Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh lớp 8 trường THCS nam ngạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.55 KB, 22 trang )

1


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Văn bản nghị luận
2.1.1.1. Khái niệm văn bản nghị luận
2.1.1.2. Đặc điểm của văn bản nghị luận
2.1.1.3. Sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản nghị luận
2.1.2. Phương thức biểu cảm trong văn nghị luận
2.1.2.1 Phương thức biểu cảm
2.1.2.2. Vai trò của phương thức biểu cảm trong văn nghị luận
2.1.3. Cách đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận
2.1.3.1. Các từ có khả năng biểu đạt cảm xúc rõ ràng nhất là những từ,
ngữ cảm thán
2.1.3.2. Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với các loại câu nhiều thành
phần có kết cấu cân xứng
2.1.3.3. Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với một số biện pháp tu từ
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3. Một số giải pháp cần thực hiện
2.3.1. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu
cảm vào bài văn nghị luận
2.3.1.1. Bài tập nhóm 1: Nhận biết và phân tích tác dụng của các yếu tố
biểu cảm trong bài văn nghị luận
2.3.1.2. Bài tập nhóm 2: Tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng yếu tố


biểu cảm
2.3.1.3. Bài tập nhóm 3: Bài tập phát hiện và chữa lỗi về kĩ năng sử
dụng yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
2.3.2. Tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm trong
văn nghị luận
2.3.2.1. Rèn luyện qua một số bài học trên lớp
2.3.2.2. Rèn luyện qua bài tập về nhà
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NGUỒN DẪN LIỆU

Trang
2
2
3
3
4
4
4
4
4
4
4
5
5
6
6

6
7
7
8
10
10
11
12
15
16
16
16
17
18
18
19
20
20

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Một trong những yêu cầu của việc dạy học hiện nay là đổi mới phương
pháp dạy học. Luật giáo dục 2005 quy định tại điều 5 “Phương pháp giáo dục
phải phát huy tính tích cực chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên” [1]. Chính vì thế, việc học sinh phải chủ động tích cực,
sáng tạo trong học tập luôn được đề cao. Để thực hiện được yêu cầu này, các

em không những được trang bị kiến thức mà còn cần trang bị những kĩ năng
cần thiết, cần được hình thành các năng lực trong suốt quá trình học tập.
Theo tinh thần đổi mới, hiện nay, các môn học đã tăng cường những nội
dung dạy học có tính thực hành, tăng cường những hoạt động dạy học có tính
ứng dụng, nhằm rèn luyện các kĩ năng, hình thành và phát triển những năng
lực cần thiết cho học sinh. Môn Ngữ văn là một trong những môn học đã và
đang đổi mới theo tinh thần này.
Dạy học Làm văn cấp THCS (một trong ba phân môn của môn Ngữ văn)
nói chung và dạy học Làm văn nghị luận nói riêng, bản chất là dạy tạo lập
một văn bản hoàn chỉnh, tức là hình thành cho học sinh năng lực tạo ra những
văn bản đạt hiệu quả giao tiếp và thẩm mĩ cao cả ở hai dạng nói và viết. Công
việc này đòi hỏi người giáo viên không chỉ trang bị cho học sinh kiến thức mà
cần rèn luyện cho học sinh những kĩ năng về tạo lập văn bản. Những kĩ năng
thường được rèn luyện cho học sinh trong nhà trường phổ thông khi tạo lập
văn bản nghị luận là: kĩ năng phân tích đề và định hướng; kĩ năng xây dựng
luận điểm và lập chương trình biểu đạt (lập dàn ý); kĩ năng huy động kiến
thức, tập hợp tài liệu; kĩ năng lập luận, trình bày lí lẽ và dẫn chứng; kĩ năng
viết đoạn văn; kĩ năng viết câu; kĩ năng dùng từ…Và đặc biệt còn có thêm
một kĩ năng nữa đó là: Kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt
trong tạo lập văn bản nghị luận . Việc đưa các loại kĩ năng này vào rèn luyện
cho học sinh THCS là phù hợp và rất cần thiết, góp phần rèn luyện cho học
sinh cách diễn đạt phong phú, chính xác và đạt hiệu quả giao tiếp cao.
Văn bản nghị luận sử dụng phương thức biểu đạt chính là nghị luận. Tuy
nhiên, đây là loại văn bản vừa tác động vào lí trí vừa tác động tình cảm nên
không chỉ sử dụng phương thức nghị luận mà còn cần sử dụng kết hợp nhiều
phương thức biểu đạt khác như: Thuyết minh, miêu tả, biểu cảm, tự sự…
Trong đó cần thiết nhất là phương thức biểu cảm vì đây là phương thức nhằm
hỗ trợ cho phương thức nghị luận, tăng cường tính biểu cảm cho văn bản nghị
luận.
Về mặt lý thuyết là vậy. Còn thực tế của việc học văn trong các nhà

trường hiện nay, nhất là ở bậc THCS thì sao? Quả thật là một nan giải vì học
sinh không thích học văn, chưa say mê với môn văn hoặc có chăng chỉ là đối
phó. Đặc biệt trong các giờ dạy Làm văn, qua các bài kiểm tra của học sinh,
tôi nhận thấy rằng kĩ năng tạo lập văn bản, nhất là kĩ năng sử dụng kết hợp
các phương thức biểu đạt trong văn bản nghị luận học sinh gặp nhiều khó
3


khăn. Vì vậy dẫn đến bài viết văn nghị luận của học sinh thường khô khan,
thiếu sức thuyết phục hoặc viết theo văn mẫu.
Xuất phát từ lí do trên tôi đã tìm tòi, suy nghĩ và nghiên cứu áp dụng
kinh nghiệm: Rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận
cho học sinh lớp 8 trường THCS Nam Ngạn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, tôi mong muốn góp một vài kinh nghiệm của bản thân
trong việc rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho
học sinh lớp 8, để từ đó:
- Cung cấp kiến thức cơ bản về đặc điểm và cách tạo lập văn bản nghị
luận.
- Hình thành năng lực tạo lập văn bản nghị luận, kĩ năng đưa yếu tố
biểu cảm vào bài văn nghị luận đạt hiệu quả cao nhất.
- Thông qua việc rèn luyện kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài
văn nghị luận, góp phần hoàn thiện các năng lực cho học sinh. Bởi vì, văn
bản nói chung và văn bản nghị luận nói riêng vừa là phương tiện vừa là sản
phẩm giao tiếp.
Như chúng ta biết, văn bản nghị luận có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc hình thành và phát triển những năng lực cần thiết cho học sinh.
Ngoài những năng lực như: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân thì “ năng lực đọc, viết; năng lực giao
tiếp; năng lực làm chủ ngôn ngữ; năng lực tư duy; năng lực văn hóa và liên

văn hóa” cũng rất cần thiết cho học sinh [2].
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của người học là thực hiện
đúng tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng “ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và Đào
Tạo”. Qua đó, góp phần thực hiện một số mục tiêu:
- Học sinh: Nắm vững và vận dụng được các kiến thức, phát triển được
các năng lực cần có trong bài học.
- Giáo viên:
+ Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân;
+ Trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
+ Đề tài đã được nghiên cứu trong quá trình tham gia giảng dạy môn
Ngữ văn cấp THCS, phân môn Làm văn ở phần văn nghị luận, mà cụ thể nhất
là qua hai tiết giảng dạy theo phân phối chương trình ( Lưu hành nội bộ)
tháng 8 năm 2019. Đó là: Tiết 109 “ Tìm hiểu yếu tố biểu cảm vào bài văn
nghị luận” và tiết 113 “ Luyện tập đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị
luận”. ( SGK Ngữ văn 8, tập 2)
+ Phạm vi thực hiện: Học sinh lớp 8A, 8B năm học 2019 – 2020 của
Trường THCS Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa.
4


