Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho HS lớp 9 ở trường THCS tân sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.81 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

STT

TÊN ĐỀ MỤC

TRANG

1

1. MỞ ĐẦU

2

2

1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

2

3

1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

2

4

1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

3



5

1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3

6

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

3

7

2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SKKN

3

8

2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP
DỤNG SKKN

4

9

2.3. CÁC SKKN HOẶC CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG
ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


5

10

2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG
NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG

19

11

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

20

12

3.1. KẾT LUẬN

20

13

3.2. KIẾN NGHỊ

21

1. MỞ ĐẦU

1


1.1. Lí do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, Ngữ văn là một trong những môn học có vai trò rất
quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người, cũng như
tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Dạy học văn nói chung, dạy học phân môn Tập làm văn kiểu bài nghị luận về tác
phẩm văn học (phần thơ) nói riêng ở lớp 9 trường THCS là dạy cho lứa tuổi hồn
nhiên trong sáng, năng động và nhạy cảm biết tìm tòi, khám phá ra thế giới văn
chương nghệ thuật. Tác phẩm văn chương nghệ thuật là thành quả sáng tạo của
nhà văn, nhà thơ. Dù là câu tục ngữ, bài ca dao hay một bài văn, bài thơ...đều có
giá trị về nội dung và nghệ thuật của nó. Làm thế nào để giáo viên giúp học sinh
đồng cảm và cảm nhận được sâu sắc những giá trị tư tưởng nhân văn cần đạt tới
trong mỗi tác phẩm là nhiệm vụ giảng dạy của giáo viên dạy môn Ngữ văn. Nó đòi
hỏi mỗi giáo viên đứng lớp phải chủ động và tích cực tìm tòi, đổi mới phương
pháp để nâng cao hiệu quả giờ dạy - học văn như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
từng nhắc nhở: “Phải suy nghĩ, phải tìm tòi, phải sáng tạo, phải xây dựng một
phương pháp giảng dạy văn thích hợp, đem lại những hiệu quả tốt...”
Tuy nhiên, nói đến đổi mới phương pháp dạy học, nhất là môn văn nên hiểu
là đổi mới đồng bộ với những hạn chế chủ quan của thầy và trò. Người thầy giảng
dạy đúng hướng, đúng cách với mục đích cao nhất là dạy văn để dạy người. Bên
cạnh đó, trò cũng phải suy nghĩ nhiều hơn, tích cực, chủ động hơn trong nhận
thức, cảm thụ và vận dụng các kiến thức, kĩ năng văn học. Thực tế cho thấy quá
trình cảm thụ tác phẩm văn học của học sinh lớp 9 cũng như khả năng cảm thụ,
viết bài nghị luận tác phẩm văn học nói chung và thơ ca nói riêng của các em còn
nhiều hạn chế. Các em thường viết một cách sáo rỗng, khô cứng, lúng túng và dập
khuôn máy móc. Thường thì học sinh dựa vào văn mẫu hoặc là dàn ý thầy cô đã
cho sẵn nên hạn chế về mạch cảm xúc, bài viết còn gượng ép không có xúc cảm
thật. Ít học sinh có được sự tìm tòi, sáng tạo khám phá ra ý mới, ý hay và sâu sắc

do bản thân cảm nhận và thực sự rung động với đoạn thơ, bài thơ.
Bản thân là một giáo viên, tôi luôn trăn trở tìm ra các biện pháp tối ưu vừa
giúp học sinh nắm vững các yêu cầu cách làm bài nghị luận văn học, vừa rèn
luyện một số kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học nói chung và bài thơ, đoạn thơ
nói riêng nhằm từng bước nâng cao chất lượng của bài viết và hiệu quả của việc
giáo dục, đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục hiện nay. Xuất phát từ tình hình
trên, bản thân xin đưa ra một vài ý kiến, kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy với
mục đích trao đổi cùng các đồng nghiệp qua sáng kiến: “Một số kinh nghiệm rèn
luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cho học sinh lớp
9 ở trường THCS Tân Sơn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Là một giáo viên môn Ngữ văn, tôi luôn tâm đắc với câu nói như là một
chân lí quý báu của Lep- Tôn- xtôi: “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà là
làm thế nào để biết được quả đất tròn”. Và tôi biết cái khó trong việc dạy văn,
nhất là dạy Tập làm văn, kiểu bài Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ là làm sao giúp
2


