơ Đường. Ví dụ, giáo viên dựa vào những quy định sau để hướng dẫn học sinh
tập làm một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật:
- Số tiếng: 7 tiếng.
- Số dòng: 8 dòng.
- Vần: Chỉ có một vần, đặt ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8.
- Niêm: Giữa các dòng 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7, 1 - 8 phải kết dính với nhau. Cụ
thể là, các tiếng ở vị trí thứ 2, thứ 4 và thứ 6 ở các dòng trên phải cùng thanh với
nhau (hoặc bằng hoặc trắc).
- Ngắt nhịp: 4/3.
- Bố cục: Bài thơ chia thành bốn phần: Đề (mở ra ý của bài), thực (giải
thích rõ đề), luận (bàn luận), kết (kết bài).
14


Giáo viên có thể lấy ví dụ về một bài thơ đã học, cho học sinh đối chiếu
để nắm vững hơn những quy định trên. Qua đó, khuyến khích các em tự làm một
bài thơ thất ngôn bát cú bằng chính khả năng của mình.
Tương tự như vậy, giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tập làm một
bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hay các bài thơ ngũ ngôn Đường luật.
Khuyến khích học sinh tập dịch và làm thơ Đường là những bài tập mở
rộng mà giáo viên có thể sử dụng để vừa củng cố kết quả học tập vừa kích thích
hứng thú, niềm say mê thơ Đường của học sinh.
2.4. Hiệu quả
2.4.1. Đối với bản thân
Sau một vài năm tiến hành áp dụng một số biện pháp tạo hứng thú cho
học sinh trong giờ dạy học thơ Đường ở lớp 10 như đã nêu ở trên, tôi nhận thấy
giờ hoc đã có sự tiến bộ đáng kể. Không khí học sôi động hơn, học sinh say mê,
hứng thú hơn trong việc tiếp nhận văn bản.Nhiều học sinh đã chủ động bày tỏ
những suy nghĩ, cảm nhận riêng của bản thân. Đặc biệt, các em thật sự hứng thú

với việc được tập dịch và làm thơ Đường. Kết quả bài kiểm tra của các em cao
hơn. Cụ thể như sau:
Trước khi vận dụng
Lớp
Số
Điểm 8 – 10
lượng SL
%
10A1 40
1
2.5%
10A10 46
3
6.5%
Sau khi vận dụng
Lớp
Số
Điểm 8 – 10
lượng SL
%
10A1 40
5
12.5%
10A10 46
7
15.2%

Điểm 6 – 7
Điểm 5
Điểm dưới 5

SL
%
SL
%
SL
%
22
55%
13
32.5% 4
10%
37
80.5% 6
13%
0
0%
Điểm 6 – 7
Điểm 5
SL
%
SL
%
27
67.5% 8
20%
36
78.3% 3
6.5%

Điểm dưới 5

SL
%
0
0%
0
0%

2.4.2. Đối với tổ bộ môn
Từ kết quả giảng dạy của bản thân, tôi đã mạnh dạn đưa ra trước tổ bộ môn
những biện pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học thơ Đường ở lớp
10. Những biện pháp trên đều được các đồng nghiệp trong tổ áp dụng trong các
giờ dạy của mình và có hiệu quả rõ rệt.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Thơ Đường là một trong những thành tựu rực rỡ của văn học cổ điển
Trung Quốc và nhân loại, chiếm vị trí quan trọng trong chương trình, sách giáo
khoa Ngữ văn bậc Trung học. Cùng với môn Ngữ văn, thơ Đường có vai trò rất
lớn trong việc bồi dưỡng những tình cảm nhân văn cao đẹp cũng như phát triển
các kỹ năng tư duy cho học sinh. Khả năng giáo dục của thơ Đường là rất lớn,
song việc dạy học thơ Đường ở nhà trường Phổ thông hiện nay chưa thực sự
15


hiệu quả.Không ít giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức các hoạt động dạy
học trên lớp; học sinh không hứng thú với giờ học, tính tích cực, chủ động của
các em chưa được phát huy.
Từ thực tế giảng dạy của bản thân, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp
tạo hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học thơ Đường. Mong muốn của tôi là
có thể góp nhặt thêm một vài kinh nghiệm nhỏ vào quá trình đổi mới môn học,
giúp nâng cao hiệu quả giờ dạy học thơ Đường nói riêng và chất lượng bộ môn
Ngữ văn ở trường THPT nói chung.

