Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số giải pháp dạy môn tiếng việt bằng bản đồ tư duy lớp 4 trường tiều học quảng tiến 1, thành phố sầm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 28 trang )

1

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ SẦM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 1

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY MÔN TIẾNG VIỆT BẰNG BẢN
ĐỒ TƯ DUY LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 1
THÀNH PHỐ SẦM SƠN.

Người thực hiện: Lê Thị Dung
Chức vụ: Giáo viên tổ 4
Đơn vị công tác: Trường TH Quảng Tiến 1
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

SẦM SƠN, NĂM 2020


2
MỤC LỤC
TT
1

2

3

Nội dung chính


Trang

1. Mở đầu

2

1.1. Lí do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

2. Nội dung

3

2.1. Cơ sở lý luận

3


2.2. Thực trạng dạy học môn Tiếng Việt 4.

7

2.3. Các giải pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy - học
Tiếng Việt 4.

8

2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Hướng dẫn học sinh lập Bản đồ
tư duy.

8

2.3.2. Giải pháp thứ hai: Sử dụng Bản đồ tư duy trong
việc kiểm tra kiến thức cũ.

11

2.3.3. Giải pháp thứ ba: Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc
giảng bài mới kết hợp.

13

2.3.4. Giải pháp thứ tư: Sử dụng bản đồ tư duy trong việc
cũng cố kiến thức bài học.

15

2.3.5. Giải pháp thứ năm: Sử dụng bản đồ tư duy cho bài

ôn tập.

17

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

19

3. Kết luận, kiến nghị

19

3.1. Kết luận

19

3.2. Kiến nghị

20


3
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, ngành Giáo dục đang triển khai thực hiện Nghị quyết lần thứ 8,
ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI (Nghị quyết 29) về đổi mới căn bản
toàn diện về giáo dục. Đây là vấn đề cấp bách để góp phần đào tạo thế hệ trẻ
thành con người phát triển toàn diện, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang đổi mới

mạnh mẽ theo bốn trụ cột giáo dục của thế kỉ XXI, đó là: Học để biết, Học để
làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống.
Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang
bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương
pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú cho học sinh.
Trong chương trình giáo dục Tiểu học, Tiếng Việt là một môn học quan
trọng, đặc biệt là Tiếng Việt lớp 4. Lớp 4 là lớp gần cuối cấp Tiểu học, hoàn
thành mục tiêu đặt ra cho môn Tiếng Việt ở toàn cấp là: Hình thành và phát triển
ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và
học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy; Cung cấp cho học
sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội,
tự nhiên và con người, về văn hóa và văn học của Việt Nam và nước ngoài; Bồi
dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Cũng như những môn học khác, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt
cũng đã và đang được đổi mới. Các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đã
được triển khai tới giáo viên thông qua các lớp tập huấn, các chuyên đề. Tuy
nhiên việc ứng dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực còn mang tính
hình thức, biểu diễn trong các tiết dự giờ. Nguyên nhân của tình trạng trên là do
giáo viên chưa nhận thức đúng đắn về vai trò, cách sử dụng các phương pháp, kĩ
thuật dạy học tích cực trong việc hình thành kiến thức, kĩ năng, thái độ, lòng yêu
thích môn học cho học sinh.
Bản đồ tư duy là một trong những kĩ thuật dạy học mới, góp phần đem lại
hiệu quả dạy học cao, đáp ứng được nhu cầu thời đại. Bản đồ tư duy còn gọi là

sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở
rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng
cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với
sự tư duy tích cực. Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học tôi thấy, sử
dụng Bản đồ tư duy trong dạy học giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích


4
cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng.
Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của
học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi
chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát
triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên
bản đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để
chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ,
chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Một số giải pháp dạy môn Tiếng Việt bằng
Bản đồ tư duy lớp 4 trường Tiểu học Quảng Tiến 1 thành phố Sầm Sơn”
nhằm giúp mọi người “Nhận thức được lợi thế của công cụ “Bản đồ tư duy” vào
việc lập kế hoạch dạy học, hướng dẫn học sinh học tập bằng Bản đồ tư duy ở
môn Tiếng Việt lớp 4; Nắm được các kĩ năng cần thiết để lập một Bản đồ tư duy
cho một công việc cụ thể”; góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học
Tiếng Việt lớp 4 nói riêng và Tiểu học nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Giúp giáo viên nhận thức được lợi thế của công cụ “Bản đồ tư duy” vào
việc lập kế hoạch dạy học.
Hướng dẫn học sinh học tập bằng Bản đồ tư duy ở môn Tiếng Việt lớp 4.
Nắm được các kĩ năng cần thiết để lập một Bản đồ tư duy cho một công
việc cụ thể.
1.3. Đối tượng nghiên cứu

- Khách thể nghiên cứu: Môn Tiếng Việt lớp 4
- Đối tượng nghiên cứu: Bản đồ tư duy và quá trình dạy học Tiếng Việt 4
ở trường Tiểu học Quảng Tiến 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp giả thuyết.
- Phương pháp đánh giá thực nghiệm.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Phương pháp dạy học tích cực
Nhìn một cách hệ thống việc đổi mới phương pháp dạy học, các nhà khoa
học giáo dục cho rằng, cần nhấn mạnh đến việc “dạy học tích cực”. Nếu đặt vấn
đề lấy người học làm trung tâm trong quá trình giáo dục thì điểm xuất phát phải
là từ hoạt động học để xác định hoạt động dạy. Như vậy thì yêu cầu học tích cực
được đặt ra trước khi xác định dạy học tích cực theo nghĩa dạy để học sinh học
tích cực.
Học tích cực có các đặc trưng chính:


5
Học độc lập: là sự vận động não của học sinh, sự vận động của tư duy để
hoàn thành nhiệm vụ nhận thức. Học độc lập được tăng cường qua việc tạo ra cơ
hội kinh nghiệm kích thích động cơ học của học sinh, kích thích sự tò mò, phát
triển sự tự tin và tự lập của học sinh.
Học tương tác: là cách thức tiếp nhận thông tin thông qua tương tác, thực
hành. Tương tác ở đây được hiểu là qua các giác quan đối với các đối tượng
không chỉ là con người mà còn là các vật thể. Học tập tương tác đối lập với học
tập thụ động. Lối học này chỉ thông qua quan sát, chỉ nghe thông tin.
Học hợp tác: là kiểu học tương tác, song chú trọng sự phối hợp với những

người khác. Đây là hình thức làm việc theo nhóm. Các thành viên có quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau, cùng giúp nhau giải quyết các khó khăn nảy sinh trong học
tập. Hoạt động học tập này giúp học sinh vừa đạt được thành tích học tập vừa
phát triển mối quan hệ xã hội.
Như vậy, bản chất của tư tưởng “lấy người học làm trung tâm” chính là
tính nhân văn. Cụ thể: Giáo dục không chỉ phục vụ cho số đông mà còn phục vụ
cho nhu cầu của số đông; Giáo dục cần và có thể giúp con người khai thác tối đa
các tiềm năng của mình, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo; Giáo dục tạo cho học
sinh một môi trường như là tổ hợp các thành tố để học sinh có thể tự giác, tự do,
tự khám phá. Xét về mặt giáo dục, tính nhân văn, tư tưởng “lấy người học làm
trung tâm” đã xuất hiện từ hàng trăm năm nay, có nhiều yếu tố tích cực, tiến bộ
và hiện vẫn đang được thể hiện trong các xu hướng giáo dục hiện đại trên thế
giới. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học giáo dục, khi vận dụng cần tính tới
những đặc điểm cụ thể về văn hóa, xã hội, con người... của từng quốc gia.
Các nhà khoa học giáo dục cho rằng, khi đổi mới phương pháp dạy học,
giáo viên phải biết vận dụng phương pháp nào phù hợp với năng lực, hứng thú,
nhu cầu của học sinh. Hứng thú là yếu tố có ý nghĩa to lớn không chỉ trong quá
trình dạy học mà cả đối với sự phát triển toàn diện, hình thành nhân cách của
học sinh. Hứng thú sẽ dẫn tới tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý
đảm bảo tính tích cực và độc lập sáng tạo trong học tập. Nếu học sinh được độc
lập quan sát, so sánh, phân tích, khái quát hóa các sự kiện, hiện tượng thì các em
sẽ hiểu sâu sắc bài học và hứng thú học tập.
Từ kinh nghiệm dạy học và các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, để hình
thành, phát triển niềm hứng thú của học sinh, cần có các điều kiện: dạy học ở
mức độ thích hợp nhất đối với trình độ phát triển của học sinh. Một nội dung
quá dễ hoặc quá khó đều không gây được hứng thú cho học sinh. Cần dẫn dắt để
học sinh luôn tìm thấy cái mới, có thể tự lực giành lấy kiến thức, cảm thấy mình
mỗi ngày một trưởng thành; phát huy tối đa tư duy tích cực của học sinh; tạo
không khí thuận lợi cho lớp học, làm cho học sinh thích thú được đến lớp, mong
đợi đến giờ học. Đây là yếu tố quan trọng của việc xây dựng mô hình trường học

thân thiện, học sinh tích cực.
2.1.2. Đổi mới dạy học bằng Bản đồ tư duy
Áp dụng các phương pháp dạy học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các
phương pháp dạy học truyền thống. Ngay cả những phương pháp “tập trung vào


6
giáo viên” như thuyết trình, giảng giải, biểu diễn các phương tiện trực quan để
minh họa lời giảng... thì phương pháp dạy học truyền thống vẫn rất cần thiết
trong quá trình dạy học, để học sinh có thể học tích cực. Vấn đề là lựa chọn và
sử dụng đúng thời điểm, đúng đối tượng, phù hợp với ý đồ sư phạm của giáo
viên. Vì vậy, cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực trong hệ thống các
phương pháp dạy học đã quen thuộc, đồng thời vận dụng một số phương pháp
dạy học mới, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học ở nước ta trong hoạt
động đổi mới phương pháp dạy học. Một trong số các phương pháp dạy học mới
rất có hiệu quả trong dạy và học tích cực hiện nay là dạy học bằng Bản đồ tư
duy.
a. Tư duy, bản đồ tư duy và tư duy bằng bản đồ
- Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, nhằm phát hiện ra bản
chất có tính quản lí của sự vật, hiện tượng; Con người thường tư duy bằng biểu
tượng, khái niệm, phán đoán và suy luận.
- Bản đồ tư duy là bản vẽ phản ánh được bản chất của hiện tượng, sự vật
theo sự nhận thức của con người. Bản đồ tư duy còn được gọi là sơ đồ tư duy,
lược đồ tư duy,… là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề…
bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Đây là
một sơ đồ mở, nó phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
- Tư duy bằng bản đồ phản ánh nhận thức của mỗi cá nhân với sự vật, sự
việc, hiện tượng qua đường nét, hình ảnh;
- Bản đồ tư duy là công cụ ghi chú ưu việt; nhưng chỉ thể hiện dễ dàng với

các quan hệ logic thứ bậc, nên phải biết chọn lọc từ ngữ, hình ảnh ấn tượng có
tính độc đáo,…
- Sự khác nhau giữa tư duy truyền thống và tư duy bằng “bản đồ”:
Bảng so sánh:
STT

Cách biểu hiện

Tư duy truyền thống

Tư duy bằng bản đồ

1

Đường nét

Thẳng

Nhiều loại

2

Màu sắc

Không



3


Ngôn ngữ

Nhiều

Chắt lọc (từ khoá)

4

Hình ảnh

Không



5

Không gian (định hướng
phát triển)