học sinh biết cách tìm ra cái hay,cái đẹp trong bài thơ, đoạn thơ ấy. Đồng thời tôi
cũng đánh giá cao hoạt động học của trò là tìm tòi, sáng tạo nên trong quá trình
giảng dạy tôi luôn trân trọng những bài làm có lối viết riêng thể hiện được những
cảm xúc chân thật, những nhận xét, phân tích tinh tế sáng tạo của học sinh đối với
tác phẩm văn học nói chung và bài thơ, đoạn thơ nói riêng. Cùng với mong muốn
hạn chế cách viết khô cứng, máy móc, sáo rỗng, lan man, lệch lạc về vấn đề nghị
luận của học sinh. Đó chính là động lực thôi thúc tôi đầu tư vào sáng kiến kinh
nghiệm này, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên, học sinh ở
bộ môn Ngữ văn và chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Giáo viên dạy Ngữ văn và học sinh lớp 9 Trường THCS Tân Sơn, thành
phố Thanh Hóa, một số bài viết của học sinh lớp 9 về nghị luận văn học. Cụ thể là:

- Thực trạng về phương pháp giảng dạy của giáo viên và bài viết của một số
học sinh.
- Những giải pháp chủ yếu để rèn luyện kĩ năng nâng cao chất lượng.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân đã vận dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, phân tích đối chiếu với thực trạng đưa ra
những đề xuất có tính khoa học để giáo viên vận dụng.
- Phân tích, tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Dự giờ, thăm lớp, tham khảo ý kiến đồng nghiệp.
1.5.Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Từ trước đến nay việc dạy văn và học văn chúng ta rất chú trọng đến truyền
thụ kiến thức hàn lâm đến các thế hệ học sinh mà dường như đã quên đi sự cảm
thụ một cách tích cực của người học.Hơn nữa, ngày nay tư duy của người học đã
thay đổi vì xã hội đang thay đổi từng giờ nên việc tiếp cận của học sinh cũng đã
thay đổi. Từ đó người học cũng có cách nhìn nhận, đánh giá, nhận xét theo xu
hướng phát triển của xã hội, đất nước và cao hơn nữa là sự phát triển như vũ bão
của thế giới. Ngày nay thế giới đã là thế giới phẳng vì điều đó chúng ta (những
thầy cô) dạy văn không đơn thuần là cung cấp cho học trò những kiến thức về học
thuật mà còn truyền cảm hứng, động lực, sự say mê, sự chủ động, sự sáng tạo để
cảm thụ văn và viết văn có phong cách riêng chứ không rập khuôn, khô cứng hay
là sự sáo rỗng thường thấy của học trò hiện nay. Đó là những trăn trở và tâm huyết
của bản thân khi nghiên cứu đề tài này.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
3



Đất nước ta đang trên đà đổi mới, ngành giáo dục đang có những bước
chuyển mình theo nhịp đi lên của thời đại. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy
học là vấn đề cần thiết và quan trọng trong tình hình hiện nay. Trong đó việc đổi
mới phương pháp dạy học môn ngữ văn được các cấp quản lí giáo dục và giáo
viên đã và đang tổ chức thực hiện bước đầu cũng đã đạt được một số kết quả nhất
định. Một trong những biện pháp tối ưu trong quá trình dạy học là phương pháp
dạy học tích cực và dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Vậy nên, để góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục ở bộ môn ngữ văn trong nhà trường hiện nay, người
giáo viên ngoài việc giúp học sinh nắm vững kiến thức, biết cảm thụ tác phẩm văn
học thì cần chú trọng hơn nữa đến việc rèn luyện kĩ năng nói và viết, nhất là rèn
luyện kĩ năng viết văn nghị luận về tác phẩm văn học nói chung và thơ ca nói
riêng ở bậc THCS theo chuẩn kiến thức và kĩ năng mà ngành yêu cầu.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Từ thực tế giảng dạy bản thân nhận thấy thực trạng đa số học sinh còn yếu
môn Ngữ văn nói chung, về phân môn Tập làm văn nói riêng. Điều mà ai cũng dễ
nhận ra phân môn Tập làm văn đóng vai trò quan trọng trong việc cảm thụ, tiếp
thu những kiến thức cơ bản về tác phẩm văn học, cung cấp các tri thức cơ bản về
các kiểu văn bản, hình thành các kĩ năng nói, viết, hiểu khái quát về văn bản và bố
cục chung của nó. Biết cách liên kết các từ ngữ, cách dùng từ, các biện pháp nghệ
thuật, hiểu được ý nghĩa của từ …Nhưng trong quá trình tổ chức cho học sinh làm
bài kiểm tra ở lớp cũng như ở kiểm tra học kì và các kì thi khảo sát, tôi nhận thấy
học sinh làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học, đặc biệt là nghị luận về một
bài thơ, đoạn thơ còn rất nhiều hạn chế. Bài làm của học sinh thường sơ sài, chung
chung, lan man, vừa thừa, vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề; bài viết thiếu tính liên
kết, bố cục không rõ ràng. Có bài chỉ viết được 7 đến 8 dòng là hết, có nhiều em
không biết mở bài, không biết xây dựng luận điểm…Phải chăng là do các em cảm
nhận về các bài thơ, đoạn thơ chưa được sâu sắc, và các em chưa được rèn luyện
nhiều về kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học. Cũng có thể do giáo viên chỉ quan
tâm đến việc cung cấp lí thuyết mà chưa chú trọng đến rèn luyện kĩ năng qua các

