1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển, con người nói chung và trẻ em nói riêng đều
luôn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là học sinh lứa
tuổi trung học phổ thông, lứa tuổi của sự chuyển tiếp giữa thế giới trẻ em và thế
giới người lớn. Xã hội càng phát triển thì những khó khăn, thách thức đó càng
trở nên đa dạng, phức tạp hơn nhiều. Chính vì vậy ngày càng có nhiều học sinh
gặp phải khó khăn trong học tập, trong việc định hướng những giá trị của cuộc
sống cũng như tương lai của bản thân. Ở các nước phát triển, đã có đội ngũ
chuyên gia tham vấn và trị liệu học đường để giúp đỡ học sinh một cách kịp
thời, hiệu quả và chuyên nghiệp về các vấn đề trên và khoảng hơn mười năm
gần đây ở Việt Nam cũng đã quan tâm đến việc phát triển đội ngũ này. Tuy
nhiên, dù có một đội ngũ làm việc chuyên nghiệp thì vai trò của người thầy giáo
trong việc giúp đỡ học sinh cũng không ai có thể thay thế vì thầy cô giao tiếp
với học sinh hàng ngày và chính là người hiểu rõ học sinh nhất, giữa thầy cô và
các em luôn có mối quan hệ thân thiết dựa trên sự tin tưởng và tôn trọng chung.
Giáo viên cũng là người mà học sinh ngưỡng mộ về sự hiểu biết của họ, chính
nhờ vốn kiến thức này, thầy cô giáo luôn là đối tượng mà các em học sinh lựa
chọn khi gặp khó khăn.
Bước sang thế kỉ XXI, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước đột
phá, tạo sự chuyển biến nhanh về mọi mặt trong đời sống của người Việt Nam.
Tuy nhiên, những biến động của nền kinh tế thị trường mở cửa cũng gây ra
không ít tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của nhiều người, đặc biệt là
giới trẻ, mà lực lượng đông nhất chính là học sinh trung học phổ thông.
Ở độ tuổi 15 – 18 tuổi, các em chưa phải là người lớn nhưng cũng không
còn là trẻ con, có khả năng nhận thức nhưng những nhận thức của các em chưa
thật sự chín chắn và có thể sẽ dẫn đến những sai lệch nếu không được định
hướng. Tuy nhiệm vụ chính là học tập, nhưng các em thường phải đối mặt với
rất nhiều áp lực, từ nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội. Ở nhà, đó là những
yêu cầu, kỳ vọng của cha mẹ, ông bà, là bầu không khí trong gia đình, là mối
quan hệ giữa con cái với cha mẹ…Ở trường, là áp lực về học tập, quan hệ với
thầy cô, bạn bè. Ngoài xã hội, các em phải đối mặt với những cám dỗ của các trò
chơi, các trang thông tin mạng… Và riêng các em cũng phải lúng túng trước các
vấn đề mới nảy sinh: những thay đổi về tâm sinh lí, tình yêu tuổi học trò, việc
lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai…Cá biệt có em còn vấp phải những vấn đề
nghiêm trọng hơn: lệch lạc giới tính, bạo hành gia đình, tệ nạn xã hội. Đối diện
với những vấn đề phức tạp đó, rất nhiều em sẽ không biết nhìn nhận, giải quyết
vấn đề như thế nào cho hợp lý. Theo chuyên gia tư vấn thuộc Trung tâm tư vấn
học đường tại Thành phố Hồ Chí Minh- Chuyên viên Nguyễn Hồng Sơn – thì :
“Đối với trẻ vị thành niên, có thể bị mất thăng bằng bởi chính những điều tưởng
như vặt vãnh ấy nếu không được những người xung quanh quan tâm, giúp đỡ và
chia sẻ kịp thời”[3]. Do đó trong những trường hợp như thế, học sinh rất cần đến
sự chia sẻ, sự thông hiểu từ gia đình, bạn bè, thầy cô.
Có thể nói, lứa tuổi 15 – 18 tuổi là một trong những giai đoạn khủng
hoảng và khó khăn trong cuộc đời của mỗi con người. Sự trợ giúp kịp thời và
1
đúng đắn từ phía người lớn là một nhu cầu bức thiết đối với học sinh, đặc biệt
khi các em rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm lý. Học sinh cần được giãi bày,
cần được tâm sự, cần những lời khuyên đúng đắn từ người lớn, mà gần gũi với
các em nhất chính là cha mẹ, thầy cô. Và khi không thể có được điều đó từ gia
đình, nhiều em xem thầy cô như chỗ dựa tinh thần. Cho các em những lời
khuyên, định hướng đúng đắn cho các em con đường phải đi, giúp các em tìm
lại niềm tin, niềm vui trong cuộc sống. Đó là những điều mà người thầy cần phải
thực hiện được để đáp ứng nhu cầu học sinh được tư vấn tâm lý, được chăm sóc
hỗ trợ để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong quá trình học tập ở trường
THPT.
Từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài Một vài kinh nghiệm trợ giúp học
sinh người dân tộc thiểu số phòng tránh rào cản tâm lý trong học tập ở trường
THPT Quan Hóa để nghiên cứu với mong muốn góp phần vào việc hỗ trợ học
sinh phòng tránh, khắc phục một phần các rào cản tâm lý trong học tập và hướng
đến sự phát triển, hoàn thiện nhân cách cho các em.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Một vài kinh nghiệm trợ giúp học sinh người dân tộc thiểu số
phòng tránh rào cản tâm lý trong học tập ở trường THPT Quan Hóa, chúng tôi
nhằm hướng đến các mục đích sau:
- Đối với giáo viên: Xác định được một số khó khăn, rào cản tâm lí trong
học tập của học sinh THPT và nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, rào cản
đó. Từ đó đưa ra một số biện pháp phòng tránh những rào cản tâm lý trong học
tập để việc học tập của học sinh đạt kết quả cao hơn.
Giúp giáo viên có hiểu biết hơn về tâm lý học sinh THPT, tâm lý học sinh
người dân tộc thiểu số để từ đó có những phương pháp dạy học và biện pháp
giáo dục phù hợp, đạt hiệu quả.
- Đối với học sinh: Giúp học sinh người dân tộc thiểu số vượt qua được
những khó khăn, rào cản tâm lý trong học tập. Từ đó các em có ý thức rèn luyện
bản thân để phòng tránh những ảnh hưởng của rào cản tâm lí đến kết quả học tập
để việc học tập đạt kết quả cao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là học sinh người dân tộc thiểu số ở trường THPT
Quan Hóa được phân công chủ nhiệm và giảng dạy.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài trên, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: phương pháp
này dùng để thu thập thông tin của học sinh người dân tộc thiểu số trong lớp chủ
nhiệm và lớp được phân công giảng dạy như: Họ tên; Ngày, tháng, năm sinh; Họ
tên bố, mẹ, nghề nghiệp; Hộ khẩu thường trú, dân tộc; Hoàn cảnh gia đình; Học
lực, hạnh kiểm (THCS); Sở thích, sở trường…
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm hiểu, nghiên cứu các khái niệm cơ
bản như: khó khăn tâm lí, rào cản tâm lí, các biểu hiện, các loại, nguyên nhân và
ảnh hưởng của rào cản tâm lí trong học tập của học sinh THPT; Nghiên cứu,
tham khảo các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu; tham khảo các trang
web về giáo dục và đào tạo.
2
Phương pháp quan sát: Dự giờ, quan sát cách học, giao tiếp của các em
học sinh nguời dân tộc thiểu số để thấy được những đặc điểm cá nhân, những
khó khăn mà các em đang gặp phải.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát thực tế, tham khảo các ý kiến
của giáo viên, học sinh, phụ huynh về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn: Trao đổi trò chuyện với học sinh, phụ huynh và
các thầy cô giáo dạy các em.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Tính toán tỉ lệ học sinh toàn trường,
học sinh người dân tộc thiểu số, tính toán kết quả kiểm tra.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1 Đặc điểm tâm lí tuổi học sinh THPT
- Vị trí, ý nghĩa của lứa tuổi THPT: Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh
niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi
người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì:
+ Thời kì từ 15 – 18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên
+ Thời kì từ 18 – 25 tuổi: giai đoạn 2 của tuổi thanh niên (thanh niên sinh
viên)
Học sinh THPT thuộc giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. Tuổi học sinh
THPT là lứa tuổi thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng, nó
được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lí. Tuy nhiên không phải lúc nào nhịp
điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lí cũng trùng hợp với các thời kì
trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành về mặt thể chất, nhân
cách, trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của
lứa tuổi. Trong thời đại ngày nay, hoạt động lao động và xã hội ngày càng phức
tạp, thời gian học tập của các em kéo dài làm cho sự trưởng thành thực sự về
mặt xã hội càng đến chậm. Do đó có sự kéo dài của thời kì tuổi thanh niên và
giới hạn lứa tuổi mang tính không xác định (ở mặt này các em được coi là người
lớn, nhưng mặt khác thì lại không). Điều đó cho ta thấy rằng thanh niên là một
hiện tượng tâm lí xã hội.