Đơn hướng

Đa hướng

b. Tại sao nên dùng Bản đồ tư duy?
Chúng ta có thể thấy rõ những ưu điểm của cách dạy học bằng Bản đồ tư
duy qua sơ đồ sau:


7


Bản đồ tư duy giúp học sinh hiểu và nhớ lâu bài học. Bản đồ tư duy là
hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý
tưởng. Sử dụng thành thạo Bản đồ tư duy trong dạy học, học sinh sẽ học được
phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Bản đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả
nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà
do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc sử
dụng Bản đồ tư duy giúp học sinh, học tập một cách tích cực, huy động tối đa
tiềm năng của bộ não. Vận dụng Bản đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp
học sinh tập có thói quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã
đọc, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng Bản đồ tư duy.
Sau khi cho các em làm quen với một số Bản đồ tư duy có sẵn, giáo viên
đưa ra một chủ đề chính, đặt chủ đề này ở vị trí trung tâm bảng (hoặc vào trang
vở, tờ giấy, bìa) rồi đặt câu hỏi gợi ý để học sinh vẽ tiếp các nhánh cấp 1, cấp 2,
cấp 3... Mỗi bài học được chính các em tự vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang
giấy, giúp học sinh dễ ôn tập, dễ xem lại kiến thức khi cần.
Bản đồ tư duy có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất
nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế Bản đồ tư duy trên giấy, bìa,
bảng phụ...hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Bản đồ tư duy.
Việc vận dụng Bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học
sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, “định vị trong đầu”
được các kiến thức, sự kiện cơ bản, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa
học, học tốt không chỉ kiến thức trong sách vở mà còn cả từ thực tiễn cuộc sống.
Bản đồ tư duy đưa giáo dục Việt Nam tiếp cận phương pháp tiên tiến thế
giới “Nếu không xác tính được ý tưởng trung tâm thì bạn không bao giờ lập
được Bản đồ tư duy. Cách tư duy bằng phương pháp này khuyến khích mỗi
người phải sáng tạo, có ý tưởng rõ ràng, có sáng kiến”.
Qua thực tế ứng dụng, có thể nhận định: Kết hợp và lựa chọn linh hoạt với
các phương pháp dạy học tích cực khác (dạy học nêu vấn đề, ứng dụng công



8
nghệ thông tin, dạy học dự án, bàn tay nặn bột... ), Bản đồ tư duy sẽ là đòn bẩy
góp phần đổi mới cơ bản và toàn diện nền giáo dục, giúp học sinh tích cực chủ
động và có tư duy tốt hơn.
2.2. Thực trạng
2.2.1. Đặc điểm môn Tiếng Việt 4
Môn Tiếng Việt 4 gồm 5 phân môn: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu,
Kể chuyện và Tập làm văn.
Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh các kĩ năng đọc, nghe và nói. Phân
môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và
con người, cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu
biết ban đầu về tác phẩm văn học và góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.
Tuy vậy, các bài Tập đọc ở lớp 4 có số lượng từ nhiều hơn, việc luyện đọc chú ý
đến yêu cầu biểu cảm hơn, câu hỏi tìm hiểu bài chú trọng khai thác hàm ý và
nghệ thuật biểu hiện nhiều hơn...
Phân môn Chính tả rèn các kĩ năng viết, nghe và đọc. Bên cạnh tác dụng
rèn kĩ năng viết, nghe và đọc, các bài tập chính tả còn cung cấp cho học sinh vốn
từ, vốn hiểu biết về các mảng khác nhau của đời sống.
Phân môn Luyện từ và câu cung cấp những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt
và rèn luyện kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc cho học sinh. Chương
trình lớp 4 có những tiết học dành riêng để trang bị kiến thức cho học sinh.
Phân môn Kể chuyện rèn các kĩ năng nói, nghe và đọc. Trong giờ kể
chuyện ở lớp 4, học sinh không được kể lại những câu chuyện vừa được học
trong bài tập đọc như ở lớp 2, lớp 3 nữa mà tập kể những câu chuyện theo tranh,
những câu chuyện đã nghe, đã đọc ngoài giờ học và kể chuyện được chứng kiến,
tham gia trong đời sống hàng ngày phù hợp với chủ điểm mà các em đang học.
Phân môn Tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Học sinh lớp
4 được dạy các kĩ năng kể chuyện, miêu tả đồ vật, cây cối, con vật. Bên cạnh đó,
học sinh còn được rèn kĩ năng tóm tắt tin tức, trao đổi ý kiến, và nâng cao các kĩ

năng viết thư, điền vào giấy tờ in sẵn đã hình thành ở các lớp dưới.
2.2.2. Thực trạng dạy học môn Tiếng Việt 4
a. Về phía giáo viên:
Thói quen dạy học truyền thụ một chiều đã ăn sâu trong tiềm thức, trong
hành vi của giáo viên những năm qua.
Nhiều giáo viên chưa thực sự tìm tòi, nghiên cứu những phương pháp dạy
học mới. Do đó phương pháp truyền thụ một chiều, “tập trung vào giáo viên”
như giảng giải, thuyết trình, ... vẫn còn phổ biến.
Trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, hiện nay đội ngũ
giáo viên đang gặp rất nhiều khó khăn, khiến việc đổi mới phương pháp dạy học
đôi khi chưa thật sự “sống” trong các trường phổ thông.
Thực tế, nhiều cán bộ quản lý và giáo viên ở một số địa phương đã sáng
tạo, chủ động đề xuất đổi mới phương pháp dạy học nhưng chưa phù hợp với
điều kiện vùng, miền.


9
Trước đây, các tiết ôn tập chương một số giáo viên cũng đã lập bảng biểu,
vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của giáo
viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu
của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và
đường nét.
b. Về phía học sinh:
Môn Tiếng Việt là một môn học khó, dễ gây nhàm chán đối với học sinh,
đa số học sinh thích học Toán hơn học Tiếng Việt.
Nhiều học sinh vấn giữ thói quen “học vẹt”, “nghe – chép” mà không chịu
tìm tòi, suy nghĩ, hay tư duy học tập.
Các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước
và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã
học trước đó vào những phần sau.

Phần lớn học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách
tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình.
Vào đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng môn Tiếng việt của
2 lớp 4B và 4C. Tôi lấy lớp 4B làm lớp thực nghiệm, lớp 4C làm lớp đối chứng.
Kết quả như sau:
Chưa hoàn
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Tổng số
thành
học sinh
Lớp
SL
%
SL
%
SL
%
4B
30
4
13,3
20
66,7
6
20
4C
31
5
16,1

19
61,3
7
22,6
2.3. Các giải pháp
Thực tế giảng dạy cho thấy, nhiều học sinh tiểu học chưa biết cách học,
cách khắc ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một
cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm
được ý chính mà sách truyền tải, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến
thức có liên quan với nhau, đặc biệt là học sinh lớp 4, 5. Bởi vậy tôi đưa ra một
số giải pháp sau:
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Hướng dẫn học sinh lập Bản đồ tư duy
a. Cấu tạo của bản đồ tư duy
Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ
đề. Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ
chủ đề. Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ
mỗi ý chính. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa
trung tâm thì càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, bản đồ tư duy là một bức tranh
tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ thể hiện một
nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó.
Sơ đồ minh hoạ:


10

b. Các bước thiết kế của bản đồ tư duy
Để sử dụng được Bản đồ tư duy trong dạy học tiểu học, tôi thiết nghĩ yếu
tố quan trọng nhất vẫn là ở học sinh. Nghĩa là học sinh phải nắm chắc kiến thức
cơ bản sách giáo khoa truyền thụ và biết liên kết các kiến thức liên quan nhau.
Để các em lĩnh hội tốt bản đồ tư duy trong việc học, người giáo viên nên thực

hiện theo các bước sau:
- Cho học sinh làm quen với Bản đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học
sinh một số “bản đồ” cùng với dẫn dắt của giáo viên để các em làm quen với
Bản đồ tư duy.
Tuỳ vào mức độ của từng học sinh, lớp học, vùng, miền,... giáo viên có
thể dẫn dắt học sinh: Từ một vấn đề hay chủ đề chính đưa ra các ý lớn thứ nhất,
ý lớn thứ hai, thứ ba... mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó, mỗi ý nhỏ lại
có các ý nhỏ hơn... các nhánh này như “bố mẹ” rồi “con, cháu, chắt, chiu”... các
đường nhánh có thể là đường thẳng hay đường cong.....
- Tập cho học sinh “đọc hiểu” Bản đồ tư duy, sao cho chỉ cần nhìn vào
Bản đồ tư duy bất kỳ học sinh nào cũng có thể thuyết trình được nội dung một
bài học hay một chủ đề, một chương theo mạch lôgic của kiến thức.
- Khi học sinh đã biết đọc thành thạo Bản đồ tư duy, giáo viên cho học
sinh thực hành vẽ trên giấy Bản đồ tư duy theo mạch kiến thức mà học sinh nghĩ
ra hay theo chủ đề mà giáo viên đưa ra cho từng học sinh, từng nhóm.... Giáo
viên hướng dẫn học sinh: Chọn từ khóa - tên chủ đề hoặc hình vẽ tương ứng với
chủ đề chính cho vào vị trí trung tâm, chẳng hạn: đường thẳng song song, hình
bình hành, hình chữ nhật, bảo vệ môi trường, cơ quan tiêu hoá,... để học sinh có
thể tự mình ghi tiếp kiến thức vào tiếp các nhánh “con”, “cháu”, “chắt”... theo
cách hiểu của các em. Chỉ với những từ khóa là đã có thể nắm bắt được hết nội
dung của tất cả những điều đang muốn ghi nhớ. Vậy từ khóa là gì? Làm sao xác
định được từ khóa trong một nội dung văn bản? Để hiểu rõ thêm, chúng ta có thể
tham khảo ví dụ sau đây:
Đầu tiên, hãy đọc đoạn văn bản hoàn chỉnh này:
“Đã từ lâu, người ta biết rằng bộ não của con người có thể được chia ra
làm hai phần. Phần não trái và phần não phải. Người ta cũng biết rằng não trái
điều khiển phần bên phải của cơ thể, trong khi đó ngược lại, não phải điều