bài tập thực hành. Kết quả là chỉ số ít học sinh nắm được kiến thức cơ bản, nhiều
em hiểu bài còn lơ mơ, chỉ những học sinh khá giỏi mới biết cách làm bài văn cảm
nhận về tác phẩm văn học và nắm được các thao tác cơ bản trong nghị luận về bài
thơ, khổ thơ nhưng điểm giỏi lại rất hạn chế.Trong khi đó, ở các tiết thao giảng,
giáo viên nào cũng e ngại, không lựa chọn phân môn Tập làm văn, nên việc góp ý
rút kinh nghiệm cho nhau còn rất hạn chế. Điều đó đồng nghĩa với sự chưa thành
công trong dạy học ngữ văn nói chung và dạy nghị luận văn học nói riêng của giáo viên.
Từ thực trạng của việc dạy học văn nói chung và sự hạn chế về kinh nghiệm, kĩ năng của
bản thân cũng như việc thực hiện các biện pháp dạy tập làm văn, đặc biệt là dạy phân môn Tập
làm văn chưa phù hợp nên kết quả thu được vẫn chưa mấy khả quan. Cụ thể qua kiểm tra khảo
sát ban đầu, kết quả thu được như sau:

Lớp

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm TB

Điểm yếu
4


Tổng số
học sinh

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

9A

39

04

10,2
5

11

28,20

19

48,71


05

12,82

9B

40

05

12,5

13

32,50

15

37,50

07

17,50

Từ thực trạng trên, để HS lớp 9 rèn được các kĩ năng làm bài văn nghị luận
về bài thơ, đoạn thơ và viết bài đạt hiệu quả cao hơn để nâng cao kết quả dạy- học
văn ở trường THCS Tân Sơn, tôi tìm tòi, học hỏi bạn bè, đồng nghiệp và mạnh dạn
đưa ra một số kinh nghiệm mà mình đã thực hiện trong quá trình giảng dạy. Vì vậy
tôi đã chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị
luận về một bài thơ, đoạn thơ cho học sinh lớp 9 ở trường THCS Tân Sơn”.

2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề
a. GV giúp HS nắm vững phần lí thuyết kiểu bài văn nghị luận văn học
nói chung và nghị luận về bài thơ, đoạn thơ nói riêng.
Thực ra ở các lớp dưới học sinh đã được học khá nhiều về các kiểu bài, thao
tác nghị luận. Lên lớp 9, nghị luận về văn học là sự kế thừa, nâng cao kiến thức đã
cung cấp, kĩ năng đã rèn luyện ở các lớp trước. Song đa số học sinh vẫn còn rất
mơ hồ nên giáo viên cần khắc sâu thêm một số nét cơ bản:
- Văn nghị luận là dùng ý kiến, lí lẽ của mình để bàn bạc, thuyết phục người
khác về một vấn đề nào đó.
- Những thao tác chính của văn nghị luận là: giải thích, chứng minh, phân
tích, bình luận, bác bỏ, so sánh…
- Bên cạnh văn nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống; nghị luận về tư
tưởng, đạo lí thì nghị luận văn học là một mảng quan trọng trong phân môn Tập
làm văn ở lớp 9.Nghị luân văn học là dạng nghị luận mà các vấn đề đưa ra bàn
luận là các vấn đề về văn học: tác phẩm, tác giả, thời đại văn học…Trong đó, nghị
luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của người viết về nội
dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.
b. GV cần trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về đặc trưng thể
loại của thơ.
Trong quá trình tổ chức cho học sinh làm bài, tôi nhận thấy nhiều em còn
chưa phân biệt rõ được tác phẩm thơ và truyện. Vì vậy, giáo viên cần lưu ý về đặc
trưng cơ bản của thơ và có phương pháp hướng dẫn các em cảm nhận tác phẩm
theo đặc trưng thể loại. Cụ thể là:
*Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm:
- Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn
gọn, xúc tích theo những quy luật ngữ âm nhất định nhằm phản ánh tâm trạng,
thái độ, tình cảm ...của người nghệ sĩ về đời sống thông qua các hình tượng nghệ thuật.
5