- Đặc điểm về sự phát triển thể chất: Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt
được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát triển thể chất đã bước vào thời kì
phát triển bình thường, hài hòa, cân đối. Các em có sức khỏe và sức chịu đựng
tốt hơn tuổi thiếu niên. Sự phát triển về thể chất ở lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng
đến sự phát triển tâm lý và nhân cách đồng thời nó còn ảnh hưởng đến sự lựa
chọn nghề nghiệp sau này của các em.
- Vị trí trong gia đình: Trong gia đình, các em đã có nhiều quyền lợi và
trách nhiệm như người lớn, cha mẹ bắt đầu trao đổi với các em về một số vấn đề
qua trọng trong gia đình. Các em cũng thấy được vai trò, trách nhiệm của bản
thân với gia đình.
- Vị trí trong nhà trường: Ở nhà trường, học tập vẫn là hoạt động chủ đạo
nhưng tính chất và mức độ thì phức tạp và cao hơn hẳn so với tuổi thiếu niên.
Đòi hỏi các em phải tự giác, tích cực độc lập hơn, phải biết vận dụng tri thức
một cách sáng tạo.
3
- Vị trí ngoài xã hội: Xã hội giao cho lứa tuổi học sinh THPT quyền công
dân, quyền tham gia mọi hoạt động bình đẳng như người lớn. Khi tham gia vào
hoạt động xã hội các em được tiếp xúc với nhiều tầng lớp xã hội khác nhau,
quan hệ xã hội được mở rộng, các em có dịp hòa nhập vào cuộc sống đa dạng
phức tạp của xã hội giúp các em tích lũy vốn kinh nghiệm sống để chuẩn bị cho
cuộc sống tự lập sau này.
- Hoạt động học tập: Hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo đối với
học sinh THPT nhưng yêu cầu cao hơn nhiều so với THCS. Hứng thú học tập
của các em ở lứa tuổi này gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp nên thái độ
của các em đối với việc học tập cũng có những chuyển biến rõ rệt. Các em bắt
đầu có thái độ lựa chọn đối với từng môn học. Rất hiếm xảy ra trường hợp có
thái độ như nhau đối với các môn học. Do vậy, giáo viên phải làm cho các em
hiểu ý nghĩa và chức năng giáo dục phổ thông đối với giáo dục nghề nghiệp và
đối với sự phát triển nhân cách toàn diện của học sinh.
- Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ: Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn
quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do cơ thể các em đã được hoàn thiện,
đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển năng lục
trí tuệ. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề một cách rất nhanh.
Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn nhược điểm là chưa phát huy hết khả năng
lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy,
giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ các em tư duy một cách tích cực độc lập để
phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng.
- Sự phát triển của tự ý thức: Đây là một đặc điểm nổi bật trong sự phát
triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển
tâm lí của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu và tự đánh
giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã hội. Các
em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn nhận thức về vị trí
của mình trong xã hội tương lai. Các em không chỉ chú ý đến vẻ bên ngoài mà
còn chú ý đến phẩm chất bên trong. Ý thức làm người lớn khiến các em có nhu
cầu khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn
người khác quan tâm đến mình. Nhìn chung học sinh THPT có thể tự đánh giá
bản thân một cách sâu sắc nhưng đôi khi vẫn chưa đúng đắn nên các em vẫn cần
sự giúp đỡ của người lớn. Do đó, người lớn phải lắng nghe ý kiến của các em,
mặt khác giúp các em hình thành được biểu tượng khách quan về nhân cách của
mình nhằm giúp cho sự đánh giá của các em được đúng đắn hơn, tránh những
phiến diện, lệch lạc trong đánh giá.
- Sự hình thành thế giới quan: Nhìn chung, ở tuổi này các em đã có ý thức
xây dựng lý tưởng sống cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng
gần với sinh hoạt thực tế hằng ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những
khái niệm, biết xử sự một cách đúng đắn trong những hoàn cảnh, điều kiện khác
nhau nhưng có khi các em lại thiếu tin tưởng vào những hành vi đó. Vì vậy, giáo
viên phải khéo léo, tế nhị khi phê phán những hình ảnh lý tưởng còn lệch lạc để
giúp các em chọn cho mình một hình ảnh lý tưởng đúng đắn để phấn đấu vươn
lên.
4
- Xu hướng nghề nghiệp: Ở lứa tuổi này các em đã xuất hiện nhu cầu lựa
chọn vị trí xã hội trong tương lai cho bản thân và các phương thức đạt tới vị trí
xã hội ấy. Xu hướng nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy các mặt hoạt động và
điều chỉnh các hoạt động của các em. Càng cuối cấp thì xu hướng nghề nghiệp
càng được thể hiện rõ rệt và mang tính ổn định hơn. Nhiều em đã biết gắn những
đặc điểm riêng về thể chất, về tâm lý và khả năng của mình với yêu cầu của
nghề nghiệp. Tuy vậy, sự hiểu biết về yêu cầu nghề nghiệp của em còn hạn chế
và phiến diện, chưa đầy đủ, vì vậy công tác hướng nghiệp cho học sinh có ý
nghĩa quan trọng. Qua đó giúp cho học sinh lựa chọn nghề nghiệp sao cho phù
hợp với hứng thú, năng lực và phù hợp với yêu cầu của xã hội.
- Hoạt động giao tiếp: Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi phát
triển mạnh. Ở lứa tuổi này tình bạn đối với các em có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Ngoài tình bạn ra ở lứa tuổi này còn xuất hiện một loại tình cảm đặc biệt
– tình yêu nam nữ. Tình yêu của lứa tuổi này còn được gọi là “tình yêu bạn bè”,
bởi vì các em thường che giấu tình cảm của mình trong tình bạn nên đôi khi
không phân biệt được đó là tình bạn hay tình yêu. Do đó giáo viên cần thấy rằng
đây là bắt đầu một giai đoạn bình thường và tất yếu trong sự phát triển của con
người. Tình yêu ở lứa tuổi thanh niên về cơ bản là tình cảm lành mạnh, trong
sáng nhưng cũng là một vấn đề rất phức tạp, nó đòi hỏi sự khéo léo, tế nhị của
giáo viên. Một mặt, giáo viên phải làm cho các em có thái độ đúng đắn trong
quan hệ tình cảm với bạn khác giới, phải làm cho các em biết kìm chế những
cảm xúc của bản thân; mặt khác, phải nghiên cứu từng trường hợp cụ thể để đưa
ra cách giải quyết thích hợp. Bất luận trong trường hợp nào cũng đều không
được can thiệp một cách thô bạo, không chế nhạo, phỉ báng, ngăn cấm độc đoán
mà phải có thái độ trân trọng và tế nhị, đồng thời cũng không được thờ ơ, lãnh
đạm tránh những phản ứng tiêu cực ở các em [5].
2.1.2. Một số đặc điểm tâm lý của học sinh dân tộc thiểu số ở trường
THPT
Sự phát triển tâm lý của học sinh người dân tộc thiểu số ở trường THPT
cũng có tất cả những đặc điểm và quy luật chung của sự phát triển tâm lí con
người nhưng do các em sống ở miền núi cao, hoàn cảnh kinh tế - xã hội, hoàn
cảnh tự nhiên và hoàn cảnh hưởng thụ giáo dục khác với các em học sinh người
kinh sống ở đồng bằng và thành phố nên sự phát triển tâm lí của các em cũng có
những đặc điểm riêng, cụ thể:
- Đặc điểm tri giác: Các em có độ nhạy cảm thính giác, thị giác phát triển
rất cao vì điều kiện sinh sống đặc thù các em sinh ra và lớn lên giữa đại ngàn
rừng núi, từ nhỏ đã quen với sự yên tĩnh của núi rừng, với tiếng chim muông…
Giác quan tinh, nhạy là điều kiện rất thuận lợi cho các em học sinh dân tộc thiểu
số tri giác đối tượng. Tuy nhiên, trong học tập sự định lượng tri giác theo các
nhiệm vụ học tập lại chưa cao.
- Đặc điểm tư duy, ngôn ngữ, trí nhớ: Vốn tiếng phổ thông (tiếng Việt)
của các em học sinh dân tộc thiểu số ở cấp THPT còn nghèo nàn nên các em gặp
nhiều khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong giao tiếp và học
tập, thể hiện rõ nhất trong việc làm bài kiểm tra, trả lời câu hỏi, kĩ năng đọc rất
yếu, phát âm tiếng la tinh rất khó khăn và đặc biệt giải thích từ Hán Việt và hiểu
5
các quy tắc về chính tả, viết hoa [2].Tư duy khoa học của các em dân tộc thiểu
số rất yếu nên việc học các môn tự nhiên Toán, Lý, Hóa, Sinh gặp nhiều khó
khăn.
