SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NGA SƠN
----------*****----------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
XÂY DỰNG TẬP THỂ LỚP ĐOÀN KẾT
VỮNG MẠNH
Người thực hiện: Nguyễn Đức Biên
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm lớp
THANH HÓA NĂM 2020
1
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. MỞ ĐẦU
3
1.1.
Lý do chọn đề tài
3
1.2.
Mục đích nghiên cứu
3
1.3.
Đối tượng nghiên cứu
4
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
4
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
2.1.
Cơ sở lý luận của SKKN
4
2.2.
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
4
2.3.
Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
8
2.4.
Kết quả đạt được
16
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
18
3.1.
Kết luận
18
3.2.
Kiến nghị
19
2
1. MỞ ĐẦU
Đơn vị quản lý cơ bản được chia ra trong mỗi trường học là lớp học. Sau khi
các em trúng tuyển vào lớp 10, tùy vào điểm thi đầu vào, nguyện vọng của các
em mà Ban giám hiệu sẽ sắp mỗi em vào một lớp học cụ thể. Trong lớp học đó
bước đầu đã được định hình về đối tượng học sinh, các môn học để thi đại học,
và cũng từ đó Ban giám hiệu sẽ lựa chọn giáo viên phù hợp để làm công tác chủ
nhiệm lớp và giảng dạy môn học của mình tại lớp đó.
Có thể hiểu rằng tập thể lớp học là môi trường mà các em sẽ trực tiếp học
tập, trực tiếp phát huy những điểm mạnh, điểm yếu của mình. Lớp học cũng là
nơi GVCN truyền đạt tới mỗi em học sinh về mục tiêu, chương trình giáo dục
của nhà trường. Nếu coi cả nhà trường là một đại gia đình thì mỗi lớp học sẽ là
một gia đình nhỏ, mà ở đó mỗi GVCN sẽ là người cha, người mẹ dẫn dắt các em
trong ba năm học quan trọng nhất thời học sinh.
Không gian lớp học trong mỗi thời đại có thay đổi rất nhiều, nhưng những
cái cơ bản không thể thay đổi đó là sự gắn bó giữa các thành viên trong lớp. Sự
đoàn kết phấn đấu, thi đua nhau trong học tập, ý thức rèn luyện của các em học
sinh đầu tiên luôn được thể hiện trong mỗi lớp học. Do đó mỗi tập thể lớp học có
vai trò vô cùng quan trọng trong trường học.
1.1. Lý do chọn đề tài
Với vai trò quan trọng trong trường học, việc tiếp nhận và xây dựng tập thế
lớp đoàn kết vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả các trường trung
học phổ thông, vì mỗi lớp học đoàn kết vững mạnh phát triển, ắt trường học sẽ
vững mạnh phát triển. Một tập thể lớp đoàn kết vững mạnh sẽ là động lực thúc
đẩy mọi hoạt động khác phát triển, nhất là hoạt động học tập và rèn luyện hạnh
kiểm. Để có được tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh, vai trò đầu tiên là giáo viên
chủ nhiệm lớp. Sẽ không có tập thể lớp tiên tiến mà ở đó không có GVCN giỏi.
Song song với việc đổi mới phương pháp pháp giảng dạy, thì việc đổi mới
phương pháp chủ nhiệm lớp, xây dựng tập thể lớp cũng luôn được ngành giáo
dục quan tâm.
Là một giáo viên đã và đang trực tiếp giảng dạy môn Toán và tham gia
làm công tác chủ nhiệm lớp, với mong muốn luôn làm tốt công tác chủ nhiệm và
có thêm những kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực này. Cùng với những trăn trở
về thực trạng học sinh hiện nay, tôi xin mạnh dạn đưa ra sáng kiến về: “ Một số
giải pháp xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò, nhiệm vụ của giáo viên
chủ nhiệm lớp đối với công tác giáo dục học sinh để đề ra những giải pháp hợp
lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh và góp phần hoàn
thiện nhân cách và năng lực học tập của học sinh lớp 12H Trường THPT Nga
Sơn. Qua đó rút ra được các bài học và các giải pháp xây dựng tập thể lớp học
3
cho năm tiếp theo, điều chỉnh kịp thời những điều chưa phù hợp trong xây dựng
kế hoạch chủ nhiệm lớp.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động tập thể của học sinh lớp 10,11,12H trường THPT
Nga Sơn trong từng năm học, theo dõi các hoạt động trong tập thể lớp của mỗi
học sinh. Từ đó tổng kết lại sự tiến bộ của mỗi học sinh về năng lực học tập, về ý
thức đạo đức sau mỗi tháng, mỗi học kỳ, mỗi năm học.
Dựa vào kết quả sau mỗi năm làm công tác chủ nhiệm lớp 10,11,12H
trường THPT Nga Sơn vận dụng thực tiễn, kinh nghiệm trong quá trình làm
công tác chủ nhiệm giúp học sinh rèn luyện ý thức tự giác trong học tập rèn
luyện đạo đức, thực hiện điều lệ nhà trường phổ thông và nội quy lớp học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Nghiên cứu lý luận
- Tìm hiểu vai trò, nhiệm vụ của GVCN được quy định trong luật giáo
dục. Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người giáo viên chủ nhiệm
lớp trong công tác giáo dục học sinh.
1.4.2. Phương pháp điều tra
- Điều tra tình hình lớp, trước khi nhận lớp chủ nhiệm ( hồ sơ, điểm thi
tuyển đầu vào của học sinh, học lực, hạnh kiểm, chức vụ cán sự lớp, cán bộ Đội
ở các lớp THCS, hoàn cảnh gia đình, lý lịch học sinh...)
- Trò chuyện, trao đổi với giáo viên bộ môn, với học sinh, với Hội cha mẹ
học sinh, bạn bè.
- Lập mẫu sơ yếu lý lịch để học sinh tự điền theo mẫu.
1.4.3. Phân tích số liệu
Kết quả cụ thể qua từng học kỳ của năm học và qua tổng kết của từng
năm học sẽ có sự thay đổi. Giáo viên chủ nhiệm sẽ tìm ra những hạn chế, và mặt
tích cực để có giải pháp phù hợp hơn cho năm chủ nhiệm tiếp theo.
1.4.4. Tổng kết kinh nghiệm
Tham khảo những báo cáo tổng kết hàng năm của Trường, tham khảo kinh
nghiệm của đồng nghiệp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lý luận của SKKN
Trong mỗi trường THPT mỗi lớp học đều có một giáo viên chủ nhiệm lớp,
giáo viên chủ nhiệm lớp là người được ban giám hiệu phân công ngay từ đầu
năm học, chịu trách nhiệm quản lý công tác giáo dục và đào tạo học sinh ở lớp
mình phụ trách là người chịu toàn bộ trách nhiệm trước ban giám hiệu và nhà
trường về mọi vấn đề thuộc lớp mình. Vai trò và nhiệm vụ của GVCN được quy
4
định rõ trong Điều lệ trường trung học cơ sở, phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học như sau:
Giáo viên chủ nhiệm, ngoài các nhiệm vụ quy định như giáo viên giảng
dạy bộ môn, còn có những nhiệm vụ sau đây:
1) Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội
dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học
sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và
của từng học sinh;
2) Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng;
3) Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh,
các tổ chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn
luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động
các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường;
4) Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị
khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng,
phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại
lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh;
5) Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
(Trích: Nhiệm vụ của giáo viên trường trung học được quy định
tại Điều 31 Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT về Điều lệ trường trung học cơ sở,
phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học)
Trên cơ sở 5 nhiệm vụ được quy định như trên chúng ta thấy rằng:
- Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng, nhà trường và cha mẹ
học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi giáo viên
chủ nhiệm vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá nhân trong lớp
về mọi phương diện: Tư tưởng, học tập, tu dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra
mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng
chương trình và kế hoạch của nhà trường.
- Giáo viên chủ nhiệm là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân cách cho
từng học sinh trong tập thể lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối là nhân vật trung gian thiết lập các mối
quan hệ hai chiều: Nhà trường - tập thể học sinh, tập thể học sinh - xã hội. Như
vậy một mặt giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục
học sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt khác
giáo viên chủ nhiệm phải làm cho quan hệ giữa tập thể học sinh với xã hội trở
nên gắn bó hơn.
5
- Giáo viên chủ nhiệm xây dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành đơn vị
vững mạnh.
- Giáo viên chủ nhiệm tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động giáo dục
của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Giáo viên chủ nhiệm luôn thiết lập và phát triển các mối quan hệ với các
lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên, GVCN cần có những phẩm chất chủ yếu
sau:
- Giáo viên chủ nhiệm phải có nhân cách toàn vẹn thể hiện qua việc nhận
thức, có thái độ và hành vi cá nhân phù hợp với chuẩn mực xã hội và phát huy
truyền thống đạo đức của dân tộc.
- Có lòng nhân ái, nhất là đối với học sinh, người già, trẻ em, người thiệt
thòi bất hạnh, biết lắng nghe, chia sẻ, có kỹ năng thu thập và xử lý thông tin một
cách hài hòa.
- Yêu nghề , say sưa với công tác giáo dục, có tinh thần trách nhiệm và lòng
tự trọng cao, có lương tâm nghề nghiệp vững vàng.
- Khiêm tốn, cầu tiến, tích cực tự hoàn thiện không ngừng.
- Mẫu mực, trung thực trong cuộc sống.
- Có tầm hiểu biết rộng về văn hoá chung.
- Có tri thức sâu sắc, hiện đại về môn học phụ trách ở lớp chủ nhiệm.
- Có khả năng sáng tạo trong công tác giáo dục, dạy học.
- Có khả năng thu thập, tích luỹ tri thức, để ngày càng nâng cao hoặc mở
rộng tầm hiểu biết của mình.
- Có khả năng kích hoạt, gây hào hứng nhằm khơi dậy sự hứng thú và động
cơ học tập và rèn luyện đạo đức ở học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm cần tự trang bị cho mình nhiều thủ thuật lôi cuốn đa
dạng để khi cần có thể tung ra trước học sinh nhằm tạo sự gần gũi, thân mật giữa
thầy và trò, giữa trò với trò.
- Có sự thành thạo trong các kỹ năng sư phạm như:
+ Giao tiếp sư phạm trước đám đông hay đối xử cá biệt.
+ Biểu lộ và kiềm chế các cảm xúc, tình cảm khi cần thiết.
+ Diễn đạt, trình bày các vấn đề có logic, tính truyền cảm có thuyết
phục của một nhà giáo, tri thức khoa học, tri thức xã hội.
+ Ứng xử các tình huống sư phạm.
+ Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo các hoạt động trong công tác chủ
nhiệm.
6
Công tác chủ nhiệm lớp là công tác chiến lược trong nhà trường, có ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình giáo dục và kết quả đào tạo ở nhà trường. Công tác
chủ nhiệm gây nên những ảnh hưởng lớn và lâu dài đối với học sinh, ảnh hưởng
về mọi mặt chứ không chỉ là về học tập hay đạo đức. Công tác chủ nhiệm lớp rất
cần thiết cho lứa tuổi thanh niên THPT với những đặc điểm sinh lý, trình độ hiểu
biết và vốn sống còn hạn chế. Công tác chủ nhiệm lớp sẽ đáp ứng cho nhu cầu
có một chỗ dựa tinh thần của học sinh để các em có thể nhận được sự hỗ trợ,
giúp đỡ hoặc sự hướng dẫn, chỉ dạy, uốn nắn cần thiết kịp thời.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay công tác chủ nhiệm mặc dù được chú ý đến nhưng chưa có
nhiều tài liệu, các lớp bồi dưỡng về phương pháp chủ nhiệm. Công tác chủ
nhiệm lớp mang tính chất kiêm nhiệm. GVCN có một cuốn sổ chủ nhiệm lớp,
nhưng trong đó chủ yếu là các cột, mục thông tin mang tính thống kê, các kỹ
năng, các bài học, các giải pháp và những tình huống điển hình không có. Cuốn
sổ còn mang nhiều tính hình thức. Nhiều giáo viên chỉ chú tâm vào bồi dưỡng
chuyên môn mà xem nhẹ công tác chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm chưa thấy
hết được vị trí và chức năng của mình. Các giáo viên chủ nhiệm chưa có phương
pháp tối ưu, hoặc có dùng một số phương pháp trong công tác chủ nhiệm nhưng
không hiệu quả, rồi chán nản, để lớp vào trạng thái “tự do thái quá” . Trong công
tác chủ nhiệm chỉ chú tâm vào việc trách phạt học sinh khi các em vi phạm nội
quy, hoặc có những lời nói, hành động không đúng. Những tiết sinh hoạt lớp
mang tính chất “tổng hợp các lỗi của học sinh trong tuần”, Yếu tố quan trọng
trong vấn đề xây dựng tập thể lớp thường không được GVCN chú ý ngay từ đầu.
Do vậy một số lớp mặt dù là lớp tiên tiến, được xếp thứ hạng cao trong trường
nhưng chưa hẳn là một tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh, chưa phát huy hết vai
trò của tập thể.
Năm học 2017 -2018 đến năm học 2019 - 2020, tôi được phân công làm
công tác chủ nhiệm các lớp 10H-11H-12H về học lực đầu vào của các em lớp
tôi chủ nhiệm có ít học sinh khá, chỉ có 6/43HS chiếm 13,9%, số học sinh chỉ
khoảng 1/3 lớp, còn lại là học lực trung bình, 1/4 là học sinh thuộc diện chính
sách: hộ nghèo, vùng đặc biệt khó khăn xã bãi ngang ven biển, các em đều là
con em gia đình nông dân, công nhân, một số em cha mẹ đi làm ăn xa. Vì vậy
đối với học sinh còn thiếu sự quan tâm của các bậc phụ huynh.
Thuận lợi
BGH rất quan tâm và chú trọng công tác chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm,
cha mẹ học sinh, giáo viên bộ môn luôn phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo
dục học sinh.
Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất để học sinh được học
hành, vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt động đoàn thể tốt.
Đa phần các em học sinh ngoan, có ý thức trong học tập, một số em có
học lực khá giỏi ở trường THCS.
7
Tỷ lệ học sinh nam và học sinh nữ cân bằng trong lớp học.
Trên 95% học sinh có hạnh kiểm tốt đầu cấp học.
Khó khăn
- Học sinh lớp 10 THPT ý thức tự giác chưa cao. Mới vào trường mới,
bạn mới nên các em còn bỡ ngỡ, nhút nhát trong mọi công việc.
- Sự hiểu biết giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh chưa có, giáo viên
phải mất một khoảng thời gian nhất định để tìm hiểu các em.
- Học sinh có học lực trung bình chiếm đa số, đây là điều trăn trở của giáo
viên chủ nhiệm khi nghĩ tới kết quả, chất lượng giáo dục của mỗi học kỳ và năm
học như thế nào.
- Nhiều em có hoàn cảnh khó khăn: thiếu thốn tình cảm và sự quan tâm của
gia đình, thiếu sự quản lý sát sao của gia đình; việc đi lại để liên hệ với cha mẹ
học sinh cũng không thuận lợi, rất nhiều em đã có dấu hiệu nghiện games, cá
biệt có một số học sinh nam tỏ thái độ không chuẩn mực với các bạn bè trong
lớp, trong trường
-Một số em có tư tưởng chưa ổn định, còn muốn chuyển lớp để được gần
bạn gần bè cũ, tạo nên hai phe, nhiều phe khác nhau trong lớp, mà một tập thể
không đoàn kết thì mọi hoạt động không mang lại hiểu quả cao.
Môi trường mới, các em cần sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm để giáo
dục và hướng dẫn cho các em ý thức học tập và rèn luyện sẵn sàng vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, giáo dục cho các em ý thức xây dựng tập thể đoàn kết. Cần
thời gian để giúp các em ở các lớp khác nhau hòa nhập cộng đồng trường học,
tạo sự gắn kết cho một tập thể mới. Để có được những kết quả tốt cho lớp của
mình, tôi cố gắng học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp đi trước và bạn bè ở
trường.
2.3 Các giải pháp được sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Tìm hiểu về lý luận
Muốn làm tốt tốt việc gì trước hết phải biết được vai trò và trách nhiệm
của mình đối với công việc đó. Nên ngay sau khi được nhận công tác chủ nhiệm,
tôi đã tìm hiểu về vai trò, trách nhiệm của người GVCN được quy định trong các
văn bản nhà nước về giáo dục.
2.3.2. Tìm hiểu về đối tượng học sinh
Sau khi nghiên cứu lý thuyết về vai trò và nhiệm vụ của GVCN tôi bắt tay
vào thực tiễn. Việc đầu tiên đó là tìm hiểu về đối tượng học sinh lớp mình, trước
hết là xem kỹ lại học bạ của từng em, điểm thi vào của từng môn thi. Qua đó
nắm bắt được một cách khá chính xác lực học đầu vào của các em. Để tìm hiểu
rõ hơn nữa về đối tượng học sinh của mình tôi còn cho các em hoàn thành một
bản khai theo mẫu: (Mẫu số 1) Qua bản khai này tôi đã nắm bắt một cách cơ bản
về hoàn cảnh gia đình, địa phương học sinh học tập và sinh sống, ngoài ra tôi
8
còn biết được thêm thông tin về người bạn thân của các em (Điều này thường ít
được GVCN quan tâm)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
SƠ YẾU LÝ LỊCH HỌC SINH
Họ tên học sinh:............................................Nam (Nữ).................
Lớp: 10H
Chỗ ở hiện nay: (ghi rõ xóm, thôn, xã.....)……………………………………...…
……………………………………..………………………………………..…….
Họ tên bố:................................................nghề nghiệp:............................................
Họ tên mẹ:..............................................nghề nghiệp:.............................................
Gia đình có mấy anh, chị, em:.................................................................................
Có mấy anh, chị học tại trường nào………………………; lớp nào.......................
Xếp loại ở lớp 9: TBM: ………. Học lực : ..................; hạnh kiểm: ......................
Điểm thi tuyển vào lớp 10: Toán.....điểm; Văn.....điểm; Môn thứ 3:..............điểm
Có trong đội tuyển thi học sinh giỏi THCS: Môn thi:……………Giải:……….…
Chức vụ cán sự lớp ở lớp 9:.......................................
Diện chính sách (hộ nghèo, cận nghèo) ……………… ………
Năng khiếu môn học: TDTT:............; Văn nghệ:......., Các môn văn hóa:.............
Điện thoại liên lạc với gia đình: ĐT nhà:...............hoặc cha (mẹ):.........................
Danh sách một số người bạn đang học cùng trường:1. ...........................Lớp …
2. ............................Lớp …
3. ............................Lớp …
4..............................Lớp ….
2.3.2. Tổng hợp lại mẫu 2 rồi căn cứ vào đó để lập kề hoạch công tác chủ
nhiệm lớp năm 2017-2018
Sau khi có đầy đủ thông tin của học sinh trong mẫu 1, GVCN tổng hợp
vào bảng mẫu số 2 (Bảng mẫu số 2: Tổng hợp kết quả đầu vào HS lớp 10)
Stt
Họ tên
TBM/Học lực
Điểm 3 môn thi
Hạnh kiểm
Ghi chú
1
Lê Thị Ánh
6,7/ khá
18,5
Tốt
Cận nghèo
2
………….
…………..
9
3
4
5
Từ bảng tổng hợp trên GVCN có căn cứ để lên kế hoạch chủ nhiệm cho
năm học. Trong kế hoạch chủ nhiệm sẽ có đầy đủ các thông tin đầu vào và chỉ
tiêu phấn đấu của từng tháng, từng học kỳ và năm học. Kế hoạch chủ nhiệm
đóng vai trò “là linh hồn” trong việc hình thành tập thể lớp. Vì một kế hoạch cụ
thể, chi tiết sẽ cho ta hình dung tập thể lớp chúng ta đầu vào thế nào, trong quá
trình học tập rèn luyện ra sao và kết quả đạt được thế nào.
2.3.4 . Các giải pháp cụ thể xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vũng mạnh
Để xây dựng một tập thể đoàn kết, vững mạnh tôi đã tiến hành như sau:
1. Xây dựng đội ngũ ban cán sự lớp vững mạnh
Ngay buổi sinh hoạt đầu tiên của lớp tôi đã định hướng cho lớp sẽ xây
dựng và phát triển như thế nào, mỗi học sinh trong lớp sẽ được phát huy năng
lực ra sao. Dựa vào bảng số liệu thu thập được theo mẫu số 1, tôi cũng có những
nhận xét về một số cá nhân xuất sắc để tập thể lựa chọn bầu vào đội ngũ cán bộ
lớp. Và GVCN cũng quán triệt trước lớp về một số tiêu chí cụ thể lựa chọn cán
bộ lớp. Sau đó cho các em suy nghĩ lựa chọn trong 1tuần, tuần học tiếp theo sẽ
họp và bầu chính thức, ổn định ngay từ đầu năm học.
Những em được chọn làm lớp trưởng thục sự phải là những học sinh học
khá trở lên, có ý thức trách nhiệm cao, có năng lực tổ chức và có khả năng vận
động tốt. Lớp trưởng được xem như con chim đầu đàn, tổ chức, động viên, lôi
kéo các thành viên khác trong lớp thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục đặt ra.
Cần bồi dưỡng năng lực tự quản cho học sinh, phải có sự hướng dẫn, giúp
đở của GVCN để các em biết cách giải quyết những công việc tự quản từ đơn
giản đến phức tạp. Đề cao năng lực của lớp trưởng và ban cán sự lớp, tin tưởng
vào khả năng hoạt động của các em. Nếu không, sẽ làm cho các em bị động,
lúng túng trong công việc.
2. Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp
Để các em phát huy hết năng lực của mỗi học sinh trên từng cương vị thì
GVCN cần có sự phân công rõ ràng nhiệm vụ cho từng chức danh.
Nhiệm vụ của lớp trưởng
- Lớp trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ các hoạt động của lớp.
- Tổ chức lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập và rèn luyện.
- Theo dõi đôn đốc các thành viên trong lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm túc quy
chế, quy định của nhà trường.
- Chủ trì các buổi sinh hoạt lớp, đánh giá và phổ biến các hoạt động giáo dục.
Cùng GVCN lớp xếp loại hạnh kiểm của các bạn theo tháng, theo học kỳ.
Nhiệm vụ của bí thư chi Đoàn
- Nắm bắt số lượng đoàn viên trong lớp, tham gia các buổi họp do Đoàn trường
tổ chức để triển khai, đôn đốc các đoàn viên trong chi đoàn hoàn thành tốt.
10
- Phát huy tính tiên phong của đoàn viên trong công tác xây dựng tập thể lớp,
cùng lớp trưởng lập kế hoạch, lên phương án tổ chức các kỳ đại hội chi đoàn.
- Chịu trách nhiệm nhận xét và đánh giá đoàn viên trong chi đoàn
- Chịu trách nhiệm tổ chức đại hội chi đoàn theo hướng dẫn của Đoàn trường.
Nhiệm vụ của lớp phó học tập
- Phụ trách quản lý nhiệm vụ học tập của lớp.
- Theo dõi và chỉ đạo cán sự bộ môn hoạt động trong các buổi sinh hoạt 15 phút
đầu giờ.
- Điểm danh, ghi sổ đầu bài đầy đủ, rõ ràng.
- Cùng với lớp trưởng xếp thi đua khen thưởng theo tháng.
Nhiệm vụ của lớp phó lao động
- Theo dõi, quản lý công việc lao động của lớp.
- Nhận nhiệm vụ, phổ biến kế hoạch lao động và phân công lao động cho từng
thành viên.
- Cùng lớp trưởng, bí thư chi đoàn trang trí lớp học.
Nhiệm vụ của lớp phó văn thể mỹ
- Phụ trách công tác văn nghệ, thể dục thể thao của lớp.
- Có kế hoạch cụ thể trong mỗi đợt nhà trường phát động các phong trào văn
hóa, văn nghệ, thể dục thể thao.
- Cùng lớp trưởng, lớp phó lao động trang trí lớp học.
- Phụ trách thu chi quỹ lớp và các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Các tổ trưởng
- Có trách nhiệm quản lý theo dõi các thành viên trong tổ của mình.
- Phân công, theo dõi trực nhật của tổ.
- Nhận nhiệm vụ, triển khai nhiệm vụ cho các thành viên trong tổ khi tiết học có
các hoạt động nhóm. (Nếu không có sự phân công khác của GVBM)
Mỗi thành viên trong ban cán sự lớp đều phải có một cuốn sổ ghi chép cẩn
thận các hoạt động do mình phụ trách. Cuối tuần GVCN có kiểm tra, theo dõi,
đánh giá.
3. Công tác tổ chức sinh hoạt lớp
Theo cách tổ chức giờ sinh hoạt lớp truyền thống: Đến giờ sinh hoạt lớp
GVCN sẽ lên lớp, yêu cầu cán bộ tổng hợp lại tình hình lớp học trong tuần, sau
đó triển khai kế hoạch tuần tiếp theo. Cách sinh hoạt lớp thế này rất căng thẳng
cho học sinh, nhất là nhóm học sinh hay vi phạm, nhóm học sinh bị điểm kém.
Thay đổi cách quản lý chủ nhiệm trọng tâm phải ở việc tổ chức việc sinh hoạt
lớp. Chúng ta phải tạo được giờ sinh hoạt lớp như là một giờ học, chứ không
phải làm theo kiểu “Quan tòa xử án”. Trong những năm học vừa qua, tôi cũng đã
cố gắng tổ chức các tiết sinh hoạt lớp theo những chủ đề của tháng, hoặc theo
các chủ đề “nóng” mà nhà trường, xã hội quan tâm.
Các chủ đề trong các tiết sinh hoạt lớp được lựa chọn theo các tiêu chí
sau:
- Chủ đề của tháng: Đây là chủ đề xuyên suốt năm học chúng ta luôn thực hiện
một cách rất hiệu quả. Các chủ đề này được nhà trường triển khai trong buổi
chào cờ đầu tuần của đầu tháng học.
11
- Chủ đề về các hiện tượng “nóng” trong xã hội: Chủ đề này phụ thuộc vào
yếu tố ngoại cảnh, chủ đề này phát sinh tùy theo năm học. Đối tượng học sinh rất
dễ bị cuốn vào các chủ đề xã hội mà liên quan trực tiếp đến lứa tuổi các em. Vì
thế khi có vấn đề này GVCN cần tìm hiểu kỹ, sau đó có kế hoạch cụ thể để trao
đổi vấn đề này cùng các em.
Với cách sinh hoạt chủ đề theo tháng tôi đã làm như sau:
Tháng 9: Sinh hoạt theo các chủ đề về Khai giảng năm học mới, An toàn giao
thông.
Chủ đề: Khai giảng năm học mới trước hết GVCN sẽ cho học sinh kể về
những lần khai giảng năm học mà em nhớ nhất. Học sinh sẽ kể những câu
chuyện về những lần khai trường của mình, mỗi học sinh sẽ có những kỷ niệm,
cách nhìn về ngày khai trường khác nhau. Nhưng điều thu được đó là việc được
đến trường trong tâm trí của các em thật vui, nhiều kỷ niệm. Cuối buổi sinh hoạt
giáo viên sẽ chốt lại và nêu lên tầm quan trọng của việc được đi học, được đến
trường mỗi ngày.
Chủ đề: An toàn giao thông giáo viên sẽ cung cấp thông tin cho học sinh
về tình hình giao thông nói chung của cả nước. Sau đó cho học sinh liên hệ với
địa phương mình sinh sống, xem hiện tượng đó có xảy ra không. Từ những câu
chuyện cụ thể, tình huống cụ thể các em nêu ra sẽ là những bài học để các em
tham gia giao thông một cách ý thức và an toàn.
Tháng 10: Sinh hoạt theo chủ đề gia đình, về mẹ.
Cứ tuần tự như vậy tôi cho học sinh sinh hoạt theo chủ đề: Tôn sư trọng
đạo vào tháng 11; Anh bộ đội trong mắt em vào tháng 12: Tháng 1,2 các em sinh
hoạt về chủ đề ngày tết quê hương; Tháng 3, 4 các em sinh hoạt về chủ đề giới
tính và tình yêu tuổi học trò; Tháng 5, sinh hoạt về chủ đề Bác hồ và nghề
nghiệp. Trong suốt năm học các nội dung được GVCN định hướng và giao cho
lớp vào đầu năm. Các tổ sẽ cùng bàn và chọn chủ đề để tổ mình thực hiện.
GVCN sẽ là người hướng dẫn và tổng kết. Mỗi đề tài mỗi tổ truyền đạt thông
điệp của mình không quá 15 phút, sau đó cho các tổ thảo luận. Khi thay đổi sinh
hoạt lớp theo chiều hướng này tôi nhận thấy có hiệu quả rất tốt trong giáo dục
đạo đức.
Với sinh hoạt theo chủ đề nóng trong xã hội tôi đã thực hiện được các chủ
đề về: Bạo lực học đường (Sau khi có clip về bạo lực học đường của học sinh
trong trường); Chủ đề về sự chia sẻ (Sau đợt mưa lũ); Chủ đề về ý thức cộng
đồng (Khi Việt Nam chúng ta bắt tay vào phòng chống covid-19). Các chủ đề
này các em đã tham gia rất tốt và đưa ra được nhiều thông điệp đẹp trong lớp
học, trường học. Qua những buổi sinh hoạt này các em cảm thấy tự tin hơn, sống
có trách nhiệm hơn với tập thể, với cộng đồng.
4. Công tác theo dõi, kiểm tra đánh giá
Vai trò của GVCN là người hướng dẫn chứ không làm thay công việc tự
quản của học sinh, nhưng không phải thế mà bỏ mặc các em. Trong suốt quá
trình chủ nhiệm công tác kiểm tra đánh giá luôn được tôi làm thường xuyên.
Có rất nhiều cách theo dõi hoạt động tự quản của học sinh. Đôi khi cần có sự
kiểm tra trực tiếp các hoạt động trên lớp nhưng đôi khi chỉ cần kiểm tra gián tiếp
qua sổ ghi đầu bài, sổ ghi chép của lớp trưởng, qua giáo viên bộ môn trực tiếp
12
giảng dạy.... Một trong những lợi thế hơn cả là nhà trường đã trang bị hệ thống
Camera cho tất cả các lớp, đó cũng là một kênh theo dõi hiệu quả của GVCN
của chúng tôi.
5. Phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong viêc giáo dục học sinh
+ Đối với nhà trường
Xác định được vị trí vai trò quan trọng của GVCN trong việc giáo dục
học sịnh. Năm học 2019-2020 trường THPT Nga Sơn đã tổ chức hội thảo “Đổi
mới công tác chủ nhiệm”. Hội thảo đã mang lại nhiều kiến thức, kỹ năng cho
GVCN. Qua hội thảo làm cho mỗi GVCN có cái nhìn mói về công tác chủ
nhiệm lớp, công tác sinh hoạt lớp, công tác tổ chức họp phụ huynh, các kỹ năng
về xử lý tình huống sư phạm và giao tiếp với phụ huynh và học sinh. Qua hội
thảo làm cho GVCN tự tin hơn, thấy được sự quan tâm sát sao, sự chăm lo của
nhà trường đối với công tác chủ nhiệm lớp và xây dựng tập thể lớp.
+ Đối với gia đình học sinh
GVCN thu nhận những ý kiến, tâm tư nguyện vọng của phụ huynh rồi phản
ánh lại cho nhà trường qua đó gắn kết được trách nhiệm giữa nhà trường và gia
đình trong việc giáo dục học sinh.
GVCN cần có mối quan hệ gần gũi với phụ huynh học sinh. Để làm tốt việc
này tôi đã có địa chỉ, số điện thoại của cả bố và mẹ của từng học sinh trong lớp.
Khi cần thiết tôi mạnh dạn trao đổi, thông báo với phụ huynh những kết quả học
tập và rèn luyện của học sinh trong từng giai đoạn. Từ việc làm đó tôi cũng đã
nhận được những phản hồi cụ thể của phụ huynh về học sinh như: tính tình, thói
quen sinh hoạt tại nhà, những câu chuyện về thầy cô, bạn bè mà các em về kể
cho bố mẹ. Qua đó tôi hiểu rõ được học sinh và phụ huynh tin tưởng vào GVCN
hơn trong việc giáo dục con em mình.
GVCN thông qua cha mẹ học sinh để nắm được những tâm tư nguyện vọng
của học sinh. Có những vấn đề mà trên lớp học sinh không dám nói với GVCN
hoặc giáo viên bộ môn nhưng các em có thể trao đổi trực tiếp với cha mẹ của
mình, qua đó GVCN tiếp thu có chọn lọc và chuyển tiếp nguyện vọng của học
sinh đến với giáo viên bộ môn, với nhà trường nhằm có giải pháp hợp lý...Mặt
khác GVCN của thông qua giáo viên bộ môn để nắm được tình hình học sinh lớp
mình như thái độ học tập, ý thức tổ chức kỷ luật, học lực của từng học sinh...từ
đó GVCN có sự nhìn nhận và đánh giá khách quan về chất lượng giáo dục của
từng học sinh và có biện pháp giáo dục phù hợp.
Tất cả những việc đó tạo không ít áp lực lên cả phụ huynh và GVCN, nên
GVCN phải có cách truyền đạt thông tin đối với cả phụ huynh và học sinh một
cách hài hòa. Một trong những điểm cần thay đổi lớn nhất là công tác tổ chức
họp phụ huynh. Trong những năm qua tôi luôn cố ngắng thay đổi cách tổ chức
họp phụ huynh. Mỗi buổi họp phụ huynh là những buổi để phụ huynh chia sẻ,
GVCN là người lắng nghe, những thông tin về học sinh được đưa đến cho phụ
huynh một cách nhẹ nhàng tích cực. Không biến những buổi họp thành những
buổi tổng kết lỗi lầm của các em. Trong quá trình trao đổi với phụ huynh GVCN
luôn phải giữ được tâm thế hài hòa trong mọi lĩnh vực. Truyền tải được mong
ước của học sinh, của nhà trường, của giáo viên đối với từng học sinh, và cũng
nắm bắt được nguyện vọng, kỳ vọng của gia đình đối với mỗi học sinh.
13
6. Phối hợp giữa công tác chủ nhiệm với đoàn trường
Hoạt động Đoàn trong trường học không chỉ góp phần nâng cao phẩm chất
chính trị, lý tưởng sống cho tuổi trẻ mà còn góp phần cùng nhà trường thục hiện
tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Hoạt động Đoàn trong trường học là sân chơi
bổ ích cho tuổi trẻ, qua đó phát huy được tính năng động sáng tạo của học sinh
và giúp cho học sinh hình thành những kỹ năng cần thiết. Không những thế, hoạt
động Đoàn trong trường học tạo nên môi trường thi đua lành mạnh giữa các cá
nhân và tập thể góp phần làm cho chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao.
Để có sự phối hợp tốt với hoạt động của Đoàn trường mang lại hiệu quả
giáo dục cao cho lớp tôi đã chủ động:
- Tìm hiểu cách thức, nội dung, chương trình... hoạt động của tổ chức Đoàn
trong trường học.
- Tìm hiểu được các quy định, cách thức đánh giá, biểu điểm thi đua....để kịp
thời phổ biến và tổ chức cho học sinh thực hiện.
- Khi cần thiết tôi đã trao đổi, góp ý cho Đoàn trường về những chủ trương, việc
làm chưa hợp lý mang lại sự đồng thuận cao trong học sinh và giáo viên.
- Thông qua Đoàn trường tôi đã nắm bắt được học sinh và phong trào thi đua
của lớp mình. Có khi cần trao đổi trực tiếp với Bí thư Đoàn về những trường hợp
học sinh vi phạm để có sự cộng tác, thống nhất trong cách giải quyết.
- Đối với Bí thư chi đoàn lớp mình tôi luôn dành thời gian để nắm được các hoạt
động của chi đoàn, kết quả thi đua về nề nếp hằng ngày, từ đó có kế hoạch phù
hợp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tự quản của lớp.
- Tích cực tham gia các hội nghị do Đoàn trường tổ chức, các hoạt động ngoài
giờ lên lớp, hoạt động văn nghệ thể thao, hoạt động tình nguyện....
7. Giáo dục học sinh cá biệt
Đây là nhóm học sinh mà bất kỳ GVCN nào cũng không muốn trong lớp
học, nhưng nhóm học sinh này luôn mang lại nhiều kỹ năng và kỷ niệm nhất
trong mỗi lớp, mỗi khóa chủ nhiệm.
Có nhiều quan điểm khác nhau khi nói về học sinh được coi là cá biệt. Tuy
nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng học sinh cá biệt là những học sinh có sự
bất thường về đặc điểm tính cách, động cơ học tập, thường vi phạm nội quy một
cách có tính hệ thống...
Thực tế ở tập thể nào cũng có học sinh cá biệt. Tuy số học sinh này không
nhiều nhưng đây là lực cản lớn nhất cho phong trào thi đua của lớp và gây khó
khăn cho công tác chủ nhiệm.
Giáo dục một học sinh cá biệt trở thành một học sinh ngoan, một học trò giỏi
cần có sự tác động của nhiều phía nhưng quan trọng nhất là sự tác động của giáo
viên chủ nhiệm. Đối với nhóm học sinh này tôi đã có những giải pháp rất cụ thể
cho từng giai đoạn.
- Tìm hiểu về học sinh cá biệt, như hoàn cảnh gia đình, quan hệ bạn bè, sở thích
cá nhân, tìm hiểu về quá khứ của học sinh đó, tìm hiểu nguyên nhân làm cho
học sinh đó trở thành cá biệt. Sự tìm hiểu này có thể thông qua lý lịch học sinh,
qua gia đình, bạn bè trong lớp hoặc giáo viên chủ nhiệm cũ.
- Tôi luôn sử dụng biện pháp trao đổi riêng với học sinh cá biệt về những khuyết
điểm mà học sinh đã gây nên. Thông thường học sinh cá biệt không nhận thức
14
được về việc làm sai trái của mình và hay đưa ra những lý lẽ để biện minh. Khi
đó phải phân tích cho học sinh thấy được những điều sai trái đó một cách khách
quan chứ không được áp đặt hay đe dọa. Sự trao đổi này diễn ra một cách dân
chủ, trong bầu không khí nhẹ nhàng, cởi mở. Có thể thay sự phân tích này bằng
những câu chuyện cụ thể.
- Bằng sự thân thiện, gần gũi, thái độ quan tâm của GVCN sẽ là động lực lớn
cho học sinh cá biệt lấy lại niềm tin.
- Tôi luôn có phương án vận động học sinh trong lớp giúp đỡ những học sinh cá
biệt về mọi mặt, như tạo sự bình đẳng không phân biệt đối xử, tình tương thân
tương ái trong cuộc sống, trao đổi kiến thức trong học tập...Tạo dư luận tập thể
tốt để cảm hóa học sinh cá biệt trở thành thành viên tốt của lớp. Tạo điều kiện
cho học sinh cá biệt tham gia vào các hoạt động tập thể nhằm xóa đi những mặc
cảm cá nhân và giúp cho học sinh cá biệt thể hiện được những tài năng của mình
để càng làm tăng thêm niềm tin và uy tín trước tập thể.
Cần nhận thức rõ việc giáo dục một học sinh cá biệt là cả một quá trình chứ
không phải ngày một, ngày hai mà được. Vì vậy GVCN không được phép chủ
quan, nóng vội.
8. Công tác đánh giá xếp loại học sinh
Đánh giá học sinh là một khâu rất quan trọng trong quá trình giáo dục, vì đó
là kết quả của một quá trình phấn đấu rèn luyện của học sinh. Nếu đánh giá kết
quả rèn luyện của học sinh chính xác, công bằng, khách quan thì có tác dụng
động viên sự phấn đấu vươn lên của các em và thúc đẩy phong trào phát triển
còn không thì nó sẽ làm cho học sinh hoang mang, suy giảm động cơ phấn đấu
và kìm hãm phong trào thi đua.
Để đánh giá kết quả rèn luyện về mặt hạnh kiểm của học sinh thì GVCN cần
làm tốt các khâu:
- Có sự theo dõi chặt chẽ về kết quả các mặt hoạt động của học sinh. Sự theo
dõi này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Kết quả theo dõi phải được ghi chép cẩn
thận trong sổ chủ nhiệm để làm cơ sở đánh giá.
- Đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh phải được thực hiện thường xuyên
trong tuần, trong tháng và trong một học kỳ. Sự đánh giá phải thực sự công
khai, dân chủ nhằm tạo ra sự thi đua lành mạnh giữa các học sinh trong lớp.
GVCN cần có sự khen ngợi, biểu dương những học sinh có thành tích tốt để kích
thích sự hứng thú phấn đấu. Đối với những học sinh bị khuyết điểm thì GVCN
cần phải phê bình đúng mức để cho học sinh nhận thấy khuyết điểm của mình và
tạo cơ hội cho các em sửa chữa khuyết điểm. Không để cho học sinh bị khuyết
điểm kéo dài.
- Sự đánh giá phải được sự phối hợp tốt giữa GVCN với các lực lượng giáo dục
trong nhà trường như: BGH, Bí thư Đoàn trường, giáo viên bộ môn.
- Phải xây dựng một tiêu chí đánh giá hạnh kiểm của học sinh một cách rõ ràng,
cụ thể cho lớp mình phụ trách. Tiêu chí này dựa trên các công văn, quy định của
nghành giáo dục, nội quy, quy định của trường, tiêu chí này được thông qua
trước lớp và giao cho lớp trưởng, lớp phó học tập theo dõi để xếp loại theo tuần,
theo tháng, GVCN là người kiểm tra, tổng hợp.
15
2.4. Kết quả đạt được
Sau khi thực hiện những biện pháp áp dụng thực tiễn trong công tác chủ
nhiệm ở lớp đã đem lại những kết quả như sau:
2.4.1. Kết quả của việc tìm hiểu lý lịch học sinh
Việc tìm hiểu lí lịch, hồ sơ, học sinh đã giúp giáo viên chủ nhiệm hiểu
về học sinh của lớp mình nhiều hơn, biết được hoàn cảnh gia đình, môi trường
sống, mối quan hệ của các bạn trong lớp, trong trường. Qua đó có những việc tôi
đã nắt bắt được thông qua bạn của học sinh. Khi nắm bắt chi tiết được thông tin
về học sinh giúp tôi dễ dàng hơn trong lập kế hoạch chủ nhiệm, cơ cấu ban cán
sự lớp và lập sơ đồ lớp học. Khi cần thiết có thể tham mưu với giáo viên bộ môn,
với đoàn thể về học lực hay ý thức tự giác rèn luyện của học sinh.
Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng với từng chức danh cho ban cán sự lớp,
tôi thấy đem lại hiệu rõ trong việc quản lý nề nếp, tạo khả năng nói trước đám
đông, tự tin, dám nói, chịu trách nhiệm với việc được giao, và tự khẳng định
mình trước tập thể.
Việc lập sơ đồ lớp học, giúp giáo viên bộ môn dễ quản lí, học sinh có thể
giúp đỡ nhau học tốt hơn. Việc này cũng đem lại hiệu quả cao trong việc tổ chức
học nhóm của các môn học khác nhau. (Nhất là môn tiếng anh, khi yêu cầu hoạt
động nhóm rất cao) Việc lập kế hoạch cụ thể giúp tôi làm việc đúng hướng, có
mục đích.
2.4.2. Kết quả của việc phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với nhà trường,
giáo viên bộ môn, Đoàn trường và với cha mẹ học sinh
- Với phụ huynh học sinh: Việc thay đổi cách họp phụ huynh, thay đổi
cách giao tiếp với phụ huynh đã làm cho không khí họp phụ huynh của lớp tôi
trong mỗi buổi họp rất nhẹ nhàng, ở đó phụ huynh được nghe, phụ huynh được
nói lên những suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng, được chia sẻ với các phụ huynh
khác về con em mình. Các bậc cha mẹ không mang tâm lý đến lớp để nghe thầy
cô khen học sinh này, chê học sinh kia. Tuy lực học của mỗi em khác nhau, cá
tính của mỗi em khác nhau nhưng trong tập thể lớp GVCN sẽ hòa đồng các bạn
cùng nhau thành một tập thể. Mỗi buổi họp như thế giáo viên cũng thu được rất
nhiều bài học thực tế từ những bậc phụ huynh mà không trong sách vở nào nói
tới.
- Với giáo viên bộ môn: Để duy trì lớp học có ý thức tập thể tốt, sự trao
đổi qua lại giữa GVCN và GVBM phải được thường xuyên. Điều này giúp nhóm
học sinh yếu kém của lớp luôn được quan tâm, sự quan tâm ở mỗi giai đoạn
được GVCN và GVBM thống nhất với nhau để đưa ra giải pháp cụ thể. Điều này
đã giúp nhóm học sinh yếu kém lớp tôi tiến bộ rất nhiều. Hiệu quả trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh yếu kém, học sinh chưa ngoan, loại bỏ được nguy
cơ bỏ học giữa chừng, có những em tưởng chưng như là muốn nghỉ học hẳn. Tôi
đã cảm hoá được các em tiến bộ hơn và không bỏ học giữa chừng. Không có học
sinh nào vi phạm pháp luật.
16
- Đối với Đoàn trường: Phong trào đoàn thể được các em tham gia tích
cực và tiến bộ rất nhanh, năm lớp 10 lớp tham gia hội diễn văn nghệ chào mừng
ngày nhà giáo Việt Nam loại ngay vòng sơ loại, thì sang năm lớp 11, lớp 12 tập
thể lớp tham gia đã có giải. Năm lớp 12 còn được chọn tiết mục văn nghệ biểu
diễn vào buổi lễ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11-2019. Các hoạt động
đoàn thể khác cũng được các em tham gia rất nhiệt tình và có trách nhiệm như:
Tham gia phong trào nuôi lợn nhựa để lập quỹ tham gia chương trình “Chung
vui đón tết cùng bạn”, tham gia quyên góp ủng hộ, tham gia mua tăm tre, trồng
hoa trong bồn cây trước cửa lớp.
- Đối với nhà trường: Với sự tiến bộ của lớp, ba năm liên tục tập thể lớp
10H, 11H, 12H luôn được nhà trường nghi nhận và biểu dương trong các đợt thi
đua.
2.4.3. Kết quả cụ thể đạt được của tập thể lớp trong ba năm
Kết quả đạt được của tập thể lớp như sau:
Lớp 10
Lớp
10
Sỹ
số
43
Lớp
10
Hạnh
Kiểm
Đầu Năm
Học Kỳ I
Cuối Năm
Học Lực
Đầu Năm
Sỹ số Học Kỳ I
43
Cuối Năm
Tốt
SL
38
38
40
Khá
%
88
88
93
SL
3
3
3
Giỏi
SL
1
1
1
%
2
2
2
%
7
7
7
Khá
SL
15
18
28
T. Bình
SL
%
2
5
2
5
0
0
Yếu
SL
T. Bình
%
30
36
54
SL
27
24
14
%
68
62
44
%
Yếu
SL
Kém
%
Danh hiệu thi đua Tập thể lớp cuối năm : Đạt tập thể tiên tiến
Lớp 11
Khá
T. Bình
Yếu
Lớp
Hạnh
Tốt
11
Sỹ
số
40
Lớp
11
Kiểm
Đầu Năm
Học Kỳ I
Cuối Năm
Học Lực
Đầu Năm
Sỹ số Học Kỳ I
40
Cuối Năm
SL
38
38
38
%
95
95
95
SL
2
2
2
Giỏi
SL
1
2
2
%
2.5
5
5
%
5
5
5
Khá
SL
28
30
30
SL
%
SL
T. Bình
%
70
75
75
SL
11
8
8
%
27.5
20
20
%
Yếu
SL
Kém
SL %
SL
%
Kém
SL %
Kém
%
SL
%
Danh hiệu thi đua Tập thể lớp cuối năm: Tập thể tiên tiến
17
Lớp 12
Lớp
12
Sỹ
số
44
Lớp
12
Hạnh
Kiểm
Đầu Năm
Học Kỳ I
Cuối Năm
Học Lực
Đầu Năm
Sỹ số Học Kỳ I
44
Cuối Năm
Tốt
SL
42
42
44
%
95.5
95.5
100
Khá
SL
2
2
0
Giỏi
SL
2
2
3
%
4.5
4.5
6.8
%
4.5
4.5
0
Khá
SL
30
38
37
%
68
86
84
T. Bình
SL
%
T. Bình
SL
%
12
27.5
4
9.5
4
9.2
Yếu
%
Kém
SL %
Yếu
SL
%
Kém
SL %
SL
Danh hiệu thi đua Tập thể lớp cuối năm : Tập thể tiên tiến
Về cá nhân: Trong ba năm lớp đạt 7 giải học sinh giỏi cấp tỉnh, trong đó
có một giải nhì, 2 giải ba, 4 giải khuyến khích. Có 4 học sinh đạt học sinh giỏi
cấp trường. Giáo viên chủ nhiệm đạt danh hiệu giáo viên chủ nhiệm giỏi.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Để xây dựng một tập thể học sinh đoàn kết vững mạnh, cần giải quyết tốt
mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cái chung và cái riêng. Một tập thể
học sinh vững mạnh, đoàn kết khi tập thể đó không có cá nhân yếu, không có cá
nhân bị bỏ lại. Tập thể học sinh vững mạnh, đoàn kết là tập thể phải có tinh thần
đoàn kết thực sự trong mọi vấn đề, có tổ chức và kỷ luật nghiêm minh tạo điều
kiện cho mỗi cá nhân tự điều chỉnh thái độ hành vi của mình trên tinh thần “Mình
vì mọi người và mọi người vì mỗi người”. Do đó, mục đích xây dựng tập thể học
sinh đoàn kết vững mạnh là nhằm giáo dục mỗi học sinh thành con ngoan, trò
giỏi, trở thành những công dân có ích cho đất nước.
Nội dung và phương pháp công tác giáo viên chủ nhiệm nhằm xây dựng
tập thể lớp đoàn kết vững mạnh là hết sức phong phú và phức tạp. Đòi hỏi ngoài
những phẩm chất và năng lực của giáo viên bình thường thì, giáo viên chủ nhiệm
lớp còn phải có lòng nhiệt tình, yêu nghề, chấp nhận gian khó và rèn luyện năng
lực hoạt động xã hội, đoàn thể, chính trị,... để làm tốt công tác chủ nhiệm của
mình.
Trong công tác này giáo viên chủ nhiệm không nên nóng vội, áp đặt, mà
cần có lòng kiên nhẫn, có nghệ thuật giao tiếp với học sinh, luôn đặt quyền lợi
của học sinh lên trên hết, đối xử và xếp loại công bằng, công khai, minh bạch,
giành nhiều thời gian và tâm sức thì khi đó công tác chủ nhiệm sẽ không còn khó
khăn phức tạp mà sẽ là niềm vui cho mỗi giáo viên khi đến trường.
Trong thời gian làm chủ nhiệm tôi có những nỗi lo lắng, trăn trở, nhiều
lúc cũng khó khăn, bế tắc. Nhưng đổi lại tôi nhận được rất nhiều tình cảm từ
18
phía học sinh, sự tin yêu của phụ huynh, cho tới giờ lớp tôi chủ nhiệm đã học
xong 12, các em đang chuẩn bị bước vào kỳ thi tốt nghiệp THPT và xét tuyển
vào các trường đại học. Trên con đường mới với những gì đã được học tập và
rèn luyện tôi tin tưởng rằng học sinh sẽ đủ tự tin để bước vào môi trường học tập
mới, cuộc sống mới.
3.2. KIẾN NGHỊ
Để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của giáo viên chủ nhiệm, nhà
trường quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác chủ nhiệm lớp. Trong mỗi năm
học luôn có những hội thảo, những buổi nói chuyện chuyên đề về công tác chủ
nhiệm lớp. Để chúng tôi được lắng nghe, chia sẻ về những kinh nghiệp trong
công tác chủ nhiệm của các đồng nghiệp.
Sở GD-ĐT nên mở lớp bồi dưỡng thêm về nghiệp vụ công tác chủ nhiệm
lớp.
Trên đây là một số biện pháp nhằm xây dựng tập thể lớp đoàn kết vững
mạnh trong công tác chủ nhiệm mà tôi đã vận dụng và có hiệu quả trong công
tác chủ nhiệm 3 năm qua ở lớp 10H, 11H và 12H trường THPT Nga Sơn. Tôi
mạnh dạn viết lên ý kiến về đề tài của mình và đưa ra đây để đồng nghiệp và bạn
đọc cùng tham khảo. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn không thể tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của quý đồng
nghiệp, các bạn đọc để tôi có dịp bổ sung, sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều
kinh nghiệm hay.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 2 tháng 7 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Nguyễn Đức Biên
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn viết sáng kiến kinh nghiệm
2. Nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm trong điều lệ trường THPT và GDTX bộ
Giáo dục và đào tạo.
3. Một số bài viết tham luận về công tác chủ nhiệm được nhà trường tổ
chức trong hội thảo đổi mới công tác chủ nhiệm năm học 2019-2020
4. Hồ sơ lưu trữ của nhà trường về công tác chủ nhiệm.
5. Sổ chủ nhiệm các năm học 2017 - 2018; 2018 - 2019; 2019 - 2020
KÍ HIỆU VIẾT TẮT
1. GD - ĐT : Giáo dục, đào tạo
2. THPT: Trung học phổ thông
3. GVCN: Giáo viên chủ nhiệm
4. GVBM: Giáo viên bộ môn
5. ATGT: An toàn giao thông
6. TNXH: Tệ nạn xã hội
20