1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến bài học.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp vấn đề
- Phương pháp điều tra, khảo sát nắm bắt tình hình thực tế.
- Phương pháp thực nghiệm trong các tiết dạy.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2.1.1. Văn bản nghị luận
2.1.1.1. Khái niệm văn bản nghị luận
Văn bản nghị luận là loại văn bản quan trọng, cần thiết và cũng rất
quen thuộc với chúng ta. Ta có thể gặp văn nghị luận dưới dạng các ý kiến
nêu ra trong cuộc họp, các bài xã luận, bình luận, bài phát biểu ý kiến trên báo
chí…về mọi lĩnh vực, từ đời sống xã hội đến văn học nghệ thuật.
Khái niệm văn bản nghị luận có nhiều cách hiểu. Theo chương trình
SGK của Bộ Giáo dục thì “ Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập
cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Muốn thế, văn
nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục” [3]. Như
vậy, văn nghị luận là loại văn trình bày ý kiến của người viết, thuyết phục
người đọc, người nghe chủ yếu bằng lí lẽ, dẫn chứng và lập luận.
2.1.1.2. Đặc điểm của văn bản nghị luận
Khác với các loại văn bản khác - sản phẩm của tư duy hình tượng thì
văn bản nghị luận – sản phẩm của tư duy lôgic có những đặc điểm riêng .
Theo chương trình SGK của Bộ Giáo dục thì: “ Mỗi bài văn nghị luận
đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận; Luận điểm là ý kiến thể hiện tư
tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới hình thức câu khẳng định (hay
phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán. Luận điểm là linh hồn
của bài viết, nó thống nhất đoạn văn thành một khối. Luận điểm phải đúng
đắn, chân thật, đáp ứng nhu cầu thực tế thì mới có sức thuyết phục; Luận cứ là
lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải chân thật, đúng
đắn, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có sức thuyết phục; Lập luận là
cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí thì bài
văn mới có sức thuyết phục” [4].
Như vậy, luận điểm trong văn nghị luận là hết sức quan trọng nhưng để
bài văn có sức thuyết phục cao thì riêng luận điểm chưa đủ mà còn phải cần
đến vai trò của luận cứ và lập luận. Bên cạnh đó, những yếu tố miêu tả, tự sự,
biểu cảm cũng rất cần được đưa vào, khiến cho bài viết vừa lôgic trong tư duy
vừa có sự sinh động, hấp dẫn của những hình ảnh hình tượng. Bài văn nghị

luận hay là bài văn vừa giàu sức thuyết phục luận lí, vừa giàu hình ảnh. Hình
ảnh làm tăng sức thuyết phục, làm cho chân lí sáng tỏ, thấm thía.
2.1.1.3. Sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản nghị
luận
Như chúng ta đều biết, mỗi kiểu loại văn bản thường sử dụng một
5


phương thức biểu đạt chính, chủ đạo. Ngoài phương thức biểu đạt chính
còn có các phương thức biểu đạt phụ trợ khác. Việc xác định phương thức nào
chủ đạo hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung, mục đích chủ yếu mà người nói,
người viết cần đạt tới. Chính vì vậy, nội dung khác nhau thì cần phương thức
khác nhau để biểu đạt. Có tài liệu thì cho rằng khi muốn thuật lại, kể lại diễn
biến của sự việc nào đó hoặc khắc họa tính cách nhân vật và nêu lên những
nhận thức sâu sắc, mới mẻ về bản chất của con người, cuộc sống thì dùng
phương thức tự sự. Viết về cảnh vật, miêu tả hoàn cảnh tự nhiên và xã hội,
khắc hoạ hình tượng nhân vật thì vận dụng phương thức miêu tả. Bình luận về
người và việc, nêu rõ lí lẽ thì dùng phương thức nghị luận. Giải thích, trình
bày về tính chất, trạng thái, đặc trưng, công dụng, cách dùng của sự vật thì sử
dụng phương thức thuyết minh. Bày tỏ tình cảm thì dùng phương thức biểu
cảm (trữ tình)…[5].
Theo quan điểm nêu trên, văn bản nghị luận có phương thức biểu đạt
chính là nghị luận và các phương thức biểu đạt phụ trợ là tự sự, miêu tả, biểu
cảm và thuyết minh.
Khi sử dụng kết hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm và thuyết
minh trong văn nghị luận cần lưu ý rằng: những yếu tố thuộc các phương thức
biểu đạt này chỉ đóng vai trò phụ trợ, không được tách biệt khỏi quá trình
nghị luận và không được làm mờ nhạt vai trò của nghị luận. Khi kết hợp các
yếu tố tự sự, miêu tả, thuyết minh, đặc biệt là biểu cảm vào bài văn nghị luận
thì nội dung nghị luận trở nên rõ ràng, đáng tin cậy và sắc bén hơn.

2.1.2. Phương thức biểu cảm trong văn nghị luận
2.1.2.1. Phương thức biểu cảm
Theo cuốn tài liệu chủ đề Tự chọn bám sát “ Biểu cảm là một nhu cầu
của con người trong cuộc sống. Bởi vì trong thực tế sống, luôn luôn có những
điều khiến tâm hồn ta rung động (cảm) và ta luôn muốn bộc lộ (biểu) sự rung
động ấy với một hay nhiều người khác” [6]. Như vậy, biểu cảm là một
phương thức được thấy tương đối nhiều, bởi việc bộc lộ những cảm xúc,
những tâm tư, nguyện vọng là một nhu cầu thiết yếu của con người trong cuộc
sống.
Phương thức biểu cảm là việc dùng những từ ngữ thể hiện thái độ, cảm
xúc, tình cảm của người viết về những sự việc được nói đến, những nhân vật
trong tác phẩm hay là cảm xúc của người viết về chính mình. Hiện nay, biểu
cảm được coi là một phương thức biểu đạt, sử dụng khi người viết muốn biểu
hiện trực tiếp hoặc gián tiếp những tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, thái độ, sự
đánh giá của mình với đối tượng được nói tới.
Biểu cảm trực tiếp là cách thức bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ thầm kín
bằng những từ ngữ trực tiếp gợi lên những tình cảm ấy.
Biểu cảm gián tiếp là cách biểu hiện tình cảm thông qua những hình ảnh
miêu tả, những câu chuyện hoặc gợi ra những suy nghĩ liên tưởng (nghĩa là
không gọi thẳng cảm xúc ra).
6


Khi biểu cảm bằng phương tiện ngôn ngữ, tức là biểu cảm bằng văn,
chúng ta cần phải lưu ý rằng không phải tình cảm nào cũng đưa vào văn.
Những tình cảm đưa vào văn phải là tình cảm cao đẹp, nhân ái, cao thượng,
tinh tế.
2.1.2.2. Vai trò của phương thức biểu cảm trong văn nghị luận
Nghị luận và biểu cảm là hai phương thức biểu đạt và là hai kiểu văn bản
có nhiều đặc điểm khác biệt nhau. Biểu cảm thiên về tư duy hình tượng, bộc

lộ cảm xúc và tác động vào tình cảm. Nghị luận thiên về tư duy lôgic, trình
bày lí lẽ, thuyết phục bằng lập luận và tác động vào lí trí. Nhưng thực tế
chúng không hoàn toàn khác biệt nhau mà liên quan đến nhau, hoà hợp với
nhau, bổ trợ cho nhau.
Sử dụng biểu cảm trong văn nghị luận là đưa những yếu tố biểu cảm vào
bài văn nghị luận. Tác dụng của biểu cảm là tác động mạnh mẽ tới tình cảm
của người nghe người đọc. Tác dụng đó thể hiện ở khả năng "gây được hứng
thú hoặc cảm xúc đẹp đẽ, mãnh liệt, sâu lắng", nghĩa là có khả năng nhiều
nhất trong việc làm nên cái hay, tạo nên sự hấp dẫn cho văn bản nghị luận. Do
đó biểu cảm giúp văn nghị luận đạt hiệu quả thuyết phục cao hơn.
Nếu thiếu yếu tố biểu cảm sức thuyết phục của nghị luận nhất định sẽ
giảm đi. Tuy nhiên, không phải cứ biểu cảm, cứ sử dụng bất kì yếu tố biểu
cảm nào cũng làm cho sức thuyết phục của bài nghị luận tăng lên. Vì thế yêu
cầu sử dụng biểu cảm chỉ với vai trò phục vụ cho công việc của nghị luận.
Yếu tố biểu cảm trong một bài văn nghị luận sẽ không được xem là có giá trị
khi nó làm mạch nghị luận bị phá vỡ, đứt đoạn, quẩn quanh. Và người nghị
luận sẽ không thể biểu cảm với ai nếu bản thân không có cảm xúc chân thành.
Do vậy người làm bài nghị luận phải thực sự có tình có tình cảm, cảm xúc đối
với điều mình nói ra.
Tóm lại, biểu cảm không thể thiếu trong văn nghị luận. Biểu cảm góp
phần quan trọng vào thành công của bài nghị luận. Nhờ biểu cảm, bài nghị
luận không chỉ thuyết phục người đọc bằng lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép,
bằng chứng xác thực mà còn thuyết phục người đọc bằng tình cảm, cảm xúc
chân thành tha thiết. Tức là thuyết phục bằng cả trái tim và khối óc.
2.1.3. Cách đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận
Có nhiều cách để đưa yếu tố biểu cảm vào bài nghị luận. Tuy nhiên với
học sinh Trung học Cơ sở, đặc biệt là học sinh lớp 8 thì chỉ cần tập trung vào
các cách chủ yếu sau:
2.1.3.1. Các từ có khả năng biểu đạt cảm xúc rõ ràng nhất là những
từ, ngữ cảm thán

Loại từ có khả năng biểu đạt cảm xúc rõ ràng nhất là những từ, ngữ cảm
thán như: Chao ôi, hỡi ôi, than ôi, biết bao, xiết bao, biết chừng nào... Loại từ
này được sử dụng để bày tỏ trực tiếp cảm xúc của người viết (người nói).
Để tạo ra tính truyền cảm và thu hút sự chú ý của người nghe (người
đọc), chúng ta cũng có thể sử dụng loại từ này để tạo nên các câu cảm thán
hay kết hợp với một nội dung thông báo nào đó trong bài văn nghị luận.
7


Bên cạnh đó, các đại từ nhân xưng trong Tiếng việt cũng có khả năng
bộc lộ thái độ, tình cảm của người nói (người viết) một cách rất mạnh mẽ. Vì
thế, loại từ này cũng có thể sử dụng và phát huy hiệu quả biểu cảm trong bài
văn nghị luận, nhất là nghị luận xã hội.Trong đó, các đại từ ngôi thứ nhất số
nhiều như: Nhân dân ta, đất nước ta, ta, chúng ta, đồng bào... thường biểu thị
tinh thần đoàn kết, thống nhất trong suy nghĩ và hành động. Các đại từ ngôi
thứ hai, thứ ba số ít hoặc số nhiều như: Bọn, bọn bay, chúng, chúng bay, bọn
chúng thường bày tỏ sự căm thù, khinh bỉ, đối nghịch.
Để công khai bày tỏ quan điểm, thái độ của mình, người làm văn nghị
luận cũng có thể sử dụng các từ mang ý nghĩa khẳng định (sự thật là, tin rằng,
chắc chắn rằng, quả quyết rằng..) hay phủ định (không, không chịu, không
được...), các từ biểu thị sự quyết tâm, kiên quyết (nhất định, quyết, phải
được..). Những từ này vừa có khả năng biểu đạt cảm xúc, thái độ mạnh mẽ
vừa làm cho lời văn trở nên đanh thép hơn.
Ngoài ra, trong bài làm văn nghị luận, người viết còn có thể sử dụng
thêm những từ, cụm từ đậm phong cách khẩu ngữ vào câu văn nghị luận
nhằm tạo được sự chú ý cho người đọc.
2.1.3.2. Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với các loại câu nhiều thành
phần có kết cấu cân xứng
Ngoài từ ngữ, sức mạnh biểu cảm trong bài văn nghị luận còn được tạo
nên bởi cách sử dụng và tạo lập câu của người viết. Trong văn nghị luận,

người viết phải cố gắng đi tìm những cách diễn đạt mới mẻ, độc đáo.
Bên cạnh những câu ngắn dùng để nhấn mạnh, người viết có thể sử dụng
những câu dài, nhiều thành phần có kết cấu cân xứng nhằm ra nhịp điệu và
sức lan tỏa mạnh hơn.
Trong một số trường hợp, người viết có thể dùng câu đơn không gắn với
các thành phần phụ hay tách các vế câu ra thành câu độc lập nhằm mục đích
nhấn mạnh một nội dung nào đó. Ngoài ra, người viết văn nghị luận cũng cần
đặt những câu có tính chất hội thoại, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày
nhằm thu hút sự chú ý và hứng thú của người đọc, từ đó góp phần tăng thêm
tính biểu cảm cho lời nói. Để tạo ra tính biểu cảm cho bài văn nghị luận, đôi
khi không cần quá cầu kì trong câu văn nhưng người viết vẫn có thể tạo ra
một bài văn nghị luận chặt chẽ, sâu sắc và truyền cảm.
2.1.3.3. Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với một số biện pháp tu từ
Biểu cảm và tạo hình là hai chức năng chính của các biện pháp tu từ. Bất
cứ biện pháp tu từ nào, ngoài tác dụng gợi hình, còn có tác dụng gợi cảm.
Trong mỗi loại văn bản, biện pháp tu từ được sử dụng với những mục đích
khác nhau. Nếu như trong ngôn ngữ nghệ thuật, việc sử dụng biện pháp tu từ
chỉ cốt yếu tạo ra tính hình tượng thì trong văn bản nghị luận, nó lại được sử
dụng nhằm tăng thêm sức mạnh cho sự đánh giá, bình luận và tăng thêm tính
truyền cảm cho lời văn. Chính vì thế, không một bài văn nghị luận nào, nhất
là các văn bản chính luận lại không sử dụng các biện pháp tu từ.
Một số biện pháp tu từ thường được sử dụng trong bài văn nghị luận
8


nhằm tạo ra hiệu quả biểu cảm:
So sánh trong văn nghị luận chủ yếu làm cho vấn đề nghị luận hiện lên
cụ thể, vừa gần gũi vừa ấn tượng, dễ đi vào lòng người đọc hơn.
Điệp ngữ là sự “lặp đi lặp lại có ý thức những từ, ngữ nhằm mục đích
nhấn mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc

trong lòng người đọc, người nghe... Nhờ điệp ngữ, câu văn mới tăng thêm
tính cân đối, nhịp nhàng, hài hòa, có tác dụng nhấn mạnh một sắc thái ý
nghĩa, tình cảm nào đó, làm nổi bật những từ quan trọng, khiến cho lời nói trở
nên sâu sắc, thấm thía, có sức thuyết phục mạnh. Với khả năng đó, điệp ngữ
được sử dụng nhằm tạo ra được tính truyền cảm cho văn bản nghị luận.
Câu hỏi tu từ là loại câu có hình thức nghi vấn nhưng nội dung của nó đã
bao hàm ý trả lời. Xét về hiệu quả biểu cảm, câu hỏi tu từ dùng để khẳng định
hay phủ định một vấn đề nào đó được đề cập đến trong câu và tăng cường tính
diễn cảm của lời nói.
Ngoài ra, người viết cũng có thể sử dụng thêm nhiều phương tiện và biện
pháp tu từ khác nhằm tăng thêm tính biểu cảm và thuyết phục cho văn bản
nghị luận như phép đối, phép sóng đôi, liệt kê...
Như vậy, biểu cảm thể hiện một cách hết sức đa dạng trong văn nghị
luận. Muốn sử dụng hiệu quả yếu tố này, học sinh không những phải hiểu rõ
về khả năng biểu cảm của các đơn vị ngôn ngữ, các biện pháp tu từ mà còn
phải có một thái độ nghiêm túc, một tình cảm chân thành thiết tha với vấn đề
nghị luận. Sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm nói riêng và các phương thức biểu
đạt nói chung là yêu cầu tất yếu của quá trình tạo lập văn bản nghị luận.
2.2. Thực thạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực tế, chương trình SGK Ngữ văn THCS, nhất là phân môn Tập làm
văn được xây dựng và biên soạn theo nguyên tắc đồng tâm, nâng cao. Trong
những kiểu văn bản học sinh được học thì kiểu văn bản nghị luận chiếm một
dung lượng lớn và được học trong một quá trình lâu dài từ lớp 7 đến lớp 9 với
các nội dung:
- Lớp 7: Đặc điểm và cách tạo lập văn bản nghị luận; luận điểm luận cứ,
phương pháp lập luận; nghị luận giải thích và nghị luận chứng minh. Thực
hành nói viết đoạn, bài nghị luận giải thích hoặc chứng minh.
- Lớp 8: Triển khai luận điểm, luận cứ trong văn nghị luận; các yếu tố
biểu cảm, tự sự, miêu tả trong văn nghị luận. Thực hành nói, viết đoạn bài văn
nghị luận có sử dụng các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả.

- Lớp 9: Nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống, về một vấn
đề tư tưởng, đạo lí, về một tác phẩm truyện (đoạn trích), về một bài thơ (đoạn
thơ); Cách làm bài nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống,về
9


một vấn đề tư tưởng, đạo lí, về một tác phẩm truyện, thơ; Thực hành nói, viết
văn bản nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống, về một vấn đề tư
tưởng, đạo lí, về một tác phẩm truyện, thơ.
Nhìn nhận lại nội dung chương trình SGK Ngữ văn THCS về phần Làm
văn chúng tôi thấy, học sinh được cung cấp tri thức về các kiểu văn bản và
được hình thành các kĩ năng để tạo lập các kiểu văn bản đó. Càng lên cao thì
yêu cầu về tạo lập các kiểu văn bản càng cao. Riêng kiểu văn bản nghị luận
THCS, học sinh được học cả kiến thức lí thuyết và kĩ năng thực hành. Lớp 8,
bước đầu học sinh được rèn luyện kĩ năng đưa các yếu tố biểu cảm, tự sự,
miêu tả vào bài văn nghị luận. Tuy nhiên thời lượng dành cho rèn luyện kĩ
năng không nhiều. Mỗi loại kĩ năng chỉ được luyện tập trong một tiết. Điều đó
dẫn đến những khó khăn không thể tránh khỏi đối với cả người dạy và người
học.
Đối chiếu với chuẩn kiến thức, kĩ năng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành về mức độ cần đạt của học sinh lớp 8 khi học kiểu văn bản nghị luận
(Hình thành kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận / Hiểu yêu cầu và biết cách đưa
các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả vào bài văn nghị luận), tôi thấy nhiệm vụ
và trách nhiệm của giáo viên khi dạy phần làm văn lớp 8 là vô cùng nặng.
Giáo viên cần suy nghĩ lựa chọn và tìm ra phương pháp dạy học thích hợp
nhất mới có thể đáp ứng được yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng nêu trên.
Nguyên tắc dạy học tạo lập văn bản là phải gắn lí thuyết với thực hành.
Do vậy, sau mỗi bài học lí thuyết đều có bài tập thực hành và giờ luyện tập
thực hành. Tuy nhiên, qua tìm hiểu SGK, sách bài tập và một số sách tham
khảo về Ngữ văn 8, chúng tôi cũng nhận thấy rằng bài tập luyện tập thực hành

chưa nhiều, chưa biên soạn thành hệ thống. Riêng đối với bài Luyện tập đưa
yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận (Tiết 113 theo PPCT, Lưu hành nội
bộ, năm 2019, Ngữ văn 8) tôi thấy sách giáo khoa chỉ đưa ra một bài tập
luyện tập. Nếu vậy rất khó giúp học sinh hình thành được kĩ năng. Do đó, để
việc rèn luyện kĩ năng vận dụng tốt cách đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn
nghị luận thì cần xây dựng các bài tập phong phú, hệ thống và cụ thể hơn.
Có một thực tế mà giáo viên nào cũng nhận thấy khi chấm bài văn nghị
luận phần lớn bài làm của các em không có cảm xúc, khô khan. Điều đó phải
chăng do học sinh chưa được rèn nhiều kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài
văn nghị luận. Chính vì vậy mà kết quả học tập chưa cao. Đây là bảng thống
kê kết quả bài viết Tập làm văn số 6 – văn nghị luận ( Tiết 106, 107) và bài
viết Tập làm văn số 7 – văn nghị luận ( Tiết 125, 126) theo PPCT, Lưu hành
nội bộ, năm 2019, Ngữ văn 8) của học sinh khi chưa áp dụng sáng kiến kinh
10


nghiệm.
Bảng 1: Kết quả bài viết Tập làm văn số 6 của học sinh
Điểm
dưới Điểm
Điểm khá
Tổng
trung bình
trung bình
Lớp
HS
Số HS %
Số HS %
Số HS %
8A

39
5
12,8 21
53,8 12
30,8
8B
34
7
20,6 19
55,9 8
23,5
Bảng 2: Kết quả bài viết Tập làm văn số 7 của học sinh
Điểm
dưới Điểm
Điểm khá
Tổng
trung bình
trung bình
Lớp
HS
Số HS %
Số HS %
Số HS %
8A
39
4
10,3 18
46,2 15
38,5
8B

34
6
17,6 18
52,9 10
29,5

Điểm giỏi
Số HS
01
0

%
2,6
0

Điểm giỏi
Số HS
02
0

%
5
0

Qua bảng thống kê kết quả các bài viết văn nghị luận còn thấp , tôi thấy
rằng để nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, giáo viên cần phải tổ chức rèn
luyện tốt kĩ năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt khi tạo lập văn
bản, đặc biệt là kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận.
2.3. Một số giải pháp cần thực hiện
2.3.1. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu

cảm vào bài văn nghị luận
Việc rèn kĩ năng làm văn cho học sinh nói chung và việc rèn kĩ năng đưa
yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh lớp 8 nói riêng luôn đòi
hỏi phải xác định được nội dung luyện tập thực hành, đồng thời phải xác định
được cách thức luyện tập thực hành. Nội dung luyện tập thực hành chính là
hệ thống bài tập. Còn cách thức luyện tập là phương pháp tổ chức cho học
sinh luyện tập của giáo viên.
Để rèn luyện tốt kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho
học sinh lớp 8, vấn đề trọng tâm là phải xây dựng được hệ thống bài tập và
phải sử dụng được hệ thống bài tập đó vào thực tiễn dạy học. Đây là loại kĩ
năng khó, phức tạp nhưng có ý nghĩa quyết định sự thành công của bài văn
nghị luận xét trên quan điểm giao tiếp.
Hệ thống bài tập đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận được tôi xây
dựng thành 3 nhóm chính:
Nhóm 1: Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của các yếu tố biểu cảm
trong văn nghị luận.
Nhóm 2: Bài tập tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm
Nhóm 3: Bài tập phát hiện và chữa lỗi về kĩ năng sử dụng yếu tố biểu
cảm trong văn nghị luận
Trong 3 nhóm bài tập nêu trên, nhóm bài tập thứ 2 là nhóm bài tập cần
11


được tổ chức rèn luyện nhiều và lâu dài, bởi mục tiêu của dạy học làm văn lớp
8 là hình thành năng lực tạo lập văn bản nghị luận cho học sinh. Nhóm bài
tập 1 là cơ sở để thực hiện nhóm bài tập 2 và nhóm bài tập 3 là phương tiện để
củng cố hoàn thiện cho nhóm bài tập 2.
2.3.1.1. Bài tập nhóm 1: Nhận biết và phân tích tác dụng của các yếu
tố biểu cảm trong bài văn nghị luận
Mục đích của bài tập nhóm 1: Giúp học sinh nắm vững đặc trưng cơ

bản của văn bản nghị luận là tác động đến người đọc bằng cả lí trí và tình
cảm; Giúp học sinh xác định được các yếu tố biểu cảm sử dụng trong bài văn
(đoạn văn) nghị luận và phân tích được tác dụng của các yếu tố biểu cảm đó
trong việc nâng cao hiệu quả thuyết phục của văn bản nghị luận
* Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong
đoạn văn nghị luận
Bài tập
"Ngày còn nhỏ, tôi đã được nghe một câu chuyện rất xúc động. Chuyện
kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời
em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi tay ram ráp
nhăn nheo nhưng hiền dịu và ấm áp. Cậu kết luận răng: bà ngoại là người
phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề,
phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi đó
chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có
thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?"
Yêu cầu: Hãy đọc đoạn văn và cho biết cảm xúc của em? Cảm xúc đó
được khơi gợi từ những yếu tố nào trong đoạn văn? Hãy chỉ ra yếu tố đó và
phân tích tác dụng biểu đạt của chúng? Theo em, đoạn văn đó thuộc kiểu văn
bản gì, vì sao?
Định hướng làm bài tập:
Trình bày cảm xúc của mình khi đọc đoạn văn: Cảm xúc ấy là cảm giác
xúc động rưng rưng nước mắt... khi đọc đoạn văn.
Xác định yếu tố biểu cảm: Cảm xúc được gợi lên từ câu chuyện xúc động
về cậu bé nghèo với bài văn tả mẹ. Đó là hình ảnh cậu bé nghèo với tình yêu
thương vô hạn dành cho mẹ (là người bà ngoại của em) mà tác giả đã kể ra
bằng tất cả tình cảm yêu thương, trân trọng, ngưỡng mộ chân thành nhất. Cảm
xúc ấy còn gợi lên từ ý kiến nhận định của tác giả về bài văn lạc đề, phải về
nhà viết lại: Đó mới chính là tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình
yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào,
tình cảm nào thiêng liêng hơn thế? Câu hỏi tu từ khép lại đoạn văn, chứa chất

biết bao tình cảm dâng lên nghẹn ngào! Như vậy, biểu cảm đâu phải là bằng
những từ ngữ câu văn mĩ miều mà biểu cảm phải bằng chính cảm xúc chân
thành của người viết, bằng sự diễn đạt giản dị và chân thật nhất.
Mặc dù đoạn văn chứa đầy tình cảm, nhưng nó vẫn không phải là đoạn
văn bản biểu cảm. Mà nó là một đoạn văn nghị luận. Vì mục đích của đoạn
văn không phải là bộ lộ cảm xúc. Mục đích của đoạn văn là trình bày ý kiến
12


quan điểm về bản chất của thành công. Với tác giả, thành công của cậu học
sinh nghèo ấy, không phải là bài văn viết đúng, được điểm cao, mà là bài văn
chứa đầy tình yêu thương, cất lên từ đáy lòng. Bản chất của thành công là như
vậy, là nói lên được lòng mình một cách chân thành!
* Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong
bài văn nghị luận
Phần bài tập này tôi cho học sinh luyện tập nhận diện yếu tố biểu cảm
ngay trong các văn bản đã học như “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Thuế
máu”- Nguyễn Ái Quốc…. Từ đó giúp học sinh phân tích được tác dụng của
yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận.
Yêu cầu:
Văn bản nghị luận trên có luận điểm là gì? Để tác động mạnh mẽ đến
người đọc, tác giả đã sử dụng phương thức biểu cảm như thế nào? Hãy xác
định vị trí, số lượng các yếu tố biểu cảm được đưa vào bài nghị luận? Và hãy
phân tích tác dụng của những yếu tố biểu cảm đó?
Định hướng làm bài tập:
Xác định luận điểm: Bài viết bàn luận về vấn đề gì?
Xác định các yếu tố biểu cảm có trong văn bản?
Yếu tố biểu cảm thể hiện ở những từ ngữ, câu văn bộc lộ trực tiếp tình
cảm của người viết?
Tác dụng của biểu cảm trong bài nghị luận?

2.3.1.2. Bài tập nhóm 2: Tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng yếu tố
biểu cảm.
Mục đích của bài tập nhóm 2: Khi xây dựng hệ thống bài tập nhóm 2,
tôi hướng tới mục đích: phát huy tính sáng tạo và năng lực hoạt động độc lập
của học sinh trong việc vận dụng tri thức kĩ năng về văn bản nghị luận, về đưa
yếu tố biểu cảm vào bài văn, đoạn văn nghị luận phù hợp mục đích giao tiếp
đặt ra.
Nội dung của bài tập nhóm 2: Dạng bài tập này là những đề tự luận,
không có ngữ liệu, mà chỉ có yêu cầu tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng
các yếu tố biểu cảm
* Tạo lập đoạn văn có sử dụng yếu tố biểu cảm
Bài tập : Hãy viết một đoạn văn nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm để
trình bày luận điểm: "Hạnh phúc biết bao khi ta được sống trong tình mẫu
tử."
Định hướng làm bài tập:
- Nội dung nghị luận là luận điểm đã cho trước: "Hạnh phúc biết bao khi
ta được sống trong tình mẫu tử"
- Hình thức là đoạn văn nghị luận: Giải thích kết hợp chứng minh.
- Các phương thức biểu đạt: Nghị luận và kết hợp biểu cảm.
- Có thể triển khai đoạn văn thành nhiều cách: Diễn dịch, qui nạp, tổng
phân hợp... Học sinh có thể lựa chọn theo khả năng của mình. Sau đây là cách
triển khai đoạn văn diễn dịch, học sinh có thể dùng để tham khảo:
13


+ Nêu luận điểm (hạnh phúc biết bao khi ta được sống trong tình mẫu
tử!)
+ Giải thích về tình mẫu tử: (tình mẫu tử là tình yêu thương chở che,
đùm bọc, vỗ về mà mẹ dành cho con...); Thuyết minh về tình mẫu tử: (Mẹ
dành cho con từ dòng sữa thơm ngọt ngào, nuôi con lớn lên về thể chất, đến

lời ru êm đềm tưới mát tâm hồn con, nuôi dưỡng con lớn lên về tinh thần...)
+ Chứng minh rằng, được sống trong tình mẫu tử là hạnh phúc nhất:
(được sống trong tình mẫu tử là được sống trong sự nâng niu, con vấp ngã có
mẹ hiền đỡ dậy, con có lỗi, được mẹ sẵn sàng dang rộng vòng tay giúp con cơ
hội chuộc lại lỗi lầm...);
+ Biểu cảm: (Ôi! Biết bao yêu thương con nhận từ tay mẹ, biết bao điều
tốt đẹp nhất trong cuộc đời mẹ đã dành cho con...).
* Tạo lập văn bản có sử dụng yếu tố biểu cảm
Bài tập : Hãy làm sáng tỏ tác hại của quay cóp trong thi cử. Trong bài
văn có sử dụng hợp lí các yếu tố biểu cảm.
Định hướng làm bài tập:
* Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về hiện tượng quay cóp
- Bộc lộ thái độ (sử dụng yếu tố biểu cảm): Vấn đề quay cóp trong thi cử
là nỗi nhức nhối và đau lòng không của riêng ai!
* Thân bài:
- Nêu thực trạng quay cóp (có sử dụng yếu tố biểu cảm)
+ Chúng ta không ai không biết đến hiện tượng quay cóp, đó là hiện
tượng dối trá trong kiểm tra, thi cử. Quay cóp đồng nghĩa với nhìn và chép bài
của người khác trong giờ kiểm tra dưới mọi hình thức: giở vở, ghi tài liệu lên
bàn, lên giấy đủ kích cỡ.
+ Dấu tài liệu ở khắp mọi nơi: trong hộc bàn, hộp bút, dán lên đùi, bên
cánh tay, dưới giày, trong áo, thậm chí là trong… quần, không những thế,
“phe lười học” còn ghi cả tài liệu lên chính làn da mềm mại của mình. Thật
đáng kinh ngạc quá!
+ Hiện nay, lại có cả phương tiện hiện đại “hỗ trợ” cho việc quay cóp, đó
là bút tàng hình và điện thoại di động. Nói tóm lại là biểu hiện của hiện tượng
tiêu cực này rất phong phú về “chủng loại và cách thức”. Ôi, nhưng công
nghệ hiện đại lại tiếp tay cho vấn nạn quay cóp nữa rồi!
+ Trước khi kiểm tra, thay vì dành thời gian để học bài, xem lại bài thì ta

lại chỉ lo chép tài liệu, photo tài liệu hay mất thời gian thu âm vào điện thoại.
Khi kiểm tra, thay vì tập trung làm bài, ta lại nhìn ngang ngó dọc để tìm sự
cứu trợ từ các bạn khác, nếu không ai hỗ trợ thì lại ngồi đợi, khi thầy cô
không chú ý thì “tự lực cánh sinh” bằng cách giở tài liệu “mật”, lén lút đến vã
mồ hôi.
- Tác hại của việc quay cóp (sử dụng yếu tố biểu cảm)
+ Hành động quay cóp này có thể đem lại cho học sinh những cái “lợi”
nhất định, giúp ta làm tốt và đạt điểm cao trong các bài kiểm tra, thi cử.
14


Nhưng nếu suy nghĩ kĩ thì cái “lợi” trước mắt sẽ là cái hại lâu dài cho bản
thân chúng ta.
+ Việc quay cóp khiến chúng ta có thói quen ỷ lại vào người khác trong
học tập, thụ động, không tư duy sáng tạo. Nó tạo cho ta những lỗ hổng kiến
thức vô cùng nghiêm trọng khó có thể bù đắp, nó làm cho ta trở nên dốt nát.
Với những cuộc thi lớn hơn, khi các giám thị coi thi nghiêm túc hơn, khi các
bạn xung quanh không cho chép bài thì chúng ta sẽ ra sao?
+ Không có kiến thức mà vẫn lên lớp ắt dẫn đến tình trạng ngồi nhầm
lớp. Xã hội ngày càng phát triển, không kiến thức thì mình sẽ làm gì? Liệu ta
có thể là gánh nặng của xã hội hay không? Những mầm non ấy, sau này sẽ
cống hiến được gì cho đất nước? Dân tộc ta, đất nước ta sẽ ra sao khi những
con người bất tài làm chủ nhân? Thật là nguy hại!
+ Việc quay cóp trong giờ kiểm tra còn làm cho các thầy cô mất lòng tin
đối với ta, làm nảy sinh sự nghi ngờ và làm sứt mẻ mối quan hệ thầy trò
thiêng liêng. Không chỉ vậy, chúng ta còn tự tạo ra cơ hội cho mình dối trá, tự
bôi bẩn nhân phẩm, tư cách của mình. Thật xấu hổ cho những ai mắc bệnh
quay cóp!
+ Việc quay cóp là cực kì đáng chê trách, nó có tác hại rất nhiều và hết
sức to lớn đối với tương lai của học sinh và tương lai của đất nước. Bản thân

chúng ta cần phải hiểu điều đó để trách xa việc quay cóp.
- Nguyên nhân hiện tượng quay cóp
+ Nguyên nhân của việc quay cóp, trước hết là do mỗi học sinh chúng ta
không tự nhận thức được mục đích và phương pháp học tập. Nhiều bạn chưa
ý thức được việc học của mình quan trọng đến mức nào, các bạn hay mang
trong mình tư tưởng “được đâu hay đó”, hay “nước đến chân mới nhảy”.
Nguyên nhân khác là do ta thiếu lòng tự trọng, không tôn trọng giáo viên và
không tôn trọng chính bản thân mình.
+ Thầy cô cũng là nguyên nhân khách quan, các thầy cô coi thi không
lường trước hết các “mánh khoé” quay cóp của học sinh nên không chấn
chỉnh được hoặc có thầy cô quá nhân nhượng, vì những lí do khác nhau,
không có biện pháp xử lý thích đáng trước những hành động sai trái của học
sinh, làm cho học sinh coi thường kỉ cương.
- Giải pháp khắc phục
+ Để tránh việc quay cóp, trước hết bản thân học sinh chúng ta cần phải
tự xác định được mục đích học tập là tích luỹ tri thức, kỹ năng để làm hành
trang cho mình trong cuộc sống.
+ Để nói không với quay cóp hãy học thật, thi thật. Chúng ta hãy giành
thời gian để học bài, giảm bớt thời gian chơi bời, có phương pháp học tập
hiệu quả. Đối với những môn khó học bài như Lịch sử, Địa lý, các bạn hãy
ghi những ý chính, những từ quan trọng, trên lớp thì tập trung nghe giảng bài,
về nhà thì học bài kỹ, làm bài đầy đủ.
+ Còn về phía nhà trường, các thầy cô nên nghiêm khắc hơn, tăng “mức
án” phạt cho mỗi “tội phạm” quay cóp, để cho những “tội phạm” này “cải tà
15


quy chính”.
* Kết bài:
+ Đánh giá: quay cóp là hiện tượng đáng lên án. Nó làm ngành giáo dục

suy yếu. Làm bản chất con người tha hóa…
+ Liên hệ: Học sinh hãy nói không với quay cóp
Nhận xét chung: Qua những ví dụ ở phần bài tập nhóm 2, chúng tôi
khẳng định rằng: Tạo lập văn bản nghị luận, ngoài phương thức biểu đạt
chính là lập luận, rất cần phương thức biểu đạt phụ trợ là biểu cảm để bài văn
nghị luận đạt hiệu quả giao tiếp cao hơn.
2.3.1.3. Bài tập nhóm 3: Bài tập phát hiện và chữa lỗi về kĩ năng sử
dụng yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
Mục đích của bài tập nhóm 3: Xây dựng loại bài tập này, chúng tôi
hướng tới mục đích củng cố nâng cao kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm
trong văn nghị luận, góp phần hình thành năng lực tạo lập văn bản nghị luận
cho học sinh THCS. Bởi vì, quá trình tạo lập văn bản, mắc lỗi là khó tránh
khỏi. Biết sửa lỗi là biết rút kinh nghiệm, là có thể tránh được lỗi cho những
hoạt động tạo lập văn bản lần sau. Hơn nữa quá trình tạo lập một văn bản cần
được thực hiện qua nhiều bước, bước cuối là bước kiểm tra, chưa lỗi sai xót
để hoàn thiện văn bản. Do vậy, bài tập chữa lỗi là rất cần thiết.
Thực tế lỗi đó trong bài viết của học sinh là rất khác nhau, nhưng trong
phạm vi nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi lựa chọn loại lỗi tiêu biểu, đó là
lỗi không sử dụng biểu cảm
Bài tập:
"Tính ham mê cờ bạc là một tính rất xấu, nó làm cho người ta gặp nhiều
thiệt hại và mất cả phẩm giá. Người mắc phải tính xấu ấy khó tránh khỏi sự
nghèo khó túng bấn rồi sinh ra gian lận, vì cờ bạc là một cách ăn chơi tổn
hại nhiều tiền. Hoạ là mới có khi được, mà được thì lại tiêu phí hết ngay, còn
thua thì nhiều, mà thua mãi thì thành ra công nợ, dẫn đến phải đi ăn xin,
trộm cắp, làm những điều xấu. Đã chơi cờ bạc thì không còn danh giá mà
thành ra đê tiện. Ta nên giữ gìn, đừng để lây thói xấu đó."
Yêu cầu: Đoạn văn trên thuộc kiểu văn bản gì? Theo em, đoạn văn đã
thể hiện rõ cảm xúc của người viết chưa? Muốn thể hiện rõ cảm xúc cần phải
làm gì?

Định hướng làm bài tập:
Đoạn văn trên thuộc kiểu văn bản nghị luận, bàn luận về hậu quả (tác
hại) của thói ham mê cờ bạc.
Đoạn văn chưa thể hiện rõ cảm xúc, thái độ của người viết, bởi vì đoạn
văn thiếu các yếu tố biểu cảm. Muốn thể hiện được cảm xúc, cần phải bổ sung
những yếu tố biểu cảm hợp lí bằng cách: thêm câu văn biểu cảm; biến đổi
câu kể thành câu cảm... VD: Biến đổi câu: Đã chơi cờ bạc thì không còn
danh giá mà thành ra đê tiện. Thành câu văn biểu cảm: Đau xót biết bao khi
người ta ham mê cờ bạc mà đánh mất danh, mà trở thành kẻ đê tiện!
Trên đây chỉ là một vài gợi ý về việc chữa lỗi không sử dụng biểu cảm
16


trong văn nghị luận. Học sinh có thể có những cách chữa lỗi khác, sao cho
mạch nghị luận vẫn giữ nguyên.
2.3.2. Tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm
trong văn nghị luận
Việc tổ chức luyện tập thực hành kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm
trong văn bản nghị luận cho học sinh lớp 8 không phải là việc làm đơn giản,
bởi vì quỹ thời gian dành cho hoạt động này trong nhà trường phổ thông là
quá ít ỏi (1 tiết). Do vậy giáo viên cần linh hoạt vận dụng các hình thức khác
nhau, tranh thủ các điều kiện khác nhau để tiến hành tổ chức cho học sinh
luyện tập.
Căn cứ vào chương trình Ngữ văn - phần Làm văn lớp 8, tôi đã tổ chức
rèn luyện kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm trong văn bản nghị luận cho
học sinh lớp 8 với những hình thức chính như sau:
2.3.2.1. Rèn luyện qua một số bài học trên lớp
Trong chương trình Ngữ văn - phần Làm văn lớp 8, những giờ học trên
lớp được chúng tôi lựa chọn để tổ chức rèn luyện kỹ năng sử dụng phương
thức biểu cảm trong văn bản nghị luận, cho học sinh là: Tiết 109: "Tìm hiểu

yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận" ; Tiết 113: “Luyện tập đưa yếu tố biểu
cảm vào bài văn nghị luận” ; Tiết 125, 126: “ Viết bài Tập làm văn số 7” và
Tiết 132: “Trả bài Tập làm văn số 7” (Theo PPCT, Lưu hành nội bộ, năm
2019, Ngữ văn 8).
Tuy nhiên, với dung lượng thời gian 2 tiết học, 2 tiết làm bài và 1 tiết trả
bài thì rất khó có thể thực hiện được hết hệ thống bài tập đã xây dựng. Vì thế,
trong giờ học trên lớp tôi chỉ định hướng và làm mẫu một số bài tập. Còn lại
sẽ chuyển sang hình thức luyện tập khác.
2.3.2.2. Rèn luyện qua bài tập về nhà
Đây là hình thức luyện tập nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự
giác của học sinh. Bài tập luyện tập được tôi triển khai bằng phiếu bài tập,
bao gồm bài tập nhóm 1,2,3 và một số bài tập khác nữa.
Việc tổ chức rèn luyện kỹ năng sử dụng phương thức biểu cảm trong văn
bản nghị luận thông qua bài tập về nhà được tôi tiến hành như sau:
- Giáo viên xây dựng phiếu bài tập . Phát phiếu bài tập cho học sinh, thu
và chấm bài tập để đánh giá kết quả của việc rèn luyện.
- Học sinh nhận phiếu bài tập, làm bài tập trên phiếu và nộp theo qui
định.
Có thể nói rằng, hình thức tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng phương
thức biểu cảm trong văn bản nghị luận qua bài tập về nhà mất rất nhiều thời
gian công sức của Thầy và Trò. Nhưng hiệu quả đạt được rất cao. Nếu không
có cách rèn luyện này thì tôi phải khẳng định rằng với mấy tiết trên lớp giáo
viên rất khó để giúp học sinh hiểu sâu sắc và sử dụng một cách có hiệu quả
được. Đây cũng chính là cách rèn ý thức tự học, tự rèn luyện cho học sinh.
17


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Bản thân đã áp dụng kinh nghiệm qua nhiều năm giảng dạy. Năm học
2019 – 2020 tôi lại tiếp tục áp dụng và nhận thấy ngày càng hiệu quả. Tinh

thần thái độ học tập của học sinh có một sự thay đổi rõ rệt. Các em say mê
học tập, hợp tác làm việc nhóm, nhiều em phát huy được khả năng vốn có của
bản thân, chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
Khi học văn nghị luận, đa phần các em đã có kĩ năng đưa được yếu tố
biểu cảm vào bài văn và làm cho bài văn trở nên sinh động, hấp dẫn, có sức
thuyết phục hơn. Do đó bài làm của học sinh có chất lượng hơn và điểm kiểm
tra cũng vì thế tăng lên rất đáng kể. Có như vậy mới đáp ứng được mục tiêu
giáo dục trong thời kì đổi mới.
Bảng thống kê kết quả bài kiểm tra của học sinh sau khi đã áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm:
Bảng 1: Kết quả bài viết Tập làm văn số 6 của học sinh
Điểm
dưới Điểm
Điểm khá
Điểm giỏi
Tổng
trung bình
trung bình
Lớp
HS
Số HS %
Số HS %
Số HS %
Số HS %
8A
39
4
10,3 17
43,6 16
41

02
5,1
8B
34
5
14,7 19
55,9 10
79,4 0
0
Bảng 2: Kết quả bài viết Tập làm văn số 7 của học sinh
Điểm
dưới Điểm
Điểm khá
trung bình
Tổng trung bình
Lớp
HS
Số %
Số HS %
Số HS %
HS
8A
39
1
2,6 15
38,5 19
48,7
8B
34
2

5,9 18
52,9 13
38,2

Điểm giỏi
Số HS

%

04
01

10,2
3

Như vậy, nhìn vào bảng kết quả này, ta có thể thấy rõ tỉ lệ học sinh viết
bài văn nghị luận có điểm dưới trung bình đã giảm, tỉ lệ học sinh có điểm khá
và giỏi đã tăng lên đáng kể. Chất lượng bài văn nghị luận của học sinh đã thực
sự nâng lên. Qua đây có thể khẳng định rằng, việc rèn luyện kĩ năng cho học
sinh là cần thiết, nhất là kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận.
Đây là kĩ năng góp phần lớn vào việc hoàn thiện năng lực tạo lập văn bản nói
chung và tạo lập văn bản nghị luận đạt hiệu quả cho học sinh nói riêng.
Mặc dù đây chưa phải là một kết quả tốt như ta mong muốn, nhưng
cũng là một kết quả đáng khả quan. Với những kinh nghiệm trên, nếu áp dụng
thường xuyên và không mang tính hình thức đối phó, tôi tin chắc rằng kết
quả sẽ khả quan hơn. Chất lượng dạy và học không ngừng được nâng cao,
phát triển được năng lực học sinh nhiều hơn để từ đó góp phần phát triển giáo
dục một cách toàn diện.
18



3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Kinh nghiệm về việc rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn
nghị luận cho học sinh lớp 8 tại Trường THCS Nam Ngạn, có thể áp dụng
với: Các dạng bài nghị luận xã hội và nghị luận văn học; Các đối tượng học
sinh khác nhau. Với điều kiện trang thiết bị dạy học của nhiều trường THCS
hiện nay thì sáng kiến này có thể được nhân rộng một cách dễ dàng, đạt hiệu
quả cao: Học sinh say mê, hứng thú học tập, chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
Các em không chỉ nắm được tri thức khoa học mà còn có các kĩ năng, phát
triển các năng lực cần thiết cho học sinh như năng lực hợp tác nhóm, năng lực
giao tiếp, năng lực thu thập và xử lí thông tin, năng lực tự học, năng lực sáng
tạo...
Qua việc thực hiện đề tài này, tôi rút ra được một số bài học sau:
- Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn
nghị luận, giáo viên cần ôn tập kĩ lí thuyết về vai trò của yếu tố biểu cảm
trong bài văn nghị luận. Đặc biệt giáo viên cần hướng dẫn học sinh rất cụ thể
cách biểu cảm và cách đưa yếu tố cảm vào chỗ nào của đoạn văn, bài văn là
tốt. Ta có thể đưa trực tiếp bằng cách biến câu văn nghị luận nêu nhận xét
đánh giá thông thường thành câu văn nghị luận có kết hợp bộc lộ cảm xúc;
thêm câu văn biểu cảm. Hoặc đưa gián tiếp qua lời kể, lời miêu tả, lời nhận
xét đánh giá.
- Những bài tập trong sách giáo khoa, sách giáo viên cần dành thời gian
nghiên cứu tài tiệu, tìm kiếm, soạn được hệ thống bài tập cụ thể in thành
phiếu để các em làm. Bài tập phải được sắp xếp từ dễ đến khó, từ cấp độ
nhận biết đến thông hiểu, vận dụng thấp và cuối cùng là vận dụng cao. Đây là
công việc rất mất thời gian đòi hỏi giáo viên phải có sự kiên trì, tâm huyết.
- Khi phát phiếu bài tập cho học sinh, giáo viên cần hướng dẫn cụ thể,
giao hạn thời gian để các học sinh có ý thức làm bài ở nhà. Sau đó giáo viên
cần thu lại tất cả các phiếu bài tập đó để chấm chữa và rút kinh nghiệm vào

các giờ luyện tập hoặc phụ đạo ở trường. Cần tránh trường hợp ra phiếu bài
tập nhưng không sát sao trong khâu kiểm tra, đánh giá, tạo điều kiện cho một
số học sinh lười làm bài với lí do “thầy cô có kiểm tra đâu mà làm”. Nếu vậy
thì khó đạt được kết quả.
- Để rèn luyện kĩ năng này đạt hiệu quả, chúng ta cũng cần tích hợp với
phần Tiếng Việt và đặc biệt là các văn bản nghị luận trung đại mà các em
đang học trong chương trình. Qua đó, học sinh nhận ra được tác dụng vô cùng
to lớn của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận và có ý thức sử dụng khi làm
bài.
- Trong quá trình giảng dạy, yêu cầu và hướng dẫn cho học sinh làm bài
tập, luôn có sự động viên, khuyến khích (có thể là động viên bằng lời nói,
động viên bằng điểm số, động viên bằng những món quà nho nhỏ...) để các
em thể hiện được hết năng lực của bản thân, hình thành năng lực tạo lập được
19


văn bản nghị luận đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.
- Điều quan trọng hơn hết là mỗi giáo viên phải nhiệt huyết, đam mê
cháy bỏng với sự nghiệp trồng người thì bài học mới thành công, học sinh
mới say mê tìm tòi khám phá, tích lũy kiến thức và hình thành được năng lực.
Bởi “Không thể trồng cây ở những nơi thiếu ánh sáng, cũng không thể nuôi
dạy trẻ với chút ít nhiệt tình!”(Can Jung).
Có như vậy học sinh mới biết cách đưa yếu tố biểu cảm vào đoạn văn,
bài văn nghị luận. Bài văn, đoạn văn của các em sẽ hay hơn, có sức thuyết
phục hơn và không bị khô khan. Học sinh cũng thích thú học văn và làm văn
hơn. Điều đó được thể hiện qua sự tiến bộ từng bài viết cụ thể của học sinh.
3.2. Kiến nghị:
Việc sử dụng kết hợp các phương thức biểu cảm nhằm hỗ trợ cho văn
nghị luận đạt hiệu quả giao tiếp cao là rất cần thiết. Nhưng quá trình sử dụng
cần thận trọng tránh lạm dụng, cẩu thả, bởi như vậy sẽ làm bài văn nghị luận

sai đi, lệch đi về nội dung cũng như phương pháp làm bài. Muốn sử dụng tốt
các yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận cần có quá trình rèn luyện thực
hành thường xuyên, lâu dài. Để giúp học sinh có quá trình rèn luyện, thực
hành tôi xin mạnh dạn đề xuất các cấp quản lí giáo dục cần trang bị đầy đủ
hơn nữa cơ sở vật chất, các phương tiện dạy học và đặc biệt cần tổ chức các
lớp tập huấn đưa những hình thức tổ chức rèn luyện kĩ năng sử dụng phương
thức biểu cảm trong văn bản nghị luận cho tất cả giáo viên giảng dạy để giáo
viên nắm rõ được mục tiêu, cách thức tiến hành. Từ đó mỗi giáo viên mới có
thể áp dụng vào trong quá trình giảng dạy một cách dễ dàng hơn
Đây chỉ là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra trong quá trình
dạy học rèn kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh
lớp 8 tại trường THCS Nam Ngạn. Tuy nhiên, chỉ là kinh nghiệm mang tính
chủ quan của bản thân và áp dụng trong phạm vi hẹp. Rất mong sự đóng góp ý
kiến, trao đổi, bổ sung của bạn bè đồng nghiệp và Hội đồng khoa học để sáng
kiến được nhân rộng hơn, để nâng cao hơn hiệu quả giáo dục của môn Ngữ
văn trong nhà trường phổ thông.
Thanh Hóa, ngày 27 tháng 6 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Xác nhận của BGH

Người viết

Nguyễn Thị Tuyết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
20


1. Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn 6,7,8,9 của Nguyễn Khắc Phi
(Tổng Chủ biên), NXB Giáo dục.

2. Sách hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn THCS,
Tập hai của Bộ GD & ĐT, NXB Giáo dục Việt Nam.
3. Bài tập Ngữ văn 6,7, 8, 9 của Nguyễn Khắc Phi - Nguyễn Hoành Khung Nguyễn Minh Thuyết - Trần Đình Sử , NXB Giáo dục.
4. Giáo trình Làm văn của Lê A - Nguyễn Trí, NXB Giáo dục, 2001.
5. Phương pháp dạy học tạo lập văn bản của Lê A - Bài giảng chuyên đề, 2008
6. Ngữ văn nâng cao 8 của Nguyên Đăng Điệp - Đỗ Việt Hùng - Vũ Băng Tú,
NXB Giáo dục, 2008
7. Phương pháp phát triển lời nói cho học sinh của Nguyễn Quang Ninh - Bài
giảng chuyên đề, 2008.
8. Tuyển tập đề bài và bài văn nghị luận xã hội, Tập 1, NXB Giáo dục, 2009
9. Để học tốt các kiểu bài nghị luận THPT của Lê Đình Mai, NXB Giáo dục,
1995
10. 150 bài tập rèn kĩ năng dựng đoạn của Nguyễn Quang Ninh, NXB Giáo
dục, 1993
11. Làm văn từ lý thuyết đến thực hành của Đỗ Ngọc Thống , NXB Giáo dục, 1997
12. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên ( Lưu hành nội bộ), Sở GD & ĐT Thanh
Hóa, tháng 11 năm 2016.
13. Tài liệu trên các trang mạng xã hội.

NGUỒN DẪN LIỆU
[1] Luật Giáo dục, NXB Sự thật, 2005.
[2] Tài liệu đã dẫn,
[3] Tài liệu đã dẫn, phần ghi nhớ , trang 9, sách giáo khoa Ngữ văn 7, Tập 2 ,
NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Tài liệu đã dẫn, phần ghi nhớ , trang 19, sách giáo khoa Ngữ văn 7, Tập 2
, NXB Giáo dục Việt Nam.
[5] Tài liệu đã dẫn, Phân biệt các phương thức biểu đạt
trong văn bản.
[6] Tài liệu chủ đề Tự chọn bám sát, Ngữ văn 10 dùng cho giáo viên, NXB
Giáo dục.

DANH MỤC
Các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được Hội đồng đánh giá xếp loại cấp
Phòng GD&ĐT, cấp Sở GD&ĐT và các cấp cao hơn xếp loại từ C trở lên

21


Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Tuyết
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường THCS Nam Ngạn.
TT
1
2
3

4

5

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp tổ chức
dạy học theo phương pháp
hoạt động nhóm
Một số cách giới thiệu bài
mới trong giờ dạy học môn
Ngữ Văn
Một số biện pháp giáo dục
đạo đức học sinh của giáo
viên chủ nhiệm lớp
Định hướng phát triển năng
lực cho học sinh lớp 9

thông qua dạy học tích hợp
văn bản “Lặng lẽ Sa Pa”
của Nguyễn Thành Long
Định hướng phát triển năng
lực cho học sinh lớp 9
thông qua dạy học tích hợp
văn bản “Lặng lẽ Sa Pa”
của Nguyễn Thành Long

Cấp đánh giá xếp
loại
( Phòng, Sở...)
Phòng GD&ĐT
Phòng GD&ĐT
Phòng GD&ĐT

Kết quả đánh
giá xếp loại
(A, B hoặc C)

Năm học đánh
giá xếp loại

B

2009 - 2010

C

2010 – 2011


B

2015 – 2016

Phòng GD&ĐT

A

2017 – 2018

Sở GD&ĐT

B

2017 – 2018

22



×