- Đặc điểm tình cảm và giao tiếp xã hội: Trong giao tiếp, các em học sinh
dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn. Các em muốn thể hiện tình cảm nhưng khó
nói thành lời do các em hạn chế về vốn từ vựng tiếng Việt. Từ đó, các em hay
xấu hổ, rụt rè, không mạnh dạn trao đổi với các thầy cô giáo. Điều đó ảnh hưởng
không ít tới việc tiếp thu kiến thức trên lớp cũng như tự học ở nhà của các em.
- Đặc điểm tình cảm, tính cách: Tình cảm của các em học sinh dân tộc
thiểu số rất chân thực, mộc mạc, yêu ghét rõ ràng, không có hiện tượng quanh
co hoặc khéo léo che đậy những tình cảm của mình.
Các em thường rất gắn bó với gia đình, làng bản vì đặc điểm nơi sinh
sống của các em khá riêng biệt, các gia đình sống nhỏ lẻ hoặc cụm dân cư ở
từng góc núi, quả đồi.
Học sinh người dân tộc thiểu số có kiểu kết bạn cũng khá đặc biệt. Các
em thường chơi thành nhóm, nếu hợp nhau thì kết thành bạn tri kỉ rất thân thiết,
thậm chí có khuyết điểm cũng bao che cho nhau đến cùng.
Bản chất, nét tính cách, tâm lí đặc biệt của các em học sinh dân tộc thiểu
số là hiền lành, thật thà, chất phác. Trong quan hệ với thầy cô, bạn bè, các em
thường rất trung thực, nghĩ như thế nào thì nói như thế ấy. [2]
2.1.3. Một số khái niệm: khó khăn tâm lý, rào cản tâm lý và rào cản
tâm lý trong học tập của học sinh THPT
- Khó khăn tâm lí là những trở ngại về mặt tâm lí trong quá trình con
người thực hiện và đạt được mục đích của hoạt động.
- Khó khăn tâm lí trong học tập chính là các trở ngại về mặt tâm lí trong
quá trình học tập làm cho học sinh khó đạt hoặc không đạt được mục tiêu học
tập. Khó khăn tâm lí được biểu hiện ở các mặt:
+ Mặt nhận thức: Chủ thể chưa nhận thức đầy đủ về nhiệm vụ hoạt động
của mình, chưa đánh giá đúng khả năng của bản thân trong hoạt động.
+ Mặt xúc cảm – tình cảm: Thiếu khả năng kiềm chế cảm xúc, tình cảm,
thờ ơ với hoạt động.
+ Mặt hành vi: Thường có các hành vi lúng túng, nói năng thiếu chính
xác, hoạt động thiếu logic, hành vi diễn ra bột phát, không làm chủ được trong
quá trình hoạt động.
Mức độ của khó khăn tâm lí trong học tập có cả mức độ thấp là những yêu
cầu, thách thức các phẩm chất tâm lí ở học sinh để đạt được mục tiêu và cả ở
mức độ cao làm cản trở động lực tiến hành các hành động học tập đạt đến mục
tiêu học tập. Khi ở mức độ cao ấy khó khăn tâm lí trở thành rào cản tâm lí.
- Rào cản tâm lí là những khó khăn tâm lí ở mức độ cao, trở thành những
thách thức, trở ngại ở mức độ lớn, làm giảm động lực hoạt động của con người,
ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của hoạt động.
Rào cản tâm lí trong học tập chẳng qua là những khó khăn tâm lí trong
học tập nhưng ở mức độ cao, có ảnh hưởng đến động lực tiến hành các hành
động học tập ở học sinh và có ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.[4]
6
2.1.4. Chức năng và nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp
Chức năng của giáo viên chủ nhiệm: Giáo viên chủ nhiệm là loại hình
công tác giáo dục đã được quy định trong Điều lệ nhà trường nhằm thực thi điều
phối các hoạt động giáo dục và quản lí học sinh trong phạm vi một lớp học. Như
vậy giáo viên chủ nhiệm thực hiện hai chức năng chủ yếu là chức năng giáo dục
(là nhà giáo dục trực tiếp với tập thể và từng học sinh trong lớp) và chức năng
quản lý (là nhà quản lý với lớp chủ nhiệm).
Là nhà giáo dục, giáo viên chủ nhiệm đảm bảo phối hợp các hoạt động
giáo dục trên lớp và giáo dục ngoài giờ lên lớp, thực thi các nhiệm vụ giáo dục
toàn diện (đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ…) đối với mỗi học sinh; xây dựng
lớp trở thành một tập thể học sinh, tức là tạo lập một môi trường giáo dục và
phương tiện tác động đảm bảo được hiệu quả giáo dục toàn diện nhân cách học
sinh (về nhận thức, thái độ, hành vi).
Là nhà quản lý, giáo viên chủ nhiệm phải nắm vững tình hình, đặc điểm,
hoàn cảnh của mỗi học sinh trong lớp; tổ chức bộ máy quản lý lớp theo cơ cấu
hợp lý và đảm bảo cho bộ máy này hoạt động có hiệu quả; chỉ đạo các hoạt động
của lớp theo kế hoạch chung của nhà trường; đánh giá sự tiến bộ của học sinh
trong học kỳ, trong năm học.
Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm: Được quy định tại Điều 31 của Điều
lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐTngày
28/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).[6]
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Quan Hóa là huyện vùng cao, biên giới, cách trung tâm tỉnh Thanh Hóa
140km về phía Tây, theo quốc lộ 217 và 15A. Toàn huyện có 01 thị trấn và 14
xã, 123 chòm bản, khu phố với tổng diện tích tự nhiên 99.013,68 ha. Phía bắc
giáp huyện Vân Hồ tỉnh Sơn La, huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình. Phía nam giáp
với huyện Viêng Xay của tỉnh Hủa Phăn (nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào)
và huyện Quan Sơn (tỉnh Thanh Hóa). Phía đông giáp với huyện Bá Thước (tỉnh
Thanh Hóa) và có chung đường biên giới 4,8 km với nước bạn Lào tại xã Hiền
Kiệt. Toàn huyện có 5 dân tộc anh em sinh sống: Thái, Mường, Kinh, Hmong và
Hoa. Với tổng số dân toàn huyện năm 2019 là 47062 người, trong đó dân tộc
Thái có 30.672 người (chiếm 65,7%), dân tộc Mường có 11.996 người (chiếm
25,2%), dân tộc Kinh 3811 người (chiếm 8%), dân tộc Mông 463 người (chiếm
1%), dân tộc Hoa 49 người (chiếm 0,1%).Theo báo cáo số 564/BC-UBND ngày
06/19/2019 của UBND huyện Quan Hóa về việc báo cáo kiểm điểm chỉ đạo điều
hành năm 2019 thì kinh tế của huyện tiếp tục duy trì ổn định, lĩnh vực văn hóa –
xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, an sinh xã hội được chăm lo, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, quốc phòng – an ninh, đối ngoại
được tăng cường, an ninh biên giới và trật tự an toàn xã hội luôn ổn định. Tuy
nhiên cho đến nay, huyện Quan Hóa vẫn đang xếp vào một trong số những
huyện nghèo trong tỉnh và nghèo nhất cả nước.
Trường THPT Quan Hóa là một trong hai trường bậc THPT của huyện
Quan Hóa. Trường đóng trên địa bàn khu 4 thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa,
tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 134 km.Trường
7
THPT Quan Hóa là một trong những trường miền núi cao của tỉnh Thanh Hóa.
Địa bàn tuyển sinh của trường gồm 1 thị trấn (thị trấn Hồi Xuân và 9 xã (Phú
Nghiêm, Phú Xuân, Thanh Xuân, Phú Lệ, Phú Sơn, Trung Thành, Thành Sơn,
Trung Sơn và Phú Thanh). Học sinh của trường đa số là con em đồng bào dân
tộc thiểu số đang sinh sống trên địa bàn huyện.
Năm học 2019 – 2020 trường THPT Quan Hóa có tổng số học sinh là 677
em, trong đó học sinh người dân tộc kinh 135 em, chiếm 19,9 %; học sinh người
dân tộc HMông 13 em, chiếm 1,9 %; học sinh người dân tộc Hoa 5 em, chiếm
0,7%; học sinh người dân tộc Thái 350 em, chiếm 51,7 %; học sinh người dân
tộc Mường 174 em, chiếm 23,9%. Như vậy số học sinh người dân tộc thiểu số
trong trường chiếm tới 80,1% học sinh toàn trường.
Lớp 12a2 tôi chủ nhiệm có 38 em, gồm 3 dân tộc: Thái, Mường, Kinh;
trong đó học sinh dân tộc kinh 07 em, chiếm 10,6%; học sinh dân tộc Thái: 23
em, chiếm 60,5%; học sinh dân tộc Mường 11 em, chiếm 28,9%. Học sinh ở
khu vực thị trấn 07 em, còn lại tất cả các em đều thuộc các xã vùng khó khăn đi
học cách trường trên 10 km trở lên nên các em không thể đi học về trong ngày
mà phải ở nhà người quen hoặc trọ nhà dân để ở, cuối tuần hoặc cuối tháng các
em mới về thăm nhà.