Tuy nhiên, đây chỉ là những kinh nghiệm của riêng bản thân tôi. Vì thế,
tôi rất mong nhận được những góp ý chân thành của quý cấp và các bạn đồng
nghiệp để tôi có thể hoàn thiện hơn đề tài này.
Giáo án thực nghiệm :
Tiết PPCT: 43
Đọc văn: Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)
- (Lí Bạch)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Về kiến thức
- Hiểu và cảm nhận được tình bạn chân thành, trong sáng, sâu sắc của tác giả.
- Nhận biết và phân tích được một số đặc điểm nghệ thuật thơ tuyệt cú của Lí
Bạch như: ngôn ngữ giản dị, hình ảnh tươi sáng và gợi cảm.
- Nhận biết và phân tích được một số nét nghệ thuật đặc sắc của bài thơ: tả cảnh
ngụ tình, ý tại ngôn ngoại, bút pháp chấm phá.
2.Về kỹ năng
Kỹ năng đọc - hiểu văn bản thơ Đường.
3.Về thái độ
- Nhận thức rõ hơn ý nghĩa, tầm quan trọng của tình bạn trong cuộc sống.
- Trân trọng và có ý thức gìn giữ, vun đắp tình bạn chân thành, trong sáng, giúp
đỡ lẫn nhau trong học tập và cuộc sống.
B. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
1. Giáo viên: SGK, SGV, tài liệu tham khảo, máy chiếu
2. Học sinh: SGK, vở ghi, vở soạn
C. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1. Phương pháp chủ đao: phát vấn, thảo luận, phân tích ...
2. Phương pháp phối hợp: Thuyết giảng, gợi tìm
D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ

3. Bài mới
Lời dẫn vào bài/ hoạt động khởi động giờ học của giáo viên: Giáo
viên có thể đặt vấn đề để vào bài: “Em đã từng tiễn bạn thân đi xa chưa? Cảm
16


xúc, tâm trạng của em lúc đó như thế nào?Bây giờ chúng ta hãy lắng nghe tâm
sự của một nhà thơ Trung Quốc trong buổi chia li với người bạn thân
thiết”.Hoặc, giáo viên có thể kể giai thoại về sự giáng trần và từ trần của Lí
Bạch để bước vào giờ học.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
Hoạt động 1: Gv hướng dẫn học
sinh tìm hiểu tiểu dẫn.
GV gọi học sinh đọc phần tiểu dẫn
trong sách giáo khoa
- GV: Em hãy nêu những nét cơ bản
về Lí Bạch?
+HS: tóm tắt, kể chuyện Lí Bạch
+GV: chốt lại một số ý chính.
- GV phát phiếu học tập KWL, hướng
dẫn học sinh viết vào cột K những
điều đã biết liên quan đến bài học,
viết vào cột W những điều các em
muốn biết khi học văn bản.

Hoạt động 2: Gv hướng dẫn học sinh
đọc - hiểu văn bản
- GV cho học sinh đọc phần phiên âm,
dịch nghĩa, dịch thơ.
- HS trao đổi theo cặp:

+Nhận xét bản dịch thơ.
+Xác định thể thơ.
+ Tìm bố cục bài thơ, nội dung chính
của từng phần và đặt tiêu đề cho mỗi
phần.
- GV điều chỉnh, khái quát.

YÊU CẦU CẦN ĐẠT
I. Tiểu dẫn
1. Tác giả
- Lí Bạch (701 - 762), tự: Thái Bạch
- Là nhà thơ lãng mạn vĩ đại của Trung Quốc,
được gọi là “Thi tiên”.
- Thơ ông hiện còn trên 1000 bài.
- Đặc điểm thơ: hào phóng, bay bổng, tự
nhiên, tinh tế và giản dị. Đặc trưng nổi bật
của thơ Lí Bạch là sự thống nhất giữa cái cao
cả và cái đẹp.
2. Tác phẩm
- Đề tài: chia ly - đề tài thường thấy trong thơ
ca.
- Lầu Hoàng Hạc: thắng cảnh nổi tiếng của
Trung Quốc, nằm trên mỏm núi Hoàng Hạc,
bên sông Trường Giang. Nơi đây gắn liền với
truyền thuyết Phí Văn Vi cưỡi Hạc lên trời.
- Mạnh Hạo Nhiên(689 - 740): nhà thơ, người
bạn tâm đầu ý hợp của Lí Bạch.
II. Đọc - Hiểu văn bản
- Yêu cầu đọc: giọng buồn bâng khuâng,
trong sáng, chậm rãi

- Nhận xét bản dịch: bản dịch hay, chuyển
được cái thần, cái hồn bài thơ. Tuy nhiên, còn
đôi chỗ dịch chưa sát (cố nhân, cô phàm).
- Thể thơ: thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
- Bố cục: 2 phần:
+ 2 câu đầu (cảnh biệt ly).
+ 2 câu sau(tình ly biệt).

Học sinh đọc 2 câu đầu.
- HS trao đổi theo cặp:
+ Phân tích, khái quát ý nghĩa của từ
“cố nhân”.
+So sánh với từ “bạn”.
- GV: nhận xét, bình giảng định hướng.

1- Hai câu đầu:
-“Cố nhân”: bạn cũ, bạn tâm giao, tri âm tri
kỉ, chỉ mối quan hệ gắn bó thân thiết đã từ lâu
giữa nhà thơ với bạn. Còn từ “bạn” chỉ mang
17


- HS trao đổi theo cặp: Tại sao tác giả
lại chọn nơi tiễn bạn là lầu Hoàng
Hạc?
- GV nhận xét.
- HS làm việc độc lập: Phân tích, suy
luận: Nơi Dương Châu bạn đến là nơi
như thế nào?
- GV nhận xét.

- HS thảo luận nhóm:
+ Trong câu thơ thứ hai có một cụm từ
mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. Theo
em, đó là cụm từ nào?
+ Em có thể nêu lên một số nét nghĩa
mà từ “yên hoa” gợi ra không?
+Nhận xét về không gian và thời gian
đưa tiễn trong bài thơ.
+Qua đó, em hiểu được tâm sự gì của
Lí Bạch gửi gắm qua câu thơ?
-GVđịnh hướng, bình giảng.
HS đọc 2 câu thơ cuối.

nét nghĩa bình thường.
Lí Bạch chia tay với mạnh Hạo Nhiên là
chia tay với người bạn gắn bó thân thiết, chia
tay với chốn đi - về của lòng mình. Tâm trạng
vì thế càng trĩu nặng nhớ thương; càng lưu
luyến, bịn rịn.
- Điểm xuất phát: Lầu Hoàng Hạc (phía Tây),
một nơi thanh cao, thoát tục.
- Điểm đến: Dương Châu (Phía Đông), một
nơi phồn hoa đô hội, một khoảng không gian
rộng lớn, một chuyến đi dài.
- Từ “yên hoa” chỉ cảnh đẹp mùa xuân, hoa
trong khói, cảnh phồn hoa đô hội.
Thời tiết đẹp, khung cảnh đẹp.
=>Giữa cảnh mùa xuân tươi tắn ấy, tiến đưa
bạn từ nơi thanh cao thoát tục đến chốn phồn
hoa đô hội, Lí Bạch gửi gắm nỗi lo âu không

biết điều gì sẽ đến với bạn.

- HS làm việc độc lập: Tái hiện hình
2- Hai câu cuối
ảnh cánh buồm được miêu tả trong câu
thơ.
- Hình ảnh cánh buồm khuất dần, nhỏ dần
“viễn ảnh” và cuối cùng mất hẳn trong bầu
- GV nhận xét.
không gian xanh biếc “bích không tận”.
- HS thảo luận nhóm: Phân tích, đánh
- “Cô phàm”: một mặt là hình ảnh thực, hình
giá:
ảnh cánh buồm lẻ loi, cô đơn. Mặt khác, thể
“Có ba cách cắt nghĩa cụm từ “cô
hiện cái nhìn lưu luyến của nhà thơ đang
phàm”, một là miêu tả bóng cánh
đứng trên lầu Hoàng Hạc trông theo thuyền
buồm cô đơn, lẻ loi ; hai là thể hiện
bạn. Tác giả nhìn bằng nỗi lòng cô đơn, đồng
sự cô lẻ trong lòng tác giả; ba là
thời nói lên sự cô đơn của Mạnh Hạo Nhiên.
ngầm dự báo sự bất trắc của Mạnh
Hạo Nhiên khi sắp bước chân vào
Ngôn ngữ giàu chất họa, câu thơ như vẽ
chốn quan trường. Em đồng ý với ra sự xa dần của cánh buồm, ban đầu còn
cách cắt nghĩa nào? Vì sao?”.
nhìn thấy rõ, sau mờ dần rồi mất hút vào
- GV gợi ý, định hướng.
khoảng trời nước bao la vô tận. Câu thơ còn

- HS làm việc độc lập:
diễn tả cái nhìn dõi trông và sự ngóng trông;
+ Phân tích đặc điểm ngôn ngữ thơ.
biểu hiện sự dùng dằng, bịn rịn đầy vấn
+ Liên hệ: Cái nhìn chăm chú, dõi vương.
theo cánh buồm đưa tiễn bạn của tác
giả khiến với nhớ tớibài thơ nào của + Liên hệ: Nguyễn Bính sau này có câu thơ
tiễn người yêu của cô gái tương tư nhìn
văn học Việt nam?.
18


- GV nhận xét, tổng kết.
- HS làm việc độc lập: Đọc thầm và
tìm hình ảnh thơ xuất hiện trong câu
kết.
- GV nhận xét.
- HS trao đổi theo cặp: Phân tích,
đánh giá ý nghĩa của hình ảnh dòng
Trường Giang chảy vào cõi trời, chảy
ngang bầu trời.
- GV khái quát, bình giảng.
- HS làm việc độc lập: Em hãy tự đặt
mình vào vị trí người đưa tiễn nhìn
theo cánh buồm dần xa và dòng sông
chảy vào cõi để cảm nhận tâm tình
của thi nhân?
- GV: nhận xét, giảng bình định
hướng.
- HS làm việc theo cặp: Lí giải: Hai

câu cuối tả cảnh hay tả tình? Vì sao?
- GV: Tổng kết, bình giảng.

thuyền chàng trai ra đi từ khuôn cửa tò vò:
Hôm qua xuống bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đó, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu… cánh
buồm.
- Câu kết xuất hiện hình ảnh dòng Trường
Giang chảy vào cõi trời, chảy ngang bầu trời.
+ Hình ảnh này, một mặt diễn tảsự tưởng
tượng phi phàm, bay bổng của Lí Bạch khởi
sắc từ hiện thực. Màu xanh của nước, màu
xanh của bầu trời cuối xuân nối liền với nhau,
nước trời một sắc tạo ra một không gian vô
cùng bát ngát, khoáng đạt. Mặt khác, nó gợi
tình cảm và tưởng tượng về người ra đi- như
đang đi dần vào cõi tiên,bay theo truyền
thuyết cánh Hạc vàng ngàn xưa trong câu
chuyện cổ. Tâm trạng nhà thơ vì thế trở nên
bàng hoàng, hẫng hụt, nuối tiếc.

Tác giả sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Bài thơ không nói đến tình mà tình cảm thật
Hoạt động 3: Gv hướng dẫn học dạt dào, không một lời tiếc nhớ mà lòng nhớ
tiếc thật mênh mông. Cả bài thơ là cảnh mà
sinh tổng kết bài học.
cả bài thơ là tình.
HS đọc ghi nhớ, nêu khái quát giá trị

III- Tổng kết
nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
GV phát phiếu học tập KWL, yêu cầu 1. Nội dung: thể hiện tình bạn chân thành,
học sinh điền vào cột L những điều trong sáng của Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên.
các em đã học được sau bài học, đối
chiếu với điều muốn biết, đã biết để
đánh giá kết quả học tập, sự tiến bộ
của bản thân qua giờ học.

2. Nghệ thuật: ngôn ngữ thơ hàm súc; giàu
chất nhạc, chất họa; bút pháp tả cảnh ngụ
tình; hình ảnh thơ giản dị, tươi sáng, giàu sức
biểu cảm.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 11 tháng 7 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
19


Trần Thị Thùy

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Anh (2007), Thơ mới với thơ Đường, Nxb Văn học.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Một số phương pháp và kỹ thuật dạy học tích
cực, Nxb Đại học sư phạm.
Cao Hữu Công - chủ biên (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, Nxb văn
học, Hà Nội.
3. Nguyễn Sĩ Đại (2007), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời
Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Trần Xuân Đề (2003), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục
5. Lê Văn Đình (1993), Giai thoại thơ Đường, Sở Giáo dục - Đào tạo Thanh Hóa.
Nguyễn Hà (1996), Đường thi tứ tuyệt, Nxb Văn hóa thông tin.
6. Nguyễn Thị Bích Hải (2003), Bình giảng thơ Đường, Nxb Giáo dục .
7. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa.
8. Nguyễn Thị Bích Hải (2002), Văn học Châu Á trong nhà trường Phổ thông,
Nxb Giáo dục.
9. Hữu Ngọc (1992), Thơ Đường bốn ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Nhiều tác giả (2006), Ngữ văn10, SGK, SGV, Nxb Giáo dục.
11. Nhiều tác giả (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
12. Lê Đức Niệm (1998), Diện mạo thơ Đường, Nxb Văn hóa thông tin.
13. Đặng Quốc Siêu (2001), Thơ Đường bình giảng, Nxb Giáo dục.
14.Trần Đình Sử (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà Nẵng.
15. L. Vư-gốt-xki (1981), Tâm lí học nghệ thuật - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

21


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC SỞ GD VÀ ĐT THANH
HÓA ĐÁNH GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN

STT
Tên đề tài
Năm học

1
Một số biện pháp dạy học tác phẩm văn nghị 2010 - 2011
luận chương trình Ngữ văn THPT
2
Một số biệ pháp rèn luyện kỹ năng mở bài, kết 2016 - 2017
bài trong bài văn nghị luận cho học sinh THPT

Xếp loại
C
C

22



×