PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ SẦM SƠN
TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP CHO HỌC SINH
KHUYẾT TẬT HÒA NHẬP
Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 2
THÀNH PHỐ SẦM SƠN, THANH HÓA
Người thực hiện: Lê Văn Hưng
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Tiến 2
SKKN thuộc lĩnh vực: Giáo dục hoà nhập
SẦM SƠN, NĂM 2019
1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Để phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; nước ta cần nguồn năng
lực dồi dào về thể chất, đạo đức và trí tuệ…
Muốn thực hiện được điều đó chúng ta cần phải đầu tư đến yếu tố con người,
vai trò của giáo dục.
Con người sinh ra đều mang những đặc tinh chung của loài người nhưng cũng
mang những đặc điểm riêng khác biệt của từng cá nhân. Chúng ta nhận ra nhau nhờ
những đặc điểm riêng đó, khác nhau về nhiều mặt: hình thức bề ngoài, năng lực nhận
thức, năng lực vận động, sở thtichs, tình cảm, thái độ,…Những đặc điểm riêng ấy ở
người khuyết tật cũng cần được tôn trọng như những sự khác bibieetchir rõ mọi
người trong xa hội cần hiểu, cảm thông, chấp nhận những khác biệt ở người khuyết
tật nói chung và học sinh khuyết tật nói riêng. Nguyên tắc giáo dục này cùng giúp
học sinh khuyết tật hiểu rõ những khác biệt của bản thân, tự đó có ý thức, trách nhiệm
với bản thân, có phương pháp hòa nhập xax hội.
Giáo dục học sinh khuyết tật hòa nhập đáp ứng được mục tiêu giáo dục, đánh
giá mức độ phát triển của toàn xã hội. Vì giáo dục học sinh khuyết tật không những
dựa trên quan điểm xã hội trong việc nhìn nhận, đánh giá đúng trẻ khuyết tật mà còn
dựa trên quan điểm tích cực về phát triển của trẻ khuyết tật. Chính vì vậy, để đáp ứng
nhu cầu giáo dục trẻ khuyết tật, giáo dục học sinh hòa nhập là sự lựa chọn tối ưu nhất.
Mô hình này đã mở ra cho trẻ khuyết tật cơ hội được đi học, được giao lưu, tếp xúc
với mọi người, được phát huy hết khả năng của mình và hòa nhập với xã hội.
Vì vậy giáo dục trẻ khuyết tật là nhiệm vụ quan trọng cao cả và đầy tính nhân
văn của ngành giáo dục nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung. Trê em sinh ra bị
khuyết tật do rất nhiều nguyên nhân: Do thể trạng người mẹ, do nhiễm độc thai nhi,
do ô nhiễm môi trường,... Trong đó nguyên nhân cơ bản là do đất nước ta đã trải qua
bao bom đạn của Đế Quốc Mỹ, Thực Dân Pháp,... đã gieo dắt trên mọi quê hương
Việt Nam rất nhiều chất độc hại mà hậu quả nặng nề nhất là bị ảnh hưởng chất độc
màu da cam, nhiều em bé sinh ra mang trên mình rất nhiều di chứng khác nhau suốt
đời không bao giờ khỏi, có em vĩnh viễn không nhìn thấy ánh sáng,... Chỉ riêng trên
địa bàn Quảng Tiến nơi tôi công tác. Trường tôi có đến bốn học sinh khuyết tật trong
năm học 2018 – 2019. Để giúp giáo viên nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
trong đó tôi đặc biệt quan tâm đến việc giúp giáo viên giáo dục trẻ khuyết tật hòa
nhập. Toàn trường sĩ số là 852 học sinh, trong đó có 04 em học sinh khuyết tật: em
2
Nguyễn Minh Tiến lớp 1G-Trí não, em: Nguyễn Minh Nhật lớp 2D-Tăng động, em
Ngô Minh Tiến lớp 2E-Trí não, em Trần Trí Huy lớp 3E-Khuyết tật vận động (Em
Nguyễn Minh Tiến là hạn chế nhất trong học tập, rèn luyện)
Qua nhiều năm quản lý, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp
giáo viên dạy lớp có học sinh khuyết tật hoà nhập được với lớp, với trường; Làm thế
nào để các em đạt được các kĩ năng tối thiểu, không ảnh hưởng lớn đến việc giảng
dạy của giáo viên, chất lượng lớp, chất lượng của trường. Việc làm đó không thể
ngày một ngày hai mà đó là cả một quá trình kiên trì và khổ luyện. Nhưng bằng tất
cả lương tâm của một người thầy, của người quản lí nhà trường tôi đã giúp giáo viên
vạch ra kế hoạch cụ thể để vừa đảm bảo được chất lượng giảng dạy của lớp, vừa
giúp được các em học sinh khuyết tật hiểu biết về kĩ năng xã hội, sống và học tập
hòa nhập với lớp, với trường và cộng đồng. Với lý do đó, tôi chọn đề tài: “ Một số
biện pháp giúp cho học sinh khuyết tật học hoà nhập nâng cao chất lượng giáo
dục ở trường Tiểu học Quảng Tiến 2, Thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa”
[[
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng học sinh khuyết tật học hòa nhập tại trường Tiểu học
Quảng Tiến 2, Thành Phố Sầm Sơn, Thanh Hóa, hiểu được tâm, sinh lý học sinh
khuyết tật trên cơ sở đó rút ra các kinh nghiệm giúp giáo viên giáo dục học sinh
khuyết tật hòa nhập nâng cao chất lượng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
:
Học sinh khuyết tật hoạt động và học tập hòa nhập trong trường Tiểu học
Quảng Tiến 2, thành phố Sầm Sơn, Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện.
+ Phương pháp quan sát.
-Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
3
2. NỘI DUNG.
2.1. Cơ sở lý luận:
Thực hiện Quyền và cơ hội giáo dục trẻ khuyết tật Việt Nam, theo Chỉ thị số
01-2006/CT-TTg, ngày 06-01-2006 của Thủ tướng Chính phủ, Chiến lược và kế
hoạch hành động giáo dục trẻ khuyết tật Việt Nam có cơ hội bình đẳng trong tiếp cận
một nền giáo dục có chất lượng và được trợ giúp để phát triển đối đa tiềm năng, tham
gia và đóng góp tích cực xã hội. Để thực hịên được điều đó chỉ có giáo dục hòa nhập
mới là mô hình hoàn thiện nhất trong các mô hình giáo dục trẻ khuyết tật. Giáo dục
học sinh khuyết tật hòa nhập có cơ sở lí luận vững chắc về đánh giá con người, về
mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Giáo dục trẻ khuyết tật được áp dụng
những lý luận dạy học hiện đại lấy người học làm trung tâm. Chương trình luôn được
điều chỉnh, phương pháp luôn được đổi mới thích hợp với mọi học sinh, chương trình
sát với chương trình giáo dục trường học mới-VNEN. Có thể nói giáo dục trẻ khuyết
tật ở tiểu học, hòa nhập là mô hình giáo dục tốt nhất, mang tính nhân văn làm cho
mọi học sinh cắp sách tới trường đều được bình đẳng học, vui, đều thấy rõ trách
nhiệm của mình. Nó cũng làm cho giáo viên gần gũi nhau hơn, có cơ hội hợp tác với
nhau vì sự nghiệp giáo dục trẻ khuyết tật.
Như chúng ta đã biết trẻ khuyết tật là đối tượng thiệt thòi nhất trong số những
trẻ em thiệt thòi. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển nói chung, giáo dục trẻ
khuyết tật hòa nhập ở tiểu học thành phố Sầm Sơn nói chung và tại trường tiểu học
Quảng Tiến 2 nói riêng đã có những thành quả quan trọng về nhiều mặt. Được sự
quan tâm giúp đỡ của Ngành giáo dục thành phố, số trẻ khuyết tật đi học chất lượng
ngày một tăng. Tuy nhiên thực trạng giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập ở tiểu học vẫn
còn không ít những hạn chế, điều này có cả trong suy nghĩ, cách dạy-giáo dục của
giáo viên và chính cha mẹ học sinh chưa thực sự hợp tác với nhà trường, chưa tin
tưởng vào khả năng phát triển của trẻ khuyết tật. Thực tế đã cho thấy rất nhiều học
sinh khuyết tật của chúng ta đã và đang có những đóng góp thành công vang dội cho
nước nhà (Vượt lên chính mình). Hãy thắp sáng vì một tương lai của trẻ em khuyết
tật. Đây là chính sách của Đảng hợp lòng dân và người bắt tay vào thực hiện thực tế
không ai khác đó là những kỹ sư tầm hồn, những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa,
người deo mầm tương lai cho đất nước.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
2.2.1.Thuận lợi:
Trường Tiểu học Quảng Tiến 2 đóng trên địa bàn phường Quảng Tiến, thành
phố Sầm Sơn, Thanh Hóa, với 24 lớp, 852 học sinh. Trong những năm gần đây, được
4
sự quan tâm của Phòng Giáo dục và các Ban ngành, Đoàn thể, nhất là chính quyền
địa phương đã và đang có những bước chuyển biến tích cực về chất lượng dạy và
học. Trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II nên được đầu tư về cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ đầy đủ cho quá trình dạy và học. Các em học sinh ở đây chăm ngoan,
chịu khó học tập; cha, mẹ học sinh quan tâm đến công tác phối kết hợp giáo dục học
sinh. Đây là điều kiện thuận lợi cho nhà trường và các thây cô giáo làm tốt công tác
giảng dạy của bản thân.
2.2.2.Khó khăn:
Trường Tiểu học Quảng Tiến 2 còn gặp những khó khăn: Là địa phương nguồn
thu nhập chính tự nông nghiệp và ngư nghiệp, một bộ phận không nhỏ dân cư đi làm
kinh tế xa nhà, kinh tế của nhân dân còn khó khăn; một số học sinh đi học chưa được
sự quan tâm của gia đình, đặc biệt là số học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa ở nhà với ông
bà nên vẫn còn phó mặc cho nhà trường và các thầy cô giáo.
Hằng năm, nhà trường có nhiều học sinh là khuyết tật với mức độ khác nhau.
Qua điều tra thực tế và giúp giáo viên giảng dạy và giáo dục học sinh khuyết tật nhiều
năm ở trường, tôi thấy có nhiều vấn đề bất cập trong việc tìm hiểu, phương pháp,
hình thức dẫn đến kết quả học tập của các em này chưa đạt, cuộc sống, sự am hiểu xã
hội cũng như kỹ năng sống của các em này còn hạn chế mà ngoài những nguyên nhân
do bệnh tật ra còn bởi một phần do giáo viên chưa thực sự hiểu rõ, quan tâm đúng
mức, đúng cách và dành tình thương giáo dục thật sự cho các em.
Bảng điều tra học sinh khuyết tật đầu năm học ở trường Tiểu học Quảng Tiến 2
năm học 2018- 2019
Kết quả GD
TT
Họ và tên
Lớp Mức độ khuyết tật
Toán
Tiếng Việt
1 Nguyễn Minh Tiến
1G Di chứng não
CHT
CHT
2 Nguyễn Minh Nhật
2D Tăng động
CHT
CHT
3 Ngô Minh Tiến
2E Thiểu năng trí tuệ
CHT
CHT
4 Trần Trí Huy
3E KT Vận động
HT
CHT
Nhìn bảng khảo sát kết quả học tập hạn chế hơn với yêu cầu, trong đó bạn
Nguyễn Minh Tiến là học sinh hạn chế nhất về mọi hoạt động. Chính vì vậy ngay đầu
năm học, tôi đã lên kế hoạch cùng với giáo viên chủ nhiệm kiểm tra thực trạng của
các em học sinh khuyết tật. Nhìn chung các em có khả năng về học tập cũng như kỹ
năng sống rất hạn chế. Vì vậy tôi đã dành nhiều thời gian và cùng với giáo viên chủ
nhiệm phối hợp với gia đình, trung tâm y tế phường đi sâu tìm hiểu và thu được kết
quả như sau:
* Về kiến thức:
5
- Môn Toán: Chỉ có em Huy năm được chuẩn kiến thức kỹ năng, 03 em còn lại
không nắm được kiến thức kỹ năng tối thiểu.
- Môn Tiếng Việt : Em Huy biết đọc, viết sai nhiều lỗi chính tả. 03 em còn lại
chưa thuộc âm, vần.
- Các môn học khác: Chỉ có em Huy có ý thức học tập, các em khác học không tập
trung.
* Về kĩ năng xã hội:
+Em Huy thực hiện tốt yêu cầu học tập của người học sinh nhưng đi lại rất khó
khăn, không tham gia vui chơi cùng các bạn.
+Các em còn lại:
- Đi học không đều và thường đi học muộn.
- Giờ ra chơi chỉ ngồi trong lớp, không cùng chơi với các bạn.
- Nói tự do trong giờ học.
- Cách xưng hô chưa chính xác.
- Rụt rè trước đám đông.
- Chưa ý thức được lời nói và hành động của mình.
- Hay làm hỏng sách vở, đồ dùng học tập.
- Có thời điểm không chịu ngồi trong lớp, ra ngoài đi lang thang trong trường.
* Về chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng :
- Gia đình các em kinh tế rất khó khăn, bố mẹ làm nghề tự do thu nhập thấp
nên không có điều kiện quan tâm đến sức khoẻ của con, vì điều kiện hoàn cảnh rất
khó khăn nên chưa có gia đình nào đưa con đi khám sức khoẻ định kì, hay một bệnh
viện nào đó trong tỉnh (Các em đều ốm yếu, sắc mặt không khoẻ, dấu hiệu của sự
thiếu vận động).
- Việc ăn uống của các em chưa được đảm bảo, em ăn uống thất thường. (Ăn
uống chưa đủ chất).
- Vệ sinh cá nhân chưa sạch sẽ (Các em đi học quần áo chưa sạch, đầu tóc chưa
gọn gàng).
- Sách vở, đồ dùng học tập thiếu nhiều, bẩn.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Ngay sau khi gặp các em, trong tôi dấy lên một tình thương vô bờ bến. Tôi
trằn trọc, băn khoăn suy nghĩ, tìm tòi học hỏi những đồng nghiệp đã từng dạy học
sinh khuyết tật, nghiên cứu tài liệu của nhà trường, và cùng với giáo viên chủ nhiệm
mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, biện pháp thực hiện như sau:
2.3.1.Biện pháp 1: Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm sinh lý học sinh.
6
- Ngay sau khi phân công nhiệm vụ cho giáo viên phụ trách lớp, tôi cùng với
giáo viên chủ nhiệm và lớp trưởng tìm đến nhà các em. Khi đến gia đình các em thì
các gia đình đều quá khó khăn về kinh tế, đồ dùng trong nhà thì tuyềnh toàng không
có giá trị. Tiếp xúc với bố mẹ các em thì đều thấy khả năng chăm sóc, dạy dỗ, giúp
đỡ các em quá hạn chế, chăm sự nhờ nhà trường, nhờ thầy cô giáo. Chúng tôi đặt vấn
đề tìm hiểu về tình trạng của các em về sức khỏe, tình trạng bệnh tật thì đều nhận
được kết quả là sự bất lực, phó mặc cho số phận, không hiểu gì và chưa làm gì để
giúp đỡ các em. Khi dặt vấn đề hợp tác, phối hợp với giáo viên trong quá trình dạy
học, giáo dục thì các gia đình đều nói bận, không biết phải làm gì. Tôi mong gia đình
phải luôn luôn kết hợp cùng với nhà trường và cô giáo chủ nhiệm cộng tác chia sẻ và
giúp đỡ trong quá trình chăm sóc các em. Đồng thời để dành khoản tiền chi phí học
tập do nhà nước hỗ trợ và chịu khó lao động, chăn nuôi để phát triểddinkinh tế gia
đình, dành một phần tiền chăm sóc sức khỏe cho các em.
- Việc tìm hiểu gia đinh các em đối với tôi và giáo viên chủ nhiệm rất quan
trọng nó giúp cho người cán bộ quản lí nhà trường và giáo viên nắm được hoàn cảnh,
mức độ khuyết tật, và tâm tư nguyện vọng của gia đình. Chính vì vậy rời nhà các em
về là lòng tôi ngỗn ngang đầy băn khoăn, trăn trở, làm sao để giúp được các em.
- Sau khi đi tìm hiểu ở gia đình, chúng tôi chỉ hiểu một phần nhỏe về đặc điểm,
tâm sinh lý của các em; chúng tôi tới trung tâm y tế phường Quảng Tiến gặp, nhờ sự
phân tích, tư vấn kỹ về tâm sinh lý, đặc điểm của các em học sinh này.
Sau khi tìm hiểu kỹ, hiểu thấu đáo về hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, đặc điểm
tâm sinh lý và cách khắc phục của các em tôi và giáo vphucjchur nhiệm đã lập ngay
một kế hoạch cụ thể chi, tiết để giúp đỡ từng em.
2.3.2. Biện pháp 2. Lập kế hoạch giáo dục:
Chuẩn bị cho học sinh khuyết tật hoà nhập với lớp, với trường:
- Phân công phòng học phù hợp: Lớp 3E học phòng cạnh nhà vệ sinh học sinh,
các lớp có học sinh còn lại học tầng 1 để thuận lợi cho các em đi lại, tránh trường hợp
khi kích động các em dễ tai nạn khi học tầng 2.
- Để các em có điều kiện học tập thuận lợi, tôi kiến nghị nhà trường, đoàn đội
tặng các em áo đồng phục, vở viết và các đồ dùng học tập.
- Tôi cùng với giáo viên dành thời gian để nói chuyện với các em học sinh
trong lớp để các em hiểu, cảm thông, chia sẻ và tận tình giúp đỡ bạn.
- Về sắp xếp chỗ ngồi: Tôi chỉ đạo giáo viên xếp em ngồi dãy bàn gần bàn giáo
viên để em được thân thiện với bạn bàn dưới và học hỏi bạn bàn trên, giáo viên có
khả năng quan sát giúp đỡ tốt hơn. Tôi chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm xếp em ngồi cạnh
7
bạn ngoan, học giỏi, giao trách nhiệm cho các bạn đó giúp đỡ bạn trong học tập, vui
chơi.
** Những công việc cụ thể: Các lớp đều cụ thể hóa công việc phân công.
Tôi xin trình bày cụ thể công việc ở lớp 2E giúp đỡ em Ngô Minh Tiến.
+ Về kiến thức:
*Giúp em học Tiếng Việt.
- Giúp em luyện đọc: Vì khả năng đọc của em rất hạn chế, em chưa thuộc hết
mặt các con chữ, chưa biết ghép vần nên tặng em một bộ chữ Tiếng Việt Lớp 1. Hầu
hết các giờ ra chơi và những lúc rãnh rỗi là tôi chỉ đạo giáo viên ngồi bên em, ghép
vần và hướng dẫn em đọc. Tôi đã trực tiếp vừa động viên, vừa tâm tình với em và
nhắc giáo viên khen ngợi mỗi khi em đọc đúng rồi cả lớp vỗ tay hoan hô, em rất
thích, càng say sưa học.
Nhưng khả năng đọc, ghép vần của em còn rất hạn chế vì trí nhớ hạn chế, tôi
hướng dẫn giáo viên mượn cuốn Tiếng Việt Lớp 1- Để dạy lại, dạy theo khả năng
tiếp thu và luyện đọc.
Em thích kênh hình hơn kênh chữ, tôi và giáo viên đã giúp em thông qua bộ
tranh mẫu để em tập ghép chữ.
Ví dụ:
- Tôi đưa tranh vẽ quả bưởi, hình có liên quan âm, vần, tiếng,...để hướng dẫn
đọc âm, vần,...
- Với tranh vẽ con mèo, em sẽ tìm âm m ghép với âm e và âm o, thanh huyền
đặt ở trên âm e, sau đó em sẽ đánh vần tiếng mèo.
Cứ lần lượt như vậy, các giờ ra chơi, tôi chỉ đạo giáo viên dạy lớp 2E thường cử
3 - 4 em học sinh ở lại trong lớp giúp Tiến đọc âm, ghép vần và đọc trơn (chỉ sử dụng
một nửa thời gian ra chơi để giúp em luyện đọc, nửa thời gian còn lại để em chơi với
các bạn).
- Để thay đổi hình thức dạy học, thỉnh thoảng tôi và giáo viên dạy lớp 2E lại
mang vật mẫu thật: Khi thì quả cam, quả ổi ; khi thì vài cái kẹo. Tôi yêu cầu em đánh
vần và đọc trơn tiếng đúng theo vật mẫu, khi em ghép và đọc đúng, giáo viên thưởng
luôn cho em quả cam hay cái kẹo đó. Em rất thích.
Có lẻ những việc làm, những cử chỉ tràn đầy yêu thương của tôi đã dần dần
giúp em Tiến hiểu ra điều mà người thầy mong muốn nên mỗi ngày em càng thích
học hơn. Lòng tôi rất vui vì em đã đọc được mặc dù còn rất chậm.
-Giúp em luyện viết:
Khi em đã đọc được thì việc luyện viết có phần dễ dàng hơn. Tôi chỉ đạo và
8
cùng với giáo viên dạy lớp 2E dùng mẫu chữ (chữ viết thường) cho em quan sát và
hướng dẫn em cách viết các con chữ. Ban đầu tôi viết mẫu để em viết theo, đầu tiên
là các con chữ cao 1 li, rồi đến 2 li rưỡi, 2li và 1 li rưỡi tiếp sau đó tôi giao cho giáo
viên hướng dẫn. Việc luyện viết của em nhanh và dễ hơn việc luyện đọc. Chỉ sau một
tháng em đã viết được chữ cái, bắt đầu viết vần.
Và tôi đã giúp giáo viên thành công trong việc luyện viết cho em Tiến. Em đã
viết được chữ cái, vần.
*Giúp em học Toán :
- Để giúp em học Toán, tôi tặng em một bộ học Toán lớp 1. Tôi và giáo viên
dạy lớp 2E vạch ra kế hoạch: Đầu tiên là dạy em đọc thuộc số từ 1 đến 9,... Lúc đầu
em đếm bằng các ngón tay, sau đó tôi hướng dẫn giáo viên giúp em đếm bằng que
tính.
Ví dụ : Một que tính, viết số 1,...
-Hướng dẫn em dùng ngón tay, que tính thực hiện phép cộng trong phạm vi 10:
Một que tính thêm một que tính nữa, trên tay em có mấy que ?(2 que)
Em thao tác từ chậm, nhanh dần sau đó chuyển thành phép tính:
1+1=2
Cho em thao tác rất chậm, động viên, khích lệ để em thực hiện.
Sau khi em đã thành thạo phép tính này, chuyển dần sang các phép tính tiếp
theo.
Tôi cùng với giáo viên dạy lớp 2E đã dạy em biết đọc, biết viết và làm toán
như vậy. Đó là cả một quá trình nan giải đòi hỏi ở người giáo viên tính kiên trì, khoa
học trong phương pháp và hình thức tổ chức. Khó khăn là thế nhưng tôi thực sự rất
vui vì sự tiến bộ có thể trông thấy của Tiến. Mặc dù em chỉ tiếp thu được ở dạng cơ
bản, nhưng đây là những viên gạch rất quan trọng cho quá trình học tập và phát triển
sau này của em.
+Về kĩ năng xã hội:
- Việc đầu tiên tôi nghĩ là phải giúp em đi học đầy đủ và đúng giờ. Để làm tốt
được việc đó, tôi cùng với giáo viên phụ trách lớp thống nhất giao cho em Lê Thị
Khánh Linh là lớp phó học tập (ở cạnh nhà em Tiến ) ngày hai buổi đến gọi bạn Tiến
đi học, tối đến có nhiệm vụ sang cùng học giúp đỡ em Tiến những việc cần thiết. Nhờ
có sự động viên, khuyến khích kịp thời cộng với lòng nhiệt tình của bạn Khánh Linh
mà Tiến đi học đầy đủ và đúng giờ.
- Trong các giờ ra chơi, tôi cùng giáo viên luôn tranh thủ tổ chức các trò chơi
vui mà dễ để em Tiến và các em học sinh khuyết tật có cơ hội tham gia hòa nhập. Tôi
cùng giáo viên hướng dẫn và dặn dò các bạn trong lớp rủ em cùng chơi và thỉnh
9
thoảng giao cho Tiến làm quản trò hay trọng tài để em bạo dạn trước chỗ đông người.
Trong các tiết học tôi chỉ đạo giáo viên tổ chức học nhóm và khéo léo xếp em Tiến
vào các nhóm có nhiều em có năng lực và phẩm chất tốt để khích lệ động viên em trả
lời những câu hỏi dễ, từ đó em không còn ngồi lì trong lớp học nữa mà tham gia vui
chơi cùng bạn bè .
- Trong các giờ lao động hay hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tôi cùng giáo
viên hướng dẫn em làm cùng các bạn tham gia các trò chơi dân gian, văn hóa văn
nghệ. Và bao giờ cũng khen em làm việc rất tốt, hát rất hay và đề nghị cả lớp tuyên
dương. Dĩ nhiên là Tiến rất thích làm việc và tham gia rất hăng say.
- Để việc xưng hô của em chính xác, tôi cùng giáo viên đã giúp em xác định
được: Đối với những người hơn tuổi như ông, bà,cô, dì, chú, bác...phải xưng mình là
cháu; đối với mẹ phải xưng là con; đối với thầy cô giáo phải xưng là con hoặc em;
đối với bạn bè phải xưng tôi gọi bạn. Đối với người hơn tuổi phải gọi dạ, bảo vâng....
- Một việc nữa là tôi giúp em bạo dạn trước đám đông, người lớn tuổi: Đây là
một việc làm khó và cần rất nhiều thời gian.
Trước hết là trong các giờ học, tôi chỉ đạo giáo viên gọi em phát biểu về ý kiến
riêng của mình.
Ví dụ:
-Tiết học TNXH: Đây là cây gì, con gì?
-Tiết toán: 2 + 1 = ?
Cho em trả lời những kiến thức vừa sức, gần gũi đời sống thực tế để em trả lời
được, đúng.
Ngoài ra, trong các giờ sinh hoạt lớp hay trong trò chơi học tập, tôi hướng dẫn
giáo viên để em nhận xét, đánh giá các bạn bằng ý kiến riêng của mình. Từ những
việc làm đó, em Tiến đã bạo dạn trước đám đông.
+Về chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng :
- Để giúp cho việc chăm sóc sức khoẻ của em được tốt, tôi cùng giáo viên phụ
trách lớp 2E đến gia đình em mỗi tháng một lần. Đầu tiên là tôi tư vấn cho gia đình
về cách ăn uống của em sao cho đủ chất và động viên gia đình nên đưa em đi khám
sức khoẻ định kì vì em được hưởng chế độ khám chữa bệnh; gặp bác sĩ để biết được
kết quả, tình hình sức khỏe của em.
- Về việc vệ sinh cá nhân:
Để em biết vệ sinh cá nhân sạch sẽ, hàng ngày, trước mỗi buổi học tôi nhắc
giáo viên thường khen ngợi Tiến.
Ví dụ: “Hôm nay Minh Tiến mặc cái áo này rất đẹp, em hãy cố gắng giữ gìn để áo
không bị bẩn nhé ”.
10
Có hôm đầu tóc em không được gọn gàng, tôi đã chải lại tóc cho em và nhắc
giáo viên thường xuyên quan tâm em nhiều hơn về công tác vệ sinh cá nhân. Tôi
động viên và nhắc nhở em phải ăn mặc gọn gàng, tắm rửa hàng ngày, đánh răng
thường xuyên hàng ngày hai lần vào buổi sáng và tối.
Bằng những cử chỉ ân cần, bằng những lời động viên và có cả nghiêm khắc,
em Tiến đã thay đổi hoàn toàn: Em mạnh dạn khi đến trường, vui vẻ lúc ở nhà, chan
hoà với bè bạn, lễ phép với người hơn tuổi...
+Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện:
Ngoài những biện pháp trên tôi cùng với giáo viên dạy lớp 2E còn chú trọng
xây dựng môi trường giáo dục thân thiện như sau:
- Chỉ đạo xây dựng tập thể lớp có ý thức trách nhiệm, thái độ đoàn kết thương
yêu giúp đỡ bạn Tiến không may mắn. Động viên mọi thành viên trong lớp phải có
tinh thần trách nhiệm giúp đỡ lôi cuốn, tạo điều kiện cho em Tiến tham gia vui chơi.
Giáo viên cùng các bạn trong lớp luôn động viên khuyến khích kịp thời khi em Tiến
hoàn thành được một nhiệm vụ, công việc đơn giản so với các em học sinh khác.
- Xây dựng vòng tay bạn bè ngay từ đầu năm để tạo ra bầu không khí thân mật,
thương yêu giúp đỡ em Tiến như: nhóm bạn cùng học ở nhà; nhóm bạn cùng đi học;
nhóm bạn học trên lớp; nhóm bạn cùng vui chơi.
- Quan tâm tìm hiểu đặc điểm bệnh tật của em để có hướng giúp đỡ kịp thời khi
em đau. Yêu thương quan tâm chăm sóc em thường xuyên để em có cảm giác là
không bị bỏ rơi để em luôn tin tưởng rằng được sống và học tập trong vòng tay yêu
thương của thầy, cô giáo và bạn bè là niềm sung sướng hạnh phúc nhất.
- Không những thế tôi còn chỉ đạo làm tốt công tác phối kết hợp với các thầy, cô
giáo trong nhà trường nhất là các thầy cô giáo có học sinh khuyết tật về những giải
pháp, biện pháp, kinh nghiệm giáo dục học sinh khuyết tật, tạo nên một mặt trận giáo
dục thân thiện gần gũi cởi mở ở trong trường. Bằng việc làm xuất phát từ lòng yêu trẻ
khuyết tật của tôi, đã làm cho các thầy cô giáo trong trường có những cách nhìn nhận
về giáo dục trẻ khuyết tật khác trước rất nhiều. Trong nhà trường như dấy lên một
phong trào dành tình thương cho trẻ khuyết tật.
Như vậy với việc tôi tiến hành đồng bộ các giải pháp, biện pháp giáo dục và
mang lại những dấu hiệu khả thi như vậy, cho thấy vấn đề giáo dục học sinh khuyết
tật chưa phải là vấn đề khó. Việc khó làm ở đây là mỗi người giáo viên chúng ta có
quyết tâm và tâm huyết, nhiệt tình hay không. Hãy trao món quà đó cho trẻ khuyết
tật, bằng cả trái tim của người thầy.
11
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong năm học 2018 - 2019 tôi đã áp dụng “Một số biện pháp giúp giáo viên
giáo dục học sinh khuyết tật hoà nhập ở Trường Tiểu học Quảng Tiến 2 ” như đã
nêu ở trên để giáo dục em Tiến nói riêng và các em học sinh khuyết tật ở trường tôi
quản lí nói chung và thu được kết quả sau :
Đây là bảng đối chiếu kết quả đối với em Tiến:
2.4.1.Trước khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
+Về kiến thức :
- Môn Toán : Em chưa biết viết các số từ 1 đến 10
- Môn Tiếng Việt : Em chưa nhớ hết các chữ cái, chưa biết ghép vần và đọc
được một số tiếng đơn giản. Về chính tả: Chưa biết viết hết chữ cái.
- Các môn học khác : Em học không tập trung, chỉ ngồi chơi không chú ý học.
+Về kĩ năng xã hội :
- Đi học không đều và thường đi học muộn
- Giờ ra chơi chỉ ngồi trong lớp, không cùng chơi với các bạn
- Nói tự do trong giờ học (Nói rất to)
- Cách xưng hô chưa chính xác.
- Rụt rè trước đám đông
- Chưa ý thức được lời nói và hành động của mình.
- Có lúc ra ngoài tự do, đi lại tự do trong trường.
+ Về chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng :
- Vì điều kiện hoàn cảnh, gia đình chưa thực sự quan tâm đến sức khoẻ của em,
chưa đưa em đi khám sức khoẻ định kì (Nhìn em gầy gò, sắc mặt không khoẻ, dấu
hiệu của sự thiếu vận động)
- Việc ăn uống của em chưa được đảm bảo. (Ăn uống không đủ chất)
- Vệ sinh cá nhân chưa sạch sẽ (Em đi học quần áo chưa sạch, đầu tóc chưa gọn gàng).
2.4.2. Sau khi đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
+ Về kiến thức :
- Môn Toán :
Em đã biết đọc số và biết làm các phép tính cộng, trừ, làm các bài toán đơn giản.
- Môn Tiếng Việt :
+ Em đã biết đọc, biết viết tuy chưa nhanh, chưa hoàn toàn đúng các tiếng khó.
+ Trả lời được các câu hỏi dễ, gắn với thực tế cuộc sống đời thường.
- Các môn học khác :
Em rất thích học các môn như : Hát nhạc, Mĩ thuật, Thể dục, Thủ công.
+ Về kĩ năng xã hội :
12
- Em đi học đều, đầy đủ và đúng giờ
- Biết xưng hô chính xác, chan hoà với bạn bè, lễ phép với người hơn tuổi.
- Tham gia đầy đủ và nhiệt tình các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Biết giúp mẹ những công việc ở nhà theo đúng khả năng như quét nhà,...
- Ý thức được lời nói và hành động của mình.
- Mạnh dạn trước đám đông.
+Về chăm sóc sức khoẻ và phục hồi chức năng:
- Sức khoẻ của em tiến triển tốt.
- Tập luyện thể dục thường xuyên.
- Em biết vệ sinh cá nhân sạch sẽ.
- Được gia đình đưa đi khám sức khoẻ định kì
* Đặc biệt là trong đợt kiểm tra chuyên ngành của Phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện kiểm tra trường nhà, sau khi dự giờ thăm lớp, khảo sát chất lượng, các đồng chí
trong đoàn kểm tra đã phát biểu khen ngợi lớp ngoan, học tốt, trang trí lớp đẹp và động
viên em Tiến đã luôn cố gắng và phát huy tinh thần vượt khó vươn lên trong học tập.
Đây là sự cỗ vũ động viên khích lệ bản thân tôi và giáo viên phụ trách lớp 2E và các
lớp có học sinh khuyết tật vững tâm trên con đường giáo dục vì học sinh thân yêu, vì
học sinh khuyết tật xã nhà.
Không những tôi thu được kết quả chỉ đạo công tác giáo dục học sinh khuyết tật
hòa nhập mà các thầy cô giáo trong trường cũng rất vui khi chất lượng học sinh nói
chung đạt chỉ tiêu mà học sinh khuyết tật đã phần nào nắm được kiến thức cơ bản của
từng lớp học.
Đây là bản đối chiếu mà tôi khảo sát ở đối với các em giữa học kì 2 của học
sinh khuyết tật trong trường:
Đầu học kỳ I:
Kết quả GD
TT
Họ và tên
Lớp Mức độ khuyết tật
Toán
Tiếng Việt
1 Nguyễn Minh Tiến
1G Di chứng não
CHT
CHT
2 Nguyễn Minh Nhật
2D Tăng động
CHT
CHT
3 Ngô Minh Tiến
2E Thiểu năng trí tuệ
CHT
CHT
4 Trần Trí Huy
3E KT Vận động
HT
CHT
Giữa học kì 2
13
TT
Họ và tên
Lớp
Mức độ khuyết tật
1
2
3
4
Nguyễn Minh Tiến
Nguyễn Minh Nhật
Ngô Minh Tiến
Trần Trí Huy
1G
2D
2E
3E
Di chứng não
Tăng động
Thiểu năng trí tuệ
KT Vận động
Kết quả GD
Toán
Tiếng Việt
HT
CHT
HT
HT
HT
CHT
HT
HT
Như vậy nhìn bảng đối chiếu ta cũng thấy chất lượng giáo dục học sinh khuyết
tật về kết quả đánh giá đã thay đổi nhưng thực tế dù thay đổi chưa đạt mức chuẩn
kiến thức kĩ năng nhưng với sự tiến bộ đó là cả một kết quả đáng hài lòng, đáng khen
ngợi đối với cô giáo, các bạn học sinh trong lớp, đặc biệt là sự cố gắng của các em
học sinh khuyết tật. Điều này cho ta thấy giáo dục trẻ khuyết tật cần bằng tình thương
và trách nhiệm nhiều hơn. Hãy yêu trẻ như con của mình có như vậy trẻ mới phát
triển và hòa nhập tốt hơn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Năm học 2018 - 2019 đã kết thúc giữa học kì 2 chúng tôi rất vui vì đã chỉ đạo,
hướng dẫn giáo viên dạy lớp 2E nói riêng và các lớp có học sinh khuyết tật nói chung
vừa đảm bảo được chất lượng học sinh của lớp, vừa thấy các em học sinh khuyết tật
thân yêu tiến bộ một cách vượt bậc và hòa nhập tốt.
3.1.Kết luận:
3.1.1.Ý nghĩa:
Với kết quả thu được như trên sáng kiến“ Một số biện pháp giáo dục cho học
sinh khuyết tật hoà nhập ỏ trường Tiểu học Quảng Tiến 2, thành phố Sầm Sơn,
Thanh Hóa” có một ý nghĩa quan trọng trong việc nhìn nhận giáo dục trẻ khuyết tật
hoà nhập hiện nay ở các trường tiểu học.
- Phá tan những nghĩ suy của giáo viên lâu nay về học sinh khuyết tật không
may mắn: Các em không có khả năng học tập, rèn luyện.
- Trên cơ sở định hướng đúng đắn hơn về các giải pháp, biện pháp giáo dục.
- Tạo niềm tin vào giáo dục trẻ khuyết tật
- Phù hợp với xu thế của thời đại và xã hội chủ nghĩa về việc Đảng và Chính
phủ đang có những chủ chương, chính sách chăm lo cho những người không may
mắn và nhất là học sinh khuyết tật, thiệt thòi.
3.1.2. Bài học kinh nghiệm:
14
Trong quá trình giáo dục học sinh khuyết tật hoà nhập, tôi đã có một số kinh
nghiệm muốn chia sẻ và chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ với các thầy cô giáo như sau :
- Để giáo dục được học sinh khuyết tật, trước hết người giáo viên phải phối kết
hợp với gia đình, trung tâm y tế, xã hội để tìm hiểu kỹ về hoàn cảnh gia đinh, tình
trạng bệnh, sức khỏe, đặc điểm tâm sinh lý để có kế hoạch cụ thể sao cho phù hợp với
khả năng của trẻ.
- Giáo viên phải có sự kiên trì, tính nhẫn nại, mềm dẻo, bên cạnh đó cũng phải
nghiêm khắc khi cần thiết.
- Phải luôn khen thưởng, động viên kịp thời khi trẻ có tiến bộ.
- Cần kết hợp với các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã hội để tạo động lực
giúp các em vươn lên chính bản thân mình.
- Giáo viên phải tâm huyết với nghề nghiệp, tận tuỵ với học sinh và có tấm
lòng yêu thương, cảm thông thực sự với trẻ khuyết tật. Điều quan trọng phải có chữ
Tâm của người thầy, phải là người mẹ thứ hai của các em, coi các em như chính con
mình. Người thầy nào thích sự ríu rít trẻ thơ, người thầy đó có năng khiếu hoạt động
sư phạm, còn người thầy nào say mê nó thì sẽ có niềm hạnh phúc nghề nghiệp của
mình. Cần phải yêu mến các em bằng tất cả trái tim và để có thể thương yêu các em
như thế cần phải học tập ở các em cách biểu lộ tình thương đó như thế nào? Mỗi một
ngày đến trường, mỗi một bài học cần phải được những người thầy thể hiện như là
một món quà thương mến tặng các em và phải làm sao để cho học sinh cả lớp nói
chung hay học sinh khuyết tật nói riêng hiểu rằng: Những việc làm của các em đó là
thành công đầu tiên chứ không phải thất bại cay đắng đầu tiên.
3.2. Đề xuất, kiến nghị:
- Là một Phó hiệu trưởng trường Tiểu học đầy nhiệt huyết và trách nhiệm với trẻ
em, tôi mong rằng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật sẽ mở rộng ra hơn nữa, sáng tạo
hơn nữa để tất cả trẻ khuyết tật của chúng ta được học tập, vui chơi và trở thành
người có ích cho xã hội, là chủ nhân tương lai của đất nước. Tôi rất muốn các cấp các
ngành có liên quan, nhất là Phòng Giáo dục và Đào Tạo Thành Phố Sầm Sơn cần có
những cuộc thi vừa phải dành cho trẻ khuyết tật để các em được giao lưu cọ sát và
hơn thế nữa đó là các em tự tin, đem hết tài năng và khẳng định mình đang còn có ích
cho xã hội.
-Tôi mong các gia đình có con em khuyết tật hãy vững tâm quan tâm các con
nhiều hơn nữa, phối hợp chặt chẽ với nhà trường, trung tâm y tế, cộng đồng để cùng
giáo dục, rèn luyện các con trờ thành công dân có ích cho xã hội.
-Tôi mong rằng mỗi giáo viên, các nhà trường, các cơ quan đoàn thể và tất cả
mọi người hãy quan tâm hơn nữa, chia sẻ hơn nữa để xứng đáng với truyền thống và
15
nghĩa cử cao đẹp, phẩm chất của người Việt Nam “ Lá lành đùm lá rách” và
"Thương người như thể thương thân”.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Sầm Sơn, ngày 15 tháng 3 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
kinh nghiệm của mình viết, không
sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
Lê Văn Hưng
MỤC LỤC
16
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2
NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
Thực trạng của vấn đề
Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận: Ý nghĩa, bài học kinh nghiệm
Đè xuất, kiến nghị
TRANG
1
1
2
2
2
3
3
3
5
11
13
13
14
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định số 23/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 22/5/2006 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
2. Chỉ thị 01-2006/CT-TTg ngày 06/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ.
3. Kế hoạch Giáo dục Trẻ khuyết tật hòa nhập.
4. Biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật.
17
5. Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện công tác PCGD ở trường Tiểu học trong
giai đoạn hiện nay.
6. Biện pháp giáo dục trẻ có tình yêu ở lứa tuổi giáo dục phổ thông.
7. Hiệu trưởng quản lý hoạt động giáo dục lao động và hướng nghiệp ở trường
tiểu học, THCS.docx.
8. Tài liệu tự làm đồ dùng dạy học nâng cao chất lượng giáo dục trẻ khuyết tật
hòa nhập.doc.
9. Tâm lí học tiểu học –Nhà xuất bản giáo dục.
18