Các em học sinh người dân tộc thiểu số trong lớp 12a2 có những đặc điểm
sau:
*Thuận lợi:
- Đa số các em hiền lành, thật thà, chất phác, nhiều em có năng khiếu văn
nghệ, thể dục thể thao.
- Tất cả các em đều thuộc đối tượng được hưởng các chế độ chính sách
của nhà nước dành cho con em dân tộc vùng đặc biệt khó khăn (chế độ tiền, gạo,
hỗ trợ chi phí học tập; chế độ miễn, giảm học phí).
- Ban giám hiệu nhà trường, các tổ chức đoàn thể trong trường luôn quan
tâm đến công tác giảng dạy và giáo dục học sinh, quan tâm đến các em học sinh
có hoàn cảnh khó khăn.
- Nhiều phụ huynh đã quan tâm đến việc học tập và rèn luyện của các em.
* Khó khăn:
- Chất lượng đầu vào của các em học sinh người dân tộc thiểu số rất thấp
nên ảnh hưởng rất lớn đến việc các em tiếp thu khối lượng kiến thức ở bậc
THPT. Hầu hết các em đều học trung bình, yếu và thậm chí kém ở các môn
Tiếng Anh, Toán, Vật lí, Hóa học và Sinh học.
- Hoàn cảnh kinh tế gia đình các em còn nhiều khó khăn, trong lớp có tới
10 em thuộc diện hộ nghèo, 05 em thuộc diện hộ cận nghèo, 06 em mồ côi bố,
01 em không có bố nên ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lí, việc học tập, rèn luyện
của các em.
- Đa số các em ở xa (cách trường hơn 10 km), đường xá đi lại khó khăn,
một số em phải qua sông qua đò nên các em không thể về nhà trong ngày mà
phải ở trọ học do đó không có người quản lí, kèm cặp, nhắc nhở. Vì vậy nhiều
em không tự giác học tập, rèn luyện, chểnh mảng học tập. Một số học sinh nam
nghiện game, một số học sinh nữ sa vào yêu đương, nghiện facebook, zalo nên
lơ là, không chú tâm học tập, thậm chí có ý định bỏ học.
8
- Các em chưa năng động, chưa xác định được mục đích học tập nên
không có sự phấn đấu vươn lên.
- Nhiều phụ huynh học sinh còn phó mặc con cái cho nhà trường, thầy cô;
chưa phối hợp với nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục học
sinh.
Những rào cản tâm lí trong học tập của học sinh người dân tộc thiểu
số ở lớp 12a2 trường THPT Quan Hóa:
Qua khảo sát, tôi nhận thấy đa phần học sinh người dân tộc thiểu số trong
lớp tôi chủ nhiệm các em đều đang gặp phải những khó khăn tâm lí và những
khó khăn đó đã trở thành rào cản tâm lí trong học tập của các em. Biểu hiện cụ
thể của rào cản tâm lí trong học tập của học sinh đó là:
-Về mặt nhận thức:
+ Các em chưa nhận thức đầy đủ nhiệm vụ học tập ở THPT, chưa xác định
được mục tiêu học tập. Việc nhận thức chưa đầy đủ về nhiệm vụ học tập được
coi là rào cản lớn làm hạn chế kết quả học tập của các em.
+ Các em đánh giá chưa đúng về bản thân. Đa phần các em học sinh
người dân tộc thiểu số thường đánh giá thấp bản thân nên dẫn đến thái độ mặc
cảm, tự ti, lo sợ ảnh hưởng tới kết quả học tập.
+ Các em đánh giá chưa đúng những vấn đề cần học tập nên chưa cố gắng
hoặc thụ động trong học tập, do đó kết quả học tập thường bị ảnh hưởng.
- Về mặt xúc cảm – hành động: Các em thường thiếu khả năng kiềm chế
cảm xúc, tình cảm, chán nản và thờ ơ với việc học hành.
- Về mặt hành vi: Các em buông xuôi nhiệm vụ học tập, không cố gắng
hết sức để hoàn thành nhiệm vụ học tập, chống đối lại các yêu cầu của việc học,
một số em còn rút lui, thỏa hiệp trước rào cản tâm lý gặp phải dê dẫn đến hành
động bỏ học giữa chừng.
-Về mặt kĩ năng: Các em thiếu các kĩ năng thực hiện các thao tác, hành
động học tập để vượt qua rào cản tâm lí, không có phương pháp học tập khoa
học, đúng đắn nên gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ học tập.
* Nguyên nhân của những rào cản tâm lí trong học tập của học sinh
trường THPT Quan Hóa nói chung và học sinh người dân tộc thiểu số trong lớp
12a2 nói riêng là:
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Đa phần các em thiếu kinh nghiệm sống và học tập một cách độc lập.
+ Bản thân các em chưa chủ động tích cực trong học tập, rèn luyện.
+ Nhiều em rụt rè, không tự tin vào bản thân do các em còn hạn chế về
ngôn ngữ tiếng Việt khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô.
+ Bản thân chưa có phương pháp học tập hợp lí, chưa tự giác học tập.
+ Thiếu sự quản lí, giám sát, đôn đốc của gia đình nên các em lơ là, chểnh
mảng học tập.
+ Kiến thức lớp dưới hổng nên khó tiếp thu kiến thức mới.
+ Chưa biết cách làm quen với cách học tập mới ở THPT.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Môi trường học tập ở trường THPT khác THCS.
9
+ Lượng tri thức phải tiếp thu ở THPT quá lớn; kiến thức ở THPT khó
hơn THCS.
+ Điều kiện vật chất, phương tiện liên quan đến hoạt động học tập thiếu
thốn bởi đa số các em phải trọ học, nhiều em ở chung một phòng trọ nên không
gian, góc học tập không có.
+ Các em chưa quen với phương pháp giảng dạy của các thầy cô ở THPT.
+ Thiếu tài liệu tham khảo, học tập. Các em không có thói quen tự giác,
chủ động tìm các nguồn tài liệu (thư viện trường, mạng internet) để tham khảo.
+ Hoàn cảnh gia đình khó khăn, hơn 50% học sinh người dân tộc thiểu số
thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Nhà xa, đường sá khó khăn, cách trở các em
không thể đi lại trong ngày nên phải ở nhà người quen, thuê nhà trọ, không có
cha mẹ quản lý, cộng thêm chi phí sinh hoạt tốn kém, nhớ nhà, khiến nhiều em
nản chí thậm chí có ý định bỏ học.
Những rào cản tâm lí trên đã ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình học tập của
học sinh trường THPT Quan Hóa nói chung và học sinh người dân tộc thiểu số ở
lớp 12a2 nói riêng. Nó làm giảm động lực học tập ở các em bởi các em không
xác định rõ ràng được động cơ học tập và không hình thành được động cơ học
tập tích cực; làm trì trệ quá trình tiến hành các thao tác, hành động học tập và
không đạt được mục đích học tập của học sinh. Do đó kết quả học tập của các
em nói chung còn thấp.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để trợ giúp học sinh người dân tộc thiểu
số ở trường THPT Quan Hóa phòng tránh rào cản tâm lí trong học tập
Trong quá trình giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã áp dụng
một số biện pháp sau để trợ giúp học sinh người dân tộc thiểu số vượt qua rào
cản tâm lý trong học tập để việc học tập của các em đạt kết quả cao hơn. Các
giải pháp đó cụ thể như sau:
2.3.1. Đầu tiên phải tìm hiểu để nắm bắt được tâm lý của học sinh
người dân tộc thiểu số ở lớp chủ nhiệm
Để công tác quản lý lớp học đạt kết quả mong muốn, tôi đã tìm hiểu, nắm
vững và phân loại học sinh trong lớp. Bởi tôi xác định nếu không làm tốt yêu
cầu tiên quyết này thì những tác động sư phạm được lựa chọn sẽ không phù hợp,
hiệu quả giáo dục không cao, thậm chí thất bại.
- Về nội dung: tôi tìm hiểu rõ, đầy đủ, chính xác tất cả học sinh trong lớp,
nhóm và về mỗi cá nhân học sinh. Cụ thể:
+ Tìm hiểu nghề nghiệp của cha mẹ; mức sống; hoàn cảnh sống của gia
đình các em học sinh.
+ Tìm hiểu các đặc điểm thể chất, tâm sinh lý của học sinh.
+ Các đặc điểm về tính cách và thói quen hành vi đạo đức; sở thích; mơ
ước của các em.
+ Học lực và các đặc điểm nhận thức – học tập; khả năng tiếp thu các môn
học.
+ Quan hệ cộng đồng, bạn bè của các em.
- Thời gian tìm hiểu: Tôi tìm hiểu những nội dung trên ngay sau khi nhận
lớp chủ nhiệm để nắm được thông tin cơ bản ban đầu và tiếp tục tìm hiểu thêm
10
trong qua trình thực hiện nhiệm vụ để nắm thông tin bổ sung về từng học sinh,
từ đó có những biện pháp phù hợp để tác động, hỗ trợ và giáo dục các em.
- Về các biện pháp: Để nắm bắt được những nội dung trên, tôi đã sử dụng
các biện pháp sau:
+ Sử dụng phiếu khảo sát. Cho học sinh tự điền những thông tin vào phiếu
phảo sát (Họ tên; Quê quán; Dân tộc; Nghề nghiệp của bố mẹ; Sức khỏe; Sở
thích; Sở trường; Ước mơ; Môn học yêu thích; Lựa chọn nghề nghiệp tương
lai…)
+ Gặp gỡ, trao đổi với cha mẹ học sinh để nắm bắt được thói quen, sở
thích, tính tình của học sinh, chú ý quan tâm đến những đối tượng đặc biệt.
+ Gặp gỡ, trao đổi với các giáo viên chủ nhiệm năm trước, giáo viên bộ
môn để biết được lực học, tính cách của học sinh.
+ Nghiên cứu hồ sơ, học bạ, sổ điểm, sổ đầu bài để có thêm thông tin về
học sinh.
+ Trò chuyện với học sinh, cho học sinh tự giới thiệu về bản thân, gia
đình.
+ Quan sát, dự giờ tại lớp; quan sát việc học sinh tham gia các hoạt động.
Từ bản thân các em tự giới thiệu và thông qua Phiếu thông tin cá nhân, tôi
đã sơ bộ nắm được hoàn cảnh kinh tế, tình hình gia đình, mối quan hệ gia đình,
những ước muốn, sở trường, đặc điểm tâm lí và những khó khăn (nếu có) của
học sinh trong lớp.
2.3.2. Phân loại học sinh người dân tộc thiểu số gặp rào cản tâm lí
trong học tập cần hỗ trợ
Sau khi có được các thông tin về từng học sinh, tôi tiến hành sàng lọc
chọn ra những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt để nếu cần, thu thập thêm thông
tin về các em thông qua bạn bè, cha mẹ, giáo viên chủ nhiệm hay thầy cô cũ của
các em.
Sau khi nắm chắc được tình hình học sinh, tôi tiến hành bước thứ hai:
quan sát. Quan sát để phát hiện những thay đổi trong hành vi, những biểu hiện
bất thường trong đời sống học đường, quan sát những học sinh có nguy cơ rối
nhiễu tâm lí để từ đó có những can thiệp kịp thời, giúp các em vượt qua khó
khăn hoàn thành nhiệm vụ học tập và tu dưỡng đạo đức. Căn cứ vào thông tin
thu thập được và quan sát quá trình học tập trên lớp của các em học sinh người
dân tộc thiểu số trong lớp, tôi chia làm 2 nhóm chính:
Nhóm 1: Những học sinh có tâm lí ổn định, hoàn thành tốt nhiệm vụ học
tập (hoàn cảnh gia đình tốt, chăm ngoan, có ý thức học tập, có mục tiêu học tập,
luôn nỗ lực cố gắng, học lực khá trở lên, hạnh kiểm tốt)
TT
Họ tên
Giới
tính
Dân tộc
Quê
quán/cách
trường
1
Hà Thị Thu
Chang
Nữ
Thái
Thành Sơn;
43 km
2
Hà Phương Châm Nữ
Thái
Phú Sơn
26 km
Đặc điểm cá nhân
Ngoan, có ý thức
và mục đích học
tập
Chăm chỉ, có mục
đích học tập
11
3
Cao Phi Hùng
Nam
Thái
Phú Nghiêm
6 km
Phú Sơn
43 km
Ngoan, chăm chỉ,
có trách nhiệm
4 Phạm Ngọc Minh Nam Thái
Ngoan, chăm chỉ,
có mục đích học
tập
5 Đinh Thị Nguyệt Nữ
Mường Thành Sơn
Ngoan, ý thức học
47 km
tập tốt
6 Hà Thị Thảo (b)
Nữ
Thái
Phú Xuân
Chăm chỉ, ý thức
17 km
học tập tốt
Nhóm 2: Những học sinh có biểu hiện bất ổn về tâm lí, gặp khó khăn trong học
tập cần được chăm sóc, hỗ trợ.
TT
Họ tên
Giới
tính
Dân tộc
Nơi ở hiện tại
Hoàn cảnh gia
đình/ Đặc điểm cá
nhân
1
Vi Thường Chính
Nam
Thái
Phú Thanh
28 km
2
Hà Văn Chuẩn
Nam
Mường
3
Cao Thị Cúc
Nữ
Thái
Thanh Xuân
16 km
Nam Xuân
14 km
4
Hà Văn Diệm
Nam
Thái
Thành Sơn
43 km
5
Lữ Quốc Dũng
Nam
Thái
Phú Nghiêm
8 km
6
Trịnh Tiến Dĩnh
Nam
Thái
Thị trấn
2 km
7
Vi Thị Duyên
8
9
Kinh
tế
khá;
nghiện game, hay
ngủ gật trên lớp.
Hộ cận nghèo; học
yếu tất cả các môn.
Kinh
tế
bình
thường
trầm, rụt rè, ít nói
Hộ cận nghèo; học
yếu, chưa chăm
chỉ.
Không có bố;
thường xuyên đi
học muộn; học yếu
các môn tự nhiên
Kinh tế khá; lười
học; thường xuyên
vi phạm nội quy
Bố mất; chưa chịu
khó học bài; yêu
sớm
Kinh
tế
bình
thường; học yếu,
chưa mạnh dạn
tham gia các hoạt
động tập thể.
Hộ cận nghèo;
chưa chăm chỉ, độ
tập trung không
cao
Nữ
Thái
Phú Nghiêm
8 km
Đinh Công Đắc
Nam
Mường
Trung Thành
51 km
Hà Công Đông
Nam
Thái
Thành Sơn
43 km
12
10
Hà Văn Hải
Nam
Thái
Phú Nghiêm
8 km
11
Hà Văn Hào
Nam
Mường
12
Hà Văn Hiếu
Nam
Thái
Trung Thành
51 km
Phú Xuân
17 km
13
Hà Văn Hưng
Nam Thái
Phú Sơn
33 km
14
Hà Thùy Linh
Nữ
Thái
Thành Sơn
47 km
15
Hà Văn Lưu
Nam
Thái
Thành Sơn
47 km
16
Hà Thúy Nga
Nữ
Mường
Hồi Xuân
10 km
17
Hà Văn Nghiệp
Nam
Mường
18
Hà Văn Nhuận
Nam
Mường
Phú Sơn
26 km
Phú Sơn
36 km
19
Hà Thị Quỳnh (a) Nữ
Mường
Hồi Xuân
10 km
20
Hà Thị Quỳnh (b) Nữ
Thái
Phú Thanh
26 km
21
Hà Thị Thảo (a)
Nữ
Mường
Thanh Xuân
15 km
22
Lương Thị Tịch
Nữ
Mường
Nam Xuân
12 km
23
Hà Anh Tuấn
Nam
Thái
Hồi Xuân
10 km
Hộ nghèo; bố bỏ
đi làm ăn xa không
về; học yếu, chưa
xác định mục đích
học tập
Hộ nghèo; học yếu,
hút thuốc lá.
Hộ cận nghèo; học
yếu, chưa chịu khó
học tập.
Hộ cận nghèo,
nghiện game, hay
ngủ gật trong lớp.
Hộ cận nghèo; bố
bệnh nặng, có ý
định bỏ học.
Kinh
tế
bình
thường;
chậm,
thường xuyên vi
phạm nội quy.
Hộ nghèo; bố mất;
yêu sớm, có ý định
bỏ học.
Bình thường; học
yếu, hay nghỉ học.
Hộ cận nghèo;
thông minh nhưng
chưa chịu khó,
ham chơi
Hộ nghèo; bố mất;
chưa xác định mục
đích học tập
Hộ nghèo; ở với
ông ngoại; Yêu
sớm
Kinh
tế
bình
thường; chưa xác
định mục đích học
tập.
Hộ cận nghèo; Yêu
sớm, có ý định bỏ
học.
Hộ nghèo; bố mẹ li
hôn; ở với bà nội;
13
có ý định bỏ học.
24 Lữ Anh Tuấn
Nam Thái
Nam Xuân
Hộ cận nghèo; học
12 km
yếu, chưa chăm
chỉ.
25 Phạm Bá Tuấn
Nam Thái
Thanh Xuân
Kinh
tế
bình
15 km
thường;
thường
xuyên nghỉ học, vi
phạm nội quy, có ý
định bỏ học.
Tất cả các thông tin về học sinh sau khi đã được sàng lọc, phân loại tôi
đều ghi chép, lưu giữ trong các loại hồ sơ. Bằng cách làm này, tôi đã quản lý,
theo dõi được quá trình phát triển của học sinh và đó cũng là căn cứ để tôi báo
cáo ban giám hiệu, trao đổi với các giáo viên và trao đổi với phụ huynh học sinh
để cùng phối hợp trợ giúp các em.
2.3.3.Tiến hành dùng các biện pháp để hỗ trợ học sinh người dân tộc
thiểu số vượt qua rào cản tâm lí trong học tập
Trên cơ sở phân loại đối tượng học sinh tôi sẽ tiến hành các biện pháp để
hỗ trợ học sinh người dân tộc thiểu số vượt qua rào cản tâm lí trong học tập. Cụ
thể:
Biện pháp 1: Giáo viên phải tiếp cận cá nhân và xây dựng quan hệ tin
cậy, tôn trọng, thân thiện với học sinh người dân tộc thiểu số
Học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm có 38 em, trong đó có tới 31 em người
dân tộc thiểu số (Mường, Thái), mỗi dân tộc lại có ngôn ngữ riêng, khi giao tiếp
với nhau các em thường sử dụng ngôn ngữ của mình, khi đến trường đến lớp tất
cả đều sử dụng tiếng phổ thông. Hiện tượng giao thoa ngôn ngữ làm cho các em
phát âm không chuẩn, hiểu ý nghĩa của từ ngữ chưa chính xác, nhất là từ Hán
Việt. Do khả năng diễn đạt bằng tiếng phổ thông còn hạn chế, nên việc học tập
có khó khăn, các em thường rụt rè, tự ti, ngại giao tiếp với người lạ, nếu bị phê
bình với lời lẽ nặng nề, kết hợp với kết quả học tập thấp các em thường chán
nản, mặc cảm, dần xa lánh thầy cô giáo, dễ dẫn đến bỏ học.
Bản chất nét tính cách của các em học sinh người dân tộc thiểu số là hiền
lành, thật thà, chất phác. Trong quan hệ với thầy cô, bạn bè các em thường rất
trung thực, nghĩ như thế nào nói như thế ấy. Đặc biệt các em rất tin vào giáo
viên, nghe theo lời thầy cô dạy bảo, nhất là những người đã tin cậy, đặc biệt là
giáo viên chủ nhiệm. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy và làm công tác chủ
nhiệm lớp, tôi luôn gần gũi, tiếp cận với học sinh để tạo niềm tin cho các em để
các em mạnh dạn chia sẻ tâm sự với giáo viên khi các em gặp khó khăn trong
học tập, cuộc sống. Từ việc nắm bắt được những thông tin mà học sinh chia sẻ,
tôi sẽ chọn phương pháp giáo dục, tác động phù hợp, giúp các em vượt qua các
rào cản trong học tập để việc học tập của các em đạt kết quả cao hơn.
+ Đối với nhóm 1: Tôi luôn khích lệ các em tiếp tục phát huy những ưu
điểm của bản thân, không ngừng phấn đấu vươn lên trong học tập, rèn luyện.
Các em chính là tấm gương cho các bạn khác trong lớp noi theo. Bên cạnh đó,
tôi cũng giao nhiệm vụ cho nhóm này cần có sự giúp đỡ, chia sẻ với các bạn
14
trong lớp đang gặp rào cản tâm lí trong học tập để cùng nhau xây dựng tập thể
vững mạnh, cùng nhau phấn đấu học tập và rèn luyện vươn lên trong cuộc sống.
+ Đối với nhóm 2: Xây dựng mối quan hệ tốt giữa giáo viên với học sinh
trên cơ sở thương yêu, tôn trọng và chân thành với nhau. Chủ động gần gũi, trò
chuyện với các em nếu các em chưa đủ mạnh dạn để chia sẻ, tâm sự với mình.
Biện pháp 2: Hướng dẫn cho học sinh làm quen với một số phương
pháp và kĩ thuật phòng tránh các rào cản tâm lí trong học tập
Việc phát hiện và phòng tránh các rào cản tâm lí trong học tập là công
việc tương đối khó khăn đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ nhà trường, gia đình và các
dịch vụ công cộng. Nhưng trước hết, từ phía bản thân học sinh các em cũng cần
được làm quen với một số phương pháp và kĩ thuật để phòng tránh rào cản tâm
lí trong học tập. Để làm được điều này, tôi đã tổ chức, hướng dẫn học sinh cần
phải:
Thứ nhất, học sinh cần làm chủ cảm xúc bản thân: Giáo viên cần phải cho
các em học sinh biết cách làm chủ cảm xúc của mình. Đây là một phương pháp
quan trọng để phòng tránh các rào cản tâm lí trong học tập. Học sinh cần phải
làm chủ cảm xúc của bản thân bởi vì khi mất kiểm soát cảm xúc, con người dễ
đưa ra những quyết định sai lầm hoặc có hành vi lệch lạc. Đối với các em học
sinh người dân tộc thiểu số đặc điểm tính cách của các em là hiền lành, chất
phác, thẳng thắn, có lòng tự trọng cao nhưng dễ tự ái, nóng nảy, có gì không vừa
lòng là tỏ thái độ ngay. Hơn nữa ở độ tuổi THPT tâm lý các em chưa ổn định,
các em dễ bị kích thích nên vì vậy các em thường không làm chủ được cảm xúc
của bản thân. Điều đó có thể là nguyên nhân dẫn đến rào cản tâm lí cho việc
thực hiện các nhiệm vụ học tập. Để học sinh làm chủ được cảm xúc của bản
thân, tôi đã hướng dẫn các em:
- Các em phải hiểu được bản chất cảm xúc là kết quả phản ứng của con
người trước môi trường xung quanh. Do đó việc quan trọng không phải là việc
xảy đến mà quan trọng là cách ta tiếp nhận nó.
- Cảm xúc của con người có 2 loại: tích cực và tiêu cực. Đối với cảm xúc
tích cực các em cần phải nuôi dưỡng để con người sống lạc quan, yêu đời. Còn
đối với cảm xúc tiêu cực thì ta cũng nên chấp nhận nhưng điều quan trọng là khi
chấp nhận cảm xúc tiêu cực thì các em phải tạo cho chúng một lối thoát lành
mạnh để tự tin đối đầu với nó. Nếu không biết điều chỉnh để làm chủ cảm xúc
tiêu cực thì rất dễ bị những cảm xúc đó hủy hoại và cuộc sống sẽ bi quan, bế tắc.
- Suy nghĩ trước khi hành động: Trước khi hành động các em cần tập cho
mình thói quen suy nghĩ kĩ. Cần cân nhắc hậu quả sẽ xảy ra là gì để từ đó có sự
cân nhắc, tính toán trước khi hành động để không dẫn đến những hậu quả đáng
tiếc.
Thứ 2, học sinh cần quản lí được căng thẳng của bản thân
Trong quá trình quan sát, tìm hiểu học sinh lớp chủ nhiệm tôi nhận thấy
học sinh người dân tộc thiểu số trong lớp do đa phần các em sống xa nhà, trọ
học, không có người quản lí nên ăn uống, sinh hoạt không điều độ. Học sinh nữ
nhiều em sa đà vào yêu đương, học sinh nam nghiện các trò chơi điện tử, nhiều
em nam còn hút thuốc lá, uống rượu. Những yếu tố này nếu để lâu dần sẽ dẫn
đến những bất thường về thể chất, thần kinh và các quan hệ xã hội. Do đó trong
15
quá trình làm công tác chủ nhiệm tôi thường nhắc nhở các em trong các tiết sinh
hoạt đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần và lồng ghép trong các tiết học để từ đó các em
điều chỉnh các cách sinh hoạt chưa hợp lí, tránh những cách sinh hoạt làm ảnh
hưởng đến sức khỏe, tâm lí, ảnh hưởng đến việc học tập và kết quả học tập của
các em. Đồng thời phối hợp, liên hệ với phụ huynh về những trường hợp có dấu
hiệu bất thường để kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ các em vượt qua căng thẳng, khó
khăn trong học tập và trong cuộc sống.
Biện pháp 3, tiến hành biện pháp tư vấn tâm lí để trợ giúp học sinh
người dân tộc thiểu số phòng tránh các rào cản tâm lí trong học tập
Trong công tác chủ nhiệm ở trường trung học, để hỗ trợ học sinh trong
quá trình phát triển, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục học sinh, người giáo
viên chủ nhiệm cũng cần có khả năng tư vấn, hỗ trợ học sinh. Đối với học sinh
lớp tôi chủ nhiệm để giúp các em phòng tránh được các rào cản tâm lí trong học
tập, tôi cũng đã vận dụng phương pháp tư vấn học đường. Trên cơ sở nắm bắt
đặc điểm của từng học sinh, nhóm học sinh tôi sẽ chọn nội dung tư vấn. Cụ thể
về nội dung tư vấn tôi tập trung vào các vấn đề sau:
- Tư vấn về phương pháp học tập (phối hợp với giáo viên bộ môn để hỗ
trợ)
- Tư vấn về tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác giới (phối hợp với
giáo viên môn Sinh học để hỗ trợ)
- Tư vấn về quan hệ, giao tiếp ứng xử với gia đình, thầy cô giáo, bạn bè
(phối hợp với giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên)
- Tư vấn về tình yêu, giới tính, quan hệ với bạn khác giới và sức khỏe sinh
sản (phối hợp với giáo viên môn Sinh học, môn GDCD)
- Tư vấn hướng nghiệp, chọn nghề và thông tin tuyển sinh (phối hợp với
BGH, Đoàn thanh niên)
Để tư vấn thành công, trước khi tư vấn tôi xác định đối tượng cần tư vấn.
Về đối tượng cần tư vấn, tôi chia làm 2 nhóm cần xử lí đó là:
+ Nhóm 1: Những học sinh gặp khó khăn cần trợ giúp (cá nhân/nhóm,
nhóm nam/nhóm nữ). Mục tiêu của những cuộc tư vấn này là phòng ngừa, hỗ trợ
và can thiệp (khi cần thiết) đối với học sinh đang gặp phải khó khăn về tâm lí
trong học tập và cuộc sống để tìm hướng giải quyết phù hợp, giảm thiểu tác
động tiêu cực có thể xảy ra; góp phần xây dựng môi trường giáo dục an toàn,
lành mạnh, thân thiện; Hỗ trợ các em rèn luyện kĩ năng sống, tăng cường ý chí,
niềm tin, bản lĩnh, thái độ ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ xã hội; rèn
luyện sức khỏe thể chất và tinh thần, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân
cách. Căn cứ vào quá trình theo dõi, quan sát, thông tin thu thập được về từng
học sinh, nhóm học sinh, giáo viên sẽ tư vấn, hỗ trợ các em vượt qua những khó
khăn mà các em đạng gặp phải.
Đối với học sinh cần tư vấn, giáo viên chủ nhiệm cần thật nhẹ nhàng, kiên
nhẫn, phải biết lắng nghe, thấu hiểu và đặc biệt phải giữ bí mật những điều các
em chia sẻ. Bởi khi thầy cô lắng nghe và thấu hiểu, các em sẽ dễ dàng bày tỏ
những điều đang chất chứa trong lòng. Tuy nhiên, việc cần làm của giáo viên
chủ nhiệm trong công tác tư vấn không phải là chỉ ra cho các em vấn đề nằm ở
đâu và giải quyết vấn đề thay các em, mà là tạo điều kiện để học sinh tự nói ra
16
những lo lắng, tự nhìn nhận vấn đề, đánh giá vấn đề và giải quyết vấn đề trong
khả năng của các em. Với tư cách là người tư vấn, giáo viên chủ nhiệm phải
khơi dậy được ở học sinh niềm tin vào bản thân, gạt bỏ những rào cản tâm lí để
các em có thể đối mặt với những vấn đề của mình.
+ Nhóm 2: Những người là tác nhân gây ra những khó khăn cho các em,
gây tổn thương, hoặc không biết cách làm việc với các em (đó có thể là bố mẹ,
anh chị, thầy cô giáo bộ môn, bạn bè của các em). Mục tiêu tư vấn là hỗ trợ
những đối tượng này hiểu và thay đổi cách ứng xử, thay đổi thái độ đối với học
sinh cần tư vấn, chứ không phải giúp học giải quyết vấn đề của họ. Mục đích
cuối cùng của tư vấn này là lợi ích của học sinh đang được tư vấn.
Đối với nhóm tư vấn thứ 2 này, giáo viên chủ nhiệm phải cần phải khéo
léo, tế nhị bởi xử lí không khéo dễ dẫn tới bị hiểu lầm dễ chạm đến lòng tự ái
của cha mẹ học sinh, thầy cô giáo bộ môn, bạn bè của các em. Lúc đó, không
những không giúp được gì cho học sinh còn khiến cho mối quan hệ của các em
học sinh với gia đình, thầy cô, bạn bè thêm căng thẳng.
Một điều quan trọng nữa khi tư vấn tâm lí cho học sinh trong lớp chủ
nhiệm tôi rất chú ý quan tâm tới các em học sinh nữ, nắm vững đặc điểm sinh lí
của học sinh nữ lứa tuổi THPT nói chung và học sinh nữ người dân tộc thiểu số
nói riêng. Đặc điểm của học sinh nữ người dân tộc thiểu số là các em thường ít
nói, e dè, dễ xấu hổ, yêu sớm và thiếu những ước mơ hoài bão. Cho nên những
tác động ngoại cảnh thường dễ làm những học sinh này bỏ học. Khi một em bỏ
học thường rủ thêm một số em khác bỏ học theo. Bởi vậy nên trong quá trình
làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn chú ý đặc biệt tới các em học sinh nữ người
dân tộc thiểu số, gần gũi các em để nắm bắt tâm tư tình cảm của các em và tư
vấn, trợ giúp các em khi các em gặp khó khăn trong học tập, trong các mối quan
hệ với thầy cô, bạn bè đặc biệt là tư vấn cho các em về tình bạn, tình yêu và sức
khỏe sinh sản vị thành niên.
Chất lượng giáo dục phổ thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó năng
lực hiểu học sinh (một thành tố của năng lực sư phậm của nhà giáo dục) có ý
nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, trên cơ sở hiểu được tâm lí của học sinh, nhà giáo dục
sẽ lựa chọn được những biện pháp giáo dục và phương pháp dạy học phù hợp,
có hiệu quả.
Biện pháp 4. Tổ chức các hoạt động tập thể để học sinh tham gia
Học sinh trường THPT Quan Hóa nói chung, học sinh lớp 12a2 nói riêng
đa số các em trong trường, trong lớp là con em đồng bào dân tộc thiểu số, nhà
xa, phải ở trọ nhà dân nên rào cản lớn nhất của các em là thiếu người quản lí
kèm cặp, tâm lí nhớ nhà, chi phí sinh hoạt tốn kém, không có ước mơ hoài bão
lớn nên nhiều học sinh trong trường ở những khóa học trước đã bỏ học giữa
chừng. Ngay trong lớp 12a2 tôi chủ nhiệm, qua khảo sát, tìm hiểu tôi nhận thấy
có nhiều em cũng đang có ý định bỏ học. Vì vậy việc tạo cho các em tâm lí thoải
mái, niềm yêu thích với việc học tập, vơi đi nỗi nhớ nhà và gắn bó với trường
lớp là một việc làm rất cần thiết. Một trong những giải pháp hiệu quả là tổ chức
cho các em tham gia các hoạt động tập thể.
Ở lứa tuổi THPT các em rất thích tham gia các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao, hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm…Vì vậy giáo viên chủ
17
nhiệm cần tổ chức các hoạt động này để học sinh tham gia. Đối với học sinh
trường THPT Quan Hóa nói chung, học sinh lớp 12a2 nói riêng thì việc tổ chức
các hoạt động tập thể là vô cùng cần thiết. Bởi hoạt động tập thể của học sinh sẽ
là cầu nối giữa học tập trên lớp với hoạt động ngoài lớp. Khi tham gia vào hoạt
động, các em có điều kiện thể hiện khả năng của mình, trải nghiệm các tình
huống giao tiếp để từ đó rèn cho các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn, đoàn kết hơn
và sáng tạo hơn. Thông qua các hình thức hoạt động đa dạng, các em tự khẳng
định mình, thấy được giá trị của bản thân. Cũng qua hoạt động tập thể dù là
những học sinh còn nhiều trầm lắng cũng sẽ nhanh nhẹn hơn, hoạt bát hơn, thích
nghi hơn và hòa đồng vào tập thể, với bạn bè. Hoạt động tập thể còn giúp các
em hình thành các năng lực của con người trong bối cảnh hiện nay như: năng
lực thích ứng với những biến đổi của cuộc sống, năng lực tự khẳng định bản
thân, năng lực hợp tác trong học tập, năng lực giao tiếp và ứng xử có văn hóa.
Trong năm học 2019 – 2020 trên cơ sở kế hoạch hoạt động của nhà
trường, của đoàn thanh niên, tôi đã tổ chức, hướng dẫn học sinh trong lớp nói
chung và học sinh người dân tộc thiểu số nói riêng tham gia các hoạt động tập
thể như:
+ Tham gia tập luyện và thi đấu bóng chuyền (hơi và da).
+ Tham gia hoạt động văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam.
+ Tham gia thi các trò chơi dân gian sau dịp nghỉ tết âm lịch.
+ Tham gia lao động công ích (vệ sinh khu phố, nghĩa trang liệt sĩ)
+ Tham gia thi trình diễn thời trang về trang phục dân tộc.
Ở mỗi một hoạt động căn cứ vào khả năng, đặc điểm của từng học sinh tôi
phân công nhiệm vụ cho từng học sinh, nhóm học sinh và khuyến khích, động
viên các em tham gia tích cực, nhiệt tình, đạt hiệu quả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Khi áp dụng các giải pháp trên để trợ giúp học sinh người dân tộc thiểu số
ở lớp 12a2 trường THPT Quan Hóa vượt qua rào cản tâm lí trong học tập trong
năm học 2019 – 2020, tôi đã thu được kết quả như sau:
Tâm lí của học sinh dần đi vào ổn định, các em tìm thấy được niềm vui và
hứng thú khi đến trường và trong học tập.
Các em xác định được động cơ, mục đích học tập để từ đó có sự nỗ lực cố
gắng trong học tập, rèn luyện, biết vượt khó để đến trường, hoàn thành nhiệm vụ
học tập.
Các em cởi mở với thầy cô giáo, bạn bè, có tinh thần xây dựng tập thể,
đoàn kết, yêu thương và biết chia sẻ với bạn bè khi gặp khó khăn.
Duy trì sĩ số đạt 100%, nề nếp chuyên cần, thực hiện nội quy trường lớp
nghiêm túc.
Ngăn chặn kịp thời 3 học sinh nữ người dân tộc thiểu số định bỏ học giữa
chừng về nhà lấy chồng (Em Hà Thúy Nga, Em Hà Thị Thùy Linh, Em Lương
Thị Tịch)
Vận động thành công 2 học sinh nam bỏ học quay trở lại trường (Em
Phạm Bá Tuấn, Em Hà Văn Hào).
18
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Có thể nói thanh niên mới lớn là thời kì đặc biệt quan trọng đối với cuộc
đời con người. Đây là thời kì lứa tuổi phát triển một cách hài hòa, cân đối, là
thời kì có sự biến đổi lớn trong toàn bộ nhân cách để các em sẵn sàng bước vào
cuộc sống tự lập. Những thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách quan
của cuộc sống sẽ làm nảy sinh ở lứa tuổi THPT những khó khăn về tâm lí, tình
cảm của lứa tuổi, những vướng mắc trong học tập, hướng nghiệp cần được
người lớn quan tâm chia sẻ. Do đó, giáo viên chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị
trí của lứa tuổi này để kịp thời có những biện pháp chăm sóc, hỗ trợ các em vượt
qua những rào cản tâm lí trong học tập, có nội dung, phương pháp giáo dục thích
hợp nhằm đem lại tối ưu cho hoạt động sư phạm.
3.2. Kiến nghị
Việc phát hiện và phòng tránh các rào cản tâm lí trong học tập là công
việc tương đối khó khăn đòi hỏi phải có sự nỗ lực thay đổi từ chính bản thân học
sinh cùng với sự hỗ trợ từ nhà trường, gia đình và các dịch vụ cộng đồng. Để
hoạt động hỗ trợ học sinh người dân tộc thiểu số vượt qua những rào cản tâm lí
trong học tập đạt hiệu quả cao, tôi có những kiến nghị sau:
Với giáo viên chủ nhiệm: Trong quá trình quản lí lớp học sẽ nảy sinh rất
nhiều tình huống cần phải giải quyết, với tư cách là giáo viên chủ nhiệm, người
thầy cần phải có đủ thời gian, đủ kiên nhẫn, đủ bản lĩnh và quan trọng nhất là
phải có đủ tình thương để có thể lắng nghe, thông cảm, thấu hiểu, sẻ chia và
định hướng cho các em cách giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống.
Thường xuyên quan tâm, phát hiện và có biện pháp hỗ trợ kịp thời, phù hợp đối
với những biểu hiện bất thường của học sinh. Phối hợp với cha mẹ học sinh để
xây dựng biện pháp giáo dục phù hợp, hỗ trợ các em vượt qua rào cản tâm lí
trong học tập và trong cuộc sống.
Với giáo viên bộ môn: Trong quá trình giảng dạy và thực hiện nhiệm vụ
cần phối hợp, hỗ trợ giáo viên chủ nhiệm trợ giúp học sinh phòng tránh rào cản
tâm lí trong học tập; hướng dẫn học sinh phương pháp học tập bộ môn, lồng
ghép trong các tiết học, bài dạy để giáo dục kĩ năng sống cho các em.
Với phụ huynh học sinh: Cần quan tâm, theo dõi việc học tập và rèn luyện
của con em mình. Phối hợp chặt chẽ với BGH, giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo
viên bộ môn để chăm sóc, hỗ trợ các em khi các em gặp khó khăn trong học tập
và trong cuộc sống.
Với Ban giám hiệu nhà trường: Trong nhà trường cần thành lập ban hỗ trợ
tư vấn tâm lí học đường. Ban tư vấn gồm những thành viên như Ban giám hiệu,
cán bộ Đoàn, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên môn giáo dục công dân, giáo viên
môn sinh học, tổ trưởng chuyên môn, ban đại diện cha mẹ học sinh…để dễ dàng
tư vấn các vấn đề cho học sinh khi các em gặp khó khăn. Các thành viên trong
ban được chia thành từng nhóm chuyên sâu để tư vấn theo từng lĩnh vực: tư vấn
sức khỏe sinh sản, tâm sinh lí; tư vấn hướng nghiệp; tư vấn về các kì thi; …Ban
hỗ trợ tư vấn học đường chính là nơi học sinh có thể chia sẻ, tìm những lời giải
đáp về các vấn đề trong cuộc sống khi các em thắc mắc, băn khoăn, gặp khó
19
khăn. Hình thức tư vấn: tư vấn trực tiếp, tư vấn, tham vấn riêng, tư vấn nhóm; tư
vấn qua mạng, qua hộp thư.
Ngoài ra, trong nhà trường cần tổ chức các hoạt động tập thể để học sinh
tham gia như: thể thao, văn nghệ, câu lạc bộ, sinh hoạt ngoại khóa, hoạt động
trải nghiệm... Qua các hoạt động tập thể giúp các em học sinh giảm áp lực, tạo
niềm vui và hứng thú trong học tập; giúp các em phát triển trí lực và khả năng
sáng tạo, có thêm các kĩ năng và kinh nghiệm sống. Thông qua các hoạt động
tập thể còn giúp giáo viên gần gũi học sinh hơn, giáo viên có điều kiện nắm
vững khả năng, tâm lí của học sinh, từ đó áp dụng các phương pháp giáo dục và
dạy học phù hợp với đối tượng học sinh.
Với Sở Giáo dục và đào tạo: Tổ chức các chuyên đề, hội thảo về công tác
chủ nhiệm lớp để giáo viên được tham gia trao đổi, chia sẻ và có thêm kinh
nghiệm trong công tác chủ nhiệm.
Tổ chức các chương trình tập huấn cho giáo viên về Tư vấn tâm lí để giáo
viên có thêm kiến thức, kĩ năng thực hiện hiệu quả công tác tư vấn, tham vấn
tâm lí trong trường học.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng và rút ra từ thực tế làm
công tác chủ nhiệm. Trong quá trình thực hiện, do thời gian và khuôn khổ của đề tài
nên không tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý của
bạn bè, đồng nghiệp để xây dựng các giải pháp giáo dục học sinh trong công tác chủ
nhiệm ngày càng hiệu quả hơn.
XÁC NHẬN
CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 6 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Phạm Thị Dịu
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Module THPT 10. Rào cản học tập của các đối tượng học sinh THPT
[2]. Module THPT 7. Tham vấn, tư vấn, hướng dẫn cho học sinh THPT
[3]. Bài viết: Tư vấn tâm lí học đường – một nhu cầu có thực của học sinh trung
học phổ thông (nguồn internet)
[4]. Module THPT 12. Khắc phục trạng thái tâm lí căng thẳng trong học tập
của các đối tượng học sinh.
[5]. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi trung học phổ thông (nguồn internet)
[6]. Tài liệu tập huấn Giáo viên chủ nhiệm với công tác tư vấn tâm lý – giáo dục
cho học sinh trung học; Bộ GD & ĐT Chương trình phát triển giáo dục (Lưu
hành nội bộ), Hà Nội - 2013
21
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Dịu
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn; Trường THPT Quan Hóa
TT
1.
2.
3.
Tên đề tài SKKN
Hướng dẫn học sinh khai thác
các yếu tố nghệ thuật trong
văn bản kịch trung học phổ
thông
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu
văn bản nhật dụng theo quan
điểm tích hợp (Ngữ văn 12 –
chương trình cơ bản)
Giảng dạy bài Nghị luận về
một hiện tượng đời sống
(Ngữ văn 12 – tập 1, Chương
trình cơ bản) theo quan điểm
tích hợp để phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo và
nâng cao ý thức phòng tránh
các tệ nạn xã hội cho học sinh
trường THPT Quan Hóa.
Cấp đánh giá xếp
loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc
C)
Năm học đánh
giá xếp loại
Ngành GD cấp
tỉnh; Tỉnh Thanh
Hóa
C
2013 - 2014
Ngành GD cấp
tỉnh; Tỉnh Thanh
Hóa
C
2015 – 2016
Ngành GD cấp
tỉnh; Tỉnh Thanh
Hóa
C
2017 – 2018
22