11

khiển phần bên trái cơ thể. Bên cạnh đó, người ta cũng phát hiện rằng việc não
trái bị hư tổn sẽ gây ra nửa phần cơ thể bên phải bị tê liệt. Tương tự, nếu như
não phải bị hư tổn sẽ khiến nửa phần cơ thể bên trái bị tê liệt”.
Theo cách viết truyền thống và cách học như từ trước đến giờ thì chúng ta
sẽ phải học thuộc lòng đoạn văn đó hoặc đọc đi đọc lại để nhớ được hết thông
tin mà nó truyền đạt. Tuy nhiên, trong đó có rất nhiều từ không cần thiết, nếu
chúng ta loại bỏ những từ đó đi và chỉ đọc từ khóa thôi thì chúng ta cũng dễ
dàng nắm được ý chính mà tiết kiệm được thời gian hơn nhiều. Để chứng minh
cho điều đó, hãy thử đọc 2 đoạn văn dưới đây:
1. “… não người chia hai phần … não trái não phải … não trái điều
khiển bên phải cơ thể … não phải điều khiển bên trái cơ thể … não trái hư tổn,
cơ thể bên phải tê liệt … não phải hư tổn, cơ thể bên trái tê liệt …”
2. “Đã từ lâu, người ta biết rằng bộ … của con … có thể được … ra làm
… Phần … và phần … Người ta cũng biết rằng … phần … của …, trong khi đó,
ngược lại, … phần … Bên cạnh đó, người ta cũng phát hiện rằng việc … bị …
sẽ gây ra nửa … bị … Tương tự, nếu như … bị … sẽ khiến nửa phần … bị …”.
Sau khi đọc xong 2 đoạn văn, chúng ta thấy rằng đoạn văn thứ 1 tuy ít từ
ngữ hơn nhưng ta vẫn nắm được toàn bộ thông tin, còn đoạn văn ở dưới chứa
hầu hết các từ ngữ trong đoạn văn gốc thì lại chẳng mang đến cho chúng ta một
thông tin bổ ích nào.
Do đó, bước đầu tiên chúng ta nên tự tập cho mình thói quen chỉ chú ý
đến từ khóa, ghi nhớ từ khóa là đủ để chúng ta nắm bắt được toàn bộ nội dung
cần truyền đạt. Ngoài ra, từ khóa là một yếu tố không thể thiếu của Bản đồ tư
duy, chúng ta sẽ phải dùng những từ khóa đó để lập nên Bản đồ tư duy cho
chính mình.
Vẽ Bản đồ tư duy theo nhóm hoặc từng cá nhân. Khi các em đã nắm rõ về
Bản đồ tư duy thì việc ứng dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy học sẽ mang lại
hiệu quả rõ rệt. Hầu như ở môn học nào giáo viên cũng có thể áp dụng Bản đồ tư
duy. Sau mỗi bài học, học sinh sẽ dễ rút ra những kiến thức trọng tâm của bài
học. Đặc biệt, Bản đồ tư duy sẽ là phương tiện hữu hiệu cho các thầy cô giáo

trong việc ôn tập kiến thức, bồi dưỡng học sinh giỏi...
Học sinh tiểu học rất thích học những tiết học có sử dụng các kênh hình,
kênh chữ, màu sắc.... Ta thấy những tiết học có ứng dụng công nghệ thông tin
thường thu hút học sinh, tạo hứng thú học tập và phát huy tính chủ động sáng
tạo của các em. Cho nên khi sử dụng Bản đồ tư duy chúng ta đều thực hiện theo
thứ tự các bước sau đây:
+ Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ
hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
+ Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: Để làm
rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý
chính, đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.


12
+ Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để
làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển
khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.
+ Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho
các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
* Lưu ý khi vẽ và hướng đẫn học sinh vẽ bản đồ tư duy
- Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các
nhánh con.
- Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì thay vì vẽ các đường thẳng để
thu hút sự chú ý của mắt, như vậy bản đồ tư duy sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
- Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
- Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lí để vừa làm rõ các ý trong bản đồ
đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho bản đồ.
- Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên
dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
- Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần

thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
- Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
- Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” bản đồ bằng vẽ,
viết, tô màu…
- Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
- Người lập bản đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
c. Các quy tắc trong việc thực hiện Bản đồ tư duy
Khi thực hiện một Bản đồ tư duy, ta nên tuân thủ theo những quy tắc sau:
- Đừng suy nghĩ quá lâu mà hãy viết liên tục. Việc dừng lại để suy nghĩ
một vấn đề nào đó quá lâu sẽ khiến cho những suy nghĩ tiếp theo của chúng ta bị
ngăn lại. Chúng ta mải lo cho vấn đề đó mà sẽ quên mất những vấn đề tiếp theo.
Do đó, các ý nên được triển khai một cách liên tục để duy trì sự liên kết.
- Không cần tẩy xóa, sửa chữa.
- Viết tất cả những gì chúng ta nghĩ.
- Bản đồ tư duy được vẽ, viết và đọc theo hướng bắt nguồn từ trung tâm
di chuyển ra phía ngoài, và sau đó là theo chiều kim đồng hồ. Do đó, các từ ngữ
nằm bên trái Bản đồ tư duy nên được đọc từ phải sang trái (bắt đầu từ phía trong
di chuyển ra ngoài).
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc kiểm tra kiến thức cũ:
Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5-7 phút nên yêu cầu
của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi sự phân tích, so sánh,…để
trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung
bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên nhận xét mức
độ trả lời câu hỏi của học sinh. Cách làm này sẽ vô tình để nhiều học sinh rơi
vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó cần phải có
sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra
không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này


13

vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao
chất lượng học tập. Sử dụng bản đồ tư duy khi kiểm tra bài cũ đã thực hiện được
điều đó. Các bản đồ sử dụng để kiểm tra bài cũ nên là những bản đồ ở trạng thái
thiếu thông tin. Giáo viên yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra
nhận xét về mỗi quan hệ các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Ví dụ: Khi tổ chức kiểm tra bài cũ: Luyện tập về từ ghép và từ láy- (Tuần
4 - Tiếng Việt 4 - Tập 1) bằng phương pháp bản đồ tư duy, tiến hành như sau:
Bước 1: Giáo viên đua từ khóa “Từ”
Bước 2: Giáo viên vẽ một vài nhánh cấp 1, cấp 2 và đặt câu hỏi gợi ý:
+ Từ gồm có mấy loại?
+ Cách phân loại từ ghép, từ láy?
Bước 3: Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm theo câu hỏi gợi ý và hoàn
thiện bản đồ sau:
Nhiệm vụ của học sinh lúc này là điền các thông tin còn thiếu và rút ra
nhận xét về mỗi quan hệ các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Sơ đồ minh hoạ:

Đối với những học sinh chậm chỉ yêu cầu các em hoàn thành sơ đồ đơn giản như
sau:

Bước 4: Treo kết quả các nhóm


14
Đối với những học sinh tiếp thu bài tốt thì các em hoàn thành sơ đồ theo
nhiều cách như sau:

Bước 5: Cho học sinh trong nhóm hoặc nhóm khác nhận xét, sau đó giáo
viên đánh giá, bổ sung.
Chọn ra một bản đồ tư duy hoàn thiện nhất về mặt nội dung và hình thức để

trưng bày. Gọi học sinh lên thuyết trình lại bản đồ nhằm khắc sâu kiến thức cho
học sinh.
Bản đồ tư duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm học
sinh có chung 1 kiểu Bản đồ tư duy, giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho học sinh về
mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức - nếu cần.
Ngoài ra giáo viên cũng có thể sử dụng bản đồ tư duy để cùng lúc kiểm tra
bài cũ của nhiều học sinh khác nhau bằng cách yêu cầu học sinh làm vào phiếu
bài tập và nhận xét, đánh giá 4 – 5 em bất kì.
Từ chỗ cho các em lần lượt thay phiên nhau lên vẽ các nhánh bản đồ,
hoàn thiện lại một hệ thống kiến thức bài cũ, tôi thấy dễ kiểm tra và học sinh
cũng hào hứng, tích cực xung phong trả lời, không khí lớp học vui vẻ, học sinh
tiếp thu bài tốt.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp
vẽ bản đồ tư duy chỉ là một hình thức kiểm tra nhằm giúp học sinh củng cố, hệ
thống kiến thức có tính chất lí thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn những kiến
thức có hệ thống, xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng bản đồ tư
duy.
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc giảng bài mới kết
hợp ghi bảng.


15
Lâu nay, việc sử dụng bản đồ tư duy như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho
việc dạy học bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang sử dụng. Tuy
nhiên, việc sử dụng bản đồ tư duy vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm
hiểu, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng
cô đọng kiến thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên là việc làm còn mới mẻ. Qua
trao đổi với anh chị em trong tổ chuyên môn, trong trường ở những buổi sinh
hoạt chuyên môn, hầu hết anh chị em đều có chung quan niệm xem bản đồ tư
duy là công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ, minh họa cho tiết

dạy mà thôi.
Ai cũng cho rằng không thể dùng bản đồ tư duy thay cho phần ghi bảng
của giáo viên được. Thực ra thì ta vẫn có thể thực hiện kết hợp chúng trong quá
trình dạy học bài mới. Qua một quá trình thử nghiệm chúng trong một số tiết
dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này hoàn toàn có thể thực hiện được. Không
những thế, việc kết hợp sử dụng bản đồ tư duy trong việc tổ chức dạy học bài
mới với việc sử dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết
kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại có tác dụng hình thành cho học sinh
thói quen ghi chép bằng bản đồ tư duy. Đây cũng là việc làm hết sức cần thiết
góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ bản đồ tư duy cho các em, nhất là những bài học
nhằm giới thiệu, cung cấp kiến thức. Sau đây là ví dụ minh họa:
Ví dụ 1: Bài Danh từ (Tuần 5) – Luyện từ và câu lớp 4 (Tập 1).
Tổ chức cho học sinh lập Bản đồ tư duy theo nhóm hoặc cá nhân, gợi ý
cho các em tìm các đặc điểm tiêu biểu của danh từ, sau đó tìm những chi tiết
minh họa cho các đặc điểm ấy,… để các em lập Bản đồ tư duy với từ khóa “
Danh từ” ở trung tâm. Tiếp theo cho các nhóm học sinh trình bày, thuyết minh
về Bản đồ tư duy của mình, cả lớp thảo luận, góp ý kiến, giáo viên kết luận dẫn
đến kiến thức mới.

(Đây là một Bản đồ tư duy do học sinh thiết kế trong các giờ dạy thử nghiệm)


16

(Đây là một Bản đồ tư duy khác về Danh từ do học sinh thiết kế)
Như vậy chúng ta có thể dễ dàng sử dụng bản đồ tư duy kết hợp trong việc
dạy học bài mới với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học
sinh ghi. Việc sử dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học
sinh từng bước phát hiện tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một
cách khoa học, có hệ thống. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện

trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự
khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn nhỏ) một cách
liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức
của bài học được cô đọng và trình bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo
trên bảng lớp (hoặc trên màn hình). Bản đồ tư duy ấy không chỉ cung cấp cho
các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các
em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Do đó, chúng ta có thể
dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo viên để học sinh ghi chép.
Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt ở những tiết dạy, bài giảng cho phép chứ
không nên lạm dụng bản đồ tư duy để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy.
Mặt khác việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi khi chúng ta soạn giảng bằng
các bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên đánh số thứ tự vào các khâu lên lớp
(tìm hiểu bài, bài học, luyện tập), các ý chính trong mỗi đơn vị kiến thức của bài
học để học sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở. Giáo viên cũng
dành ít phút cuối tiết học cho học sinh quan sát bản đồ tư duy và thuyết trình
“đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức của bài học.
2.3.4. Giải pháp thứ tư: Sử dụng bản đồ tư duy trong việc cũng cố kiến thức
bài học.
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng Bản đồ tư duy để tự tóm tắt nội
dung bài học sẽ giúp các em động não, sáng tạo hơn. Sử dụng Bản đồ tư duy vào
cuối giờ học, giáo viên nên tổ chức cho nhiều nhóm hoạt động. Đầu tiên giáo
viên tự vẽ cho học sinh thấy, sau đó yêu cầu các em vẽ dưới sự gợi ý, hướng dẫn
của giáo viên và sau cùng các em sẽ tự vẽ theo ý tưởng và sự hiểu biết của mình.


17
Ví dụ 1: Khi dạy phân môn Luyện từ và câu bài Mở rộng vốn từ: “ Lạc quan
– Yêu đời” (Tiếng Việt 4 - Tập 2)
Có thể tiến hành các bước như sau:
Bước 1: Chia nhóm học, cử nhóm trưởng, thư kí

Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh suy nghĩ tìm ra từ khóa và các
câu hỏi cho các nhóm
+ Qua các bài tập vừa tìm hiểu, em biết thêm về điều gì?
+ Nghĩa của tiếng “lạc”? Nghĩa của tiếng “quan”?
+ Kể tên một số từ theo nghĩa mà em vừa tìm?
Bước 3: Tổ chức cho học sinh thảo luận và hoàn thiện bản đồ.
Bước 4: Treo kết quả các nhóm.
Bước 5: Cho học sinh trong nhóm hoặc nhóm khác nhận xét, thuyết minh
lại Bản đồ tư duy của nhóm mình, sau đó giáo viên đánh giá, bổ sung
Điều đặc biệt là tổ chức phương pháp Bản đồ tư duy theo nhóm sẽ khuyến
khích được mọi học sinh tham gia vào quá trình thảo luận, góp ý kiến, nhất là
những học sinh rụt rè, nhút nhát.
Sơ đồ minh họa:

Đối với phân môn Tập làm văn, việc luyện tập cho các em tìm ý, lập dàn ý
theo những yêu cầu khác nhau của đề bài (khi đề bài cùng đề cập đến một đối
tượng ) hầu như không được chú ý. Điều này dẫn tới tình trạng học sinh viết bài
một cách tràn lan, tùy tiện, các ý sắp xếp một cách lộn xộn. Các em vẫn còn ở
lứa tuổi hồn nhiên mau nhớ, mau quên cho nên giáo viên cần luôn quan tâm
nhắc nhở các em lựa chọn từ ngữ, phân chia câu sao cho hợp lí, lưu ý để các em
dựa vào dàn ý để viết, giúp các em tránh được các lỗi xa đề, dùng từ sai…giáo
viên có thể khắc phục bằng cách điều chỉnh lại phương pháp dạy của mình.
Ví dụ 2: Miêu tả về con vật SGK Tiếng Việt 4 tập 2


18
Giáo viên và học sinh hệ thống lại nội dung bài văn theo bản đồ sau:
Sơ đồ minh hoạ:

2.3.5. Giải pháp thứ năm: Sử dụng bản đồ tư duy cho bài ôn tập.

Đây là kiểu bài nhằm tổng hợp lại kiến thức đã học của từng phần, từng
chủ điểm hay từng kỳ nên phần kiến thức không mới nhưng dài. Dạng bài này
yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức cũ. Bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh dễ dàng
hơn khi nắm bắt kiến thức tổng hợp, khắc kỹ, nhớ lâu, tạo sự hưng phấn trong
dạy và học; Giáo viên đỡ mất thời gian, công sức mà hiệu quả đạt được rất lớn.
Tuy nhiên, khi dạy học bằng bản đồ tư duy giáo viên cần lựa chọn nội
dung phù hợp với bài học mà học sinh đang học; đảm bảo tính vừ sức, đủ thông
tin, kiến thức mà học sinh cần nắm được, không quá dễ mà cũng không quá khó.
Nội dung của từ khóa phải có tính khả thi, từ khóa phải hiểu được, thực hiện
được và phù hợp với thực tế địa phương, trường, lớp…
Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh hệ thống kiến
thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ Bản đồ tư duy. Mỗi
bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm
này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng
dễ dàng.
Ví dụ 1: Luyện từ và câu – Ôn tập cuối học kì 2 (Tiếng Việt 4 – Tập 2)
Đây là kiểu bài ôn tập. Vì vậy khi dạy học bài này nên tổ chức cho học
sinh hoạt động nhóm lập Bản đồ tư duy với tên chủ đề chính là “câu” để học
sinh thiết lập Bản đồ tư duy, qua đó tự xây dựng kiến thức về câu, việc làm này
sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, nâng cao hiệu quả giờ học.
Hoạt động 1: Lập Bản đồ tư duy. Mở đầu bài học, giáo viên có thể cho
học sinh lập Bản đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với các ý: Có mấy kiểu? Cấu
tạo và đặc điểm của từng kiểu câu? ...


19
Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về Bản đồ tư duy. Cho đại diện của
các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về Bản đồ tư duy mà nhóm mình đã
thiết lập.
Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện Bản đồ tư duy. Tổ chức

cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện Bản đồ tư duy về kiến
thức về câu. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh
Bản đồ tư duy về câu, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một Bản đồ tư duy. Giáo viên cho
học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức câu thông qua một Bản đồ tư
duy do giáo viên đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa), hoặc Bản đồ tư
duy mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. Giáo viên có thể
giới thiệu Bản đồ tư duy sau đây:

(Một Bản đồ tư duy do giáo viên đã chuẩn bị sẵn)

(Đây là một Bản đồ tư duy do học sinh thiết kế trong các giờ dạy thử nghiệm)


20
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình dạy học, tôi đã áp dụng Bản đồ tư duy vào dạy môn Tiếng
Việt. Tôi lấy lớp 4B làm lớp thực nghiệm, lớp 4C làm lớp đối chứng.
Kết quả:
Chưa hoàn
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Tổng số
thành
học sinh
Lớp
SL
%
SL
%

SL
%
4B
30
20
66,7
10
33,3
0
0
4C
31
10
32,3
16
51,6
5
16,1
Qua bảng số liệu cho thấy học sinh lớp thực nghiệm tiến bộ rõ rệt. Nhờ
“Bản đồ tư duy”, ghi chú bài giảng của giáo viên trở nên linh hoạt, giúp người
dạy tiết kiệm được thời gian và công sức, có điều kiện để dạy học sáng tạo.
Khác với bài soạn trước đây là trình bày nội dung theo kiểu tuần tự, “Bản đồ tư
duy” giúp bài giảng không những biểu thị sự kiện mà còn cho thấy mối liên hệ
giữa các sự kiện ấy; giúp học sinh hiểu sâu hơn chủ đề, học sinh qua đó cũng
biết cách học và tự học một cách hiệu quả. Phương pháp dạy học mới này sẽ trợ
giúp cho học sinh sử dụng sức mạnh của bộ não để học và ghi nhớ những gì đã
học. Quan trọng hơn, phương pháp học này làm cho bài học được trình bày một
cách sáng tạo, khiến cho cả thầy và trò đều thấy lý thú.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận

Qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm sư phạm, bước đầu tôi nhận thấy:
Việc vận dụng Bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học
sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề
một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng Bản đồ tư duy kết hợp với các phương
pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp, gợi mở, thuyết trình,…có tính khả thi
cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
Bản đồ tư duy một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết
kế Bản đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu,
phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Bản đồ tư duy. Với trường
có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần
mềm Mindmap cho giáo viên, học sinh sử dụng, bằng cách vào trang web
www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta có thể tải về
bản demo ConceptDraw MINDMAP 5 Professional, phần mềm này không hạn
chế số ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản.
Sử dụng Bản đồ tư duy sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm
tòi xây dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích
hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi người, Bản đồ tư duy giúp bộ não liên tưởng,
liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống… để phát


21
triển, mở rộng ý tưởng. Sau khi học sinh tự thiết lập Bản đồ tư duy kết hợp việc
thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên dẫn đến kiến thức của bài
học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
Nếu so sánh với phương pháp dạy học truyền thống chỉ chú trọng đọc chép thì dạy học bằng Bản đồ tư duy góp phần đổi mới căn bản và toàn diện tổ
chức hoạt động dạy học, nhất là vận dụng vào dạy học kiến thức mới hoặc hệ
thống hóa kiến thức phù hợp với từng đối tượng khác nhau.
Qua đó cho thấy việc áp dụng “Bản đồ tư duy” trong dạy học là một
phương pháp mới, góp phần đổi mới phương pháp dạy học đưa phong trào giáo

dục ngày càng phát triển bền vững.
3.2. Kiến nghị
Trong quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài này, tôi thấy Bản đồ tư duy
là một phương pháp dạy học tích cực, đem lại hiệu quả cao. Thế nhưng trong
thực tế dạy học, đa số giáo viên chưa biết cách khai thác và vận dụng được
phương pháp dạy học này; học sinh chưa biết sử dụng Bản đồ tư duy vào việc
học tập. Do đó tôi có một số kiến nghị như sau:
* Đối với nhà trường:
Cần bồi dưỡng kiến thức về phương pháp Bản đồ tư duy cho giáo viên,
cần phải cho giáo viên hiểu được tính ưu việt của phương pháp này.
Bản đồ tư duy cần được vận dụng rộng rãi không chỉ trong môn Tiếng
Việt mà tất cả các môn học khác ở Tiểu học (chủ yếu lớp 4, lớp 5) như môn Lịch
sử, Địa lí ...
* Đối với giáo viên:
Học sinh cần được rèn luyện kĩ năng sử dụng Bản đồ tư duy một cách có
hệ thống và thường xuyên hơn để giúp các em có thể sử dụng nó như một công
cụ phục vụ không chỉ trong học tập mà còn trong cả cuộc sống.
Giáo viên cần không ngừng tự học, tự nghiên cứu về kiến thức lẫn
phương pháp dạy học để mở rộng hiểu biết cho mình.
Trên đây là một vài kinh nghiệm trong quá trình dạy học Tiếng Việt 4 của
bản thân tôi, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự
đóng góp quí báu của mọi người.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG
KHOA HỌC TRƯỜNG

Quảng Tiến, ngày 12 tháng 5 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.

Người viết

Lê Thị Dung


22
Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4, Hai tập, Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên).
2. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt 4, Hai tập, Phạm Thị Thu Hà.
3. Sách giáo viên Tiếng Việt 4, Hai tập, Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên).
4. Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, Đào Ngọc, Nguyễn Quang Ninh.
5. Hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt 4, Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên).
6. Vui học Tiếng Việt, Hai tập, NXB giáo dục.
7. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học, Lê Hữu Tỉnh,
Trần Mạnh Hưởng.
8. Tâm lý học, Pôlya, NXB giáo dục, 1990 (Bản dịch Tiếng Việt).
9. Lý luận dạy học, Nguyễn Bá Kim, NXB giáo dục 1992.
10. Đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt, Nguyễn Thị Như Mai, Tạp
chí khoa học giáo dục số 69/2000.
11. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học - Lê Phương Nga,
Nguyễn Trí - NXB Trường ĐHSP Hà Nội I - Hà Nội 1995.


23

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ SẦM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 1

PHỤ LỤC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VỀ:


MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY MÔN TIẾNG VIỆT BẰNG BẢN
ĐỒ TƯ DUY LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 1
THÀNH PHỐ SẦM SƠN.

Người thực hiện: Lê Thị Dung
Chức vụ: Giáo viên tổ 4
Đơn vị công tác: Trường TH Quảng Tiến 1
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

SẦM SƠN, NĂM 2020


24
PHỤ LỤC

PHỤ LỤC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VỀ ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP DẠY MÔN TIẾNG VIỆT BẰNG BẢN ĐỒ
TƯ DUY LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 1 THÀNH
PHỐ SẦM SƠN.
1. Phụ lục 1 ( Minh hoạ cho mục 2.3.1. Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn học
sinh lập Bản đồ tư duy trang 9 )

2. Phụ lục 2 ( Minh hoạ cho mục 2.3.2. Biện pháp thứ hai: Sử dụng Bản đồ tư
duy trong việc kiểm tra kiến thức cũ trang 12 )


25
Đối với những học sinh học chậm, chỉ yêu cầu các em hoàn thành sơ đồ đơn

giản như sau:

3. Phụ lục 3 ( Minh hoạ cho mục 2.3.2. Biện pháp thứ hai: Sử dụng Bản đồ tư
duy trong việc kiểm tra kiến thức cũ trang 13 ).


×