- Thơ tác động đến người đọc bằng sự gợi hình, gợi cảm của hình thức
nghệ thuật và tình cảm của nhà thơ.
Ví dụ: - Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông, bát ngát
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát, mênh mông.
- Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai.
Phân tích:
Sử dụng biện pháp đảo ngữ, điệp cấu trúc, so sánh, hình ảnh nắng hồng ban
mai thể hiện sự rộng lớn, khoáng đạt của thiên nhiên đồng ruộng, gợi sự trù phú
của làng quê và hình ảnh con người tươi tắn, tràn đầy sức sống trong buổi mai
hồng. Từ đó người đọc cảm nhận được niềm tự hào, tình yêu tha thiết với cảnh,
với người quê hương của tác giả dân gian.
* Giáo viên giúp học sinh hiểu rõ đặc trưng của thơ
Với bất kì thể loại văn học nào, nếu học sinh nắm vững được đặc trưng thể
loại thì các em cảm nhận được sâu sắc hơn và cũng dễ hơn trong quá trình làm bài
văn nghị luận, với thơ cũng thế. Vì vậy, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ một số
đặc trưng sau:
- Tính trữ tình:
+ Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của
chính nhà thơ về cuộc đời. Vì thế khi phân tích thơ không đi sâu vào lí giải các chi
tiết, sự kiện mà tác giả đề cập; điều cốt lõi là chỉ rõ được những cảm xúc ,tâm
trạng của nhà thơ.
+ Nói đến văn nghị luận người ta thường nghĩ đến sự khô khan nhưng giáo
viên cần giúp học sinh thấy được bài văn nghị luận về tác phẩm văn học nói
chung, đặc biệt là nghị luận về bài thơ, đoạn thơ không hề khô khan chút nào bởi
nó là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ với đặc trưng rõ nét là chất trữ tình sâu đậm.
- Chủ thể trữ tình (nhân vật trữ tình):
Nói đến đặc trưng này, nhiều học sinh rất mơ hồ và khó hiểu. Các em
thường hỏi : “Nhân vật trữ tình là nhân vật như thế nào vậy thầy (cô) ”?. Về điều

này, giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ chủ thể trữ tình là con người đang cảm
xúc, suy tư trong tác phẩm. Đó có thể là chính tác giả, cũng có thể là nhân vật do
chính tác giả hóa thân.
Ví dụ: Nhân vật người cháu trong bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt.
Sau khi nêu ví dụ, giáo viên có thể yêu cầu học sinh xác định chủ thể trữ
tình ở một số bài thơ đã học để các em khắc sâu hơn như người lính năm xưa trong
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy, nhân vật “tôi – ta” và cũng chính là nhà thơ Thanh
Hải trong “Mùa xuân nho nhỏ”.
Các nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình trong thơ chỉ đối diện với độc giả bằng
sắc thái, tình cảm.
- Ngôn ngữ thơ:
Đặc điểm ngôn ngữ của thơ là giàu tính tạo hình, biểu hiện. Thông qua ngôn
ngữ, tác giả phản ánh được hiện thực đời sống một cách sinh động, lại thể hiện
được những nhận thức, suy tư về cuộc đời.
6


Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(Đồng chí - Chính Hữu)
GV gợi ý phân tích:
Các câu thơ cuối đã tạo ra một không gian, thời gian và hoàn cảnh cụ thể,
nhiệm vụ cụ thể của người lính. Từ những thi liệu lấy từ đời sống thực, Chính Hữu
đã khắc sâu tính chất khắc nghiệt, hiểm nguy của cuộc chiến đồng thời khẳng định
được sự gắn bó, đồng cam cộng khổ giữa những người lính. Đặc biệt hình ảnh
“đầu súng trăng treo” đã tạo nên một biểu tượng đầy chất thơ về người lính và
phẩm chất của họ. Từ mối quan hệ giữa chiến tranh- hòa bình, hiện thực- lãng
mạn, người lính- người nghệ sĩ; câu thơ cuối đã sáng ngời, lung linh tâm hồn nhạy
cảm, tinh tế của những người lính.

* Giáo viên lưu ý các yếu tố nghệ thuật cần phân tích trong bài nghị
luận về thơ.
Sau khi HS đã nắm vững được những đặc trưng cơ bản của thơ, GV cần lưu
ý với các em một số yếu tố nghệ thuật cần khai thác khi nghị luận về thơ như sau :
- Thể thơ, nhịp thơ:
+ Căn cứ vào số tiếng trong mỗi dòng thơ để xác định thể thơ. Mỗi thể thơ
có cách ngắt nhịp riêng.
+ Mỗi thể thơ có tác dụng biểu cảm nhất định
+ Nhiều bài thơ không ổn định về số tiếng. Đó là cách để tác giả bộc lộ
cảm xúc.
+ Nhịp thơ biến đổi linh hoạt, tăng hiệu quả biểu đạt cho câu.
- Thanh điệu:
+ Câu thơ toàn thanh trắc tạo sự mạnh mẽ, gân guốc.
Ví dụ: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
(Hồ Chí Minh)
+ Câu thơ toàn thanh bằng tạo sự nhẹ nhàng, êm đềm, trầm lắng, diễn tả
cảm giác mơ hồ, nhẹ nhàng, lắng dịu.
Ví dụ: “ Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
( Phạm Tiến Duật)
Câu thơ với 5 thanh bằng và điệp ngữ “ lại đi” tạo âm điệu thanh thản, nhẹ
nhàng. Hình ảnh bầu trời xanh phơi phới với một niềm lạc quan yêu đời.
+ Câu thơ trúc trắc, bằng trắc đột ngột gợi sự hiểm nguy, bấp bênh, trôi nổi.
Ví dụ: Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh
( Nguyễn Du)
- Vần:
+ Vần chân, lưng, liền, cách.
+ Chú ý các nguyên âm:
Nguyên âm; a,ă,â,ơ tạo cảm giác vui tươi, bay bổng, phóng khoáng.
Ví dụ: Không có kính ừ thì có bụi
............................................

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
7


-> tếu táo, lạc quan, tinh nghịch của chiến sĩ
Qua ví dụ, giáo viên cần cho học sinh thấy rằng việc sử dụng thể thơ, nhịp
thơ linh hoạt, thanh, vần góp phần tạo nên chất nhạc cho thơ.
- Biện pháp tu từ:
+ Khi làm bài nghị luận về bài thơ, đoạn thơ, giáo viên đặc biệt lưu ý hướng
dẫn các em khai thác tối đa tác dụng của các biện pháp tu từ được sử dụng như:
Ẩn dụ, Hoán dụ, Nhân hóa, So sánh, Đảo trật tự cú pháp, Đối, Điệp từ ngữ, cú
pháp ; Câu hỏi tu từ, hệ thống từ loại, tứ thơ, mạch cảm xúc, không gian, thời gian
nghệ thuật.
+ Để làm được điều đó, GV cần chú ý hướng dẫn HS cảm nhận được đầy đủ
giá trị nghệ thuật của tác phẩm ngay từ tiết văn học, phần tìm hiểu tác phẩm.
Ví dụ: Giá trị nghệ thuật của điệp từ “nhóm” trong khổ thơ sau:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
(Bếp lửa - Bằng Việt)
- Gợi ý phân tích:
Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần làm toả sáng hơn nét “kì lạ” và thiêng
liêng bếp lửa. Bếp lửa của tình bà đã nhóm lên trong lòng cháu bao điều thiêng
liêng, kì lạ. Từ “nhóm” đứng đầu mỗi dòng thơ mang nhiều ý nghĩa:
+ Khơi dậy tình cảm nồng ấm
+ Khơi dậy tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm, quê hương
+ Khơi dậy những kỉ niệm tuổi thơ, bà là cội nguồn của niềm vui, của ngọt
bùi nồng đượm, là khởi nguồn của những tâm tình tuổi nhỏ.
=> Đó là bếp lửa của lòng nhân ái, chia sẻ niềm vui chung.

* Giáo viên giúp học sinh phân biệt rõ các dạng bài nghị luận về tác
phẩm thơ:
- Dạng 1: Nghị luận về bài thơ
Các em cần phải:
+ Dựa vào dàn bài nghị luận về tác phẩm văn học nói chung để triển khai.
+ Nghị luận thơ bắt buộc phải đi từ từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ,...để
chỉ ra ý nghĩa về mặt nội dung, tư tưởng.
+ Cần dựa vào nội dung của bài thơ để tách và triển khai từng luận điểm.
+ Lựa chọn điểm sáng về nghệ thuật để bình, có thể mở rộng, liên hệ.
- Dạng 2: Nghị luận về đoạn thơ.
Các em cần phải lưu ý:
+ Phạm vi nghị luận hẹp hơn về kiến thức.
+ Khi nghị luận cần đặt đoạn thơ vào chỉnh thể của cả bài thơ để dẫn dắt,
khái quát. Sau khi phân tích phải khái quát được vị trí,vai trò của đoạn thơ trong
việc thể hiện nội dung tư tưởng của toàn bài.
Ví dụ: Cảm nhận về khổ thơ cuối trong bài “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận
Gợi ý
+ Cách nói thậm xưng: mặt trời đội biển
8


+ Vẻ đẹp của bình minh tươi sáng của thiên nhiên qua hình ảnh mặt trời, gió
khơi, cánh buồm và vẻ đẹp của tia nắng chiếu vào khoang thuyền đầy cá. -> vẻ
đẹp tươi tắn căng tràn sự sống, rạng rỡ của thiên nhiên lúc bình minh.
+ Niềm sung sướng, phấn khởi vì sự thắng lợi của dân chài: “câu hát” (xoay
vòng cảm xúc , kết cấu đầu cuối tương ứng), cuộc chạy đua giữa ngư dân với thời gian.
+ Hình ảnh mặt trời mở ra một ngày mới kết hợp với cụm từ “ huy hoàng
muôn dặm phơi”-> gợi liên tưởng tới một tương lai, một cuộc sống tươi đẹp.
=>Khổ thơ đọng lại một dư âm đẹp về cuộc sống lao động mới của những
con người mới - con người XHCN. Khổ thơ góp phần thể hiện được niềm hân

hoan , phấn khởi của những người lao động được làm chủ quê hương, cuộc sống,
góp phần đánh dấu sự trở lại của thà thơ Huy Cận với cảm hứng mới mẻ cùng với
“ khúc tráng ca” giàu ý nghĩa.
- Dạng 3: Nghị luận về một khía cạnh, phương diện của tác phẩm thơ:
+ Dạng bài này yêu cầu người viết phải nghị luận về một khía cạnh nào đó
về nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm.
+ Giáo viên hướng dẫn HS xác định vấn đề nghị luận được thể hiện trong
những câu thơ, đoạn thơ nào đó. Phân tích những dữ liệu đó rồi khái quát vai trò, ý
nghĩa của chúng trong việc tạo nên giá trị nội dung và sức hấp dẫn của tác phẩm.
Ví dụ: Hình ảnh cây tre trong bài: “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương .
Gợi ý phân tích:
Giới thiệu khái quát nội dung bài thơ và hình ảnh tre trong tác phẩm.
Phân tích ý nghĩa của hình ảnh tre trong việc thể hiện tình cảm của tác giả.
+ Hàng tre bát ngát (hình ảnh tả thực) gợi cuộc sống giản đơn, gần gũi của
Hồ Chí Minh.
+ Hàng tre xanh xanh Việt Nam - bão táp mưa sa ...-> ẩn dụ trở thành biểu
tượng cho con người và dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường, bền bỉ, dẻo dai.
+ Ước nguyện “Muốn làm cây tre ... chốn này”-> ẩn dụ: Nhà thơ và nhân
dân mãi ở bên Người, canh giấc ngủ cho Người, thể hiện phẩm chất trung hiếu của
con người Việt Nam.
+ Khẳng định hình ảnh tre trong bài thơ, tạo kết cấu đầu cuối tương ứng.
Tuy không phải là một hình tượng chính nhưng nó đã góp phần tôn thêm vẻ đẹp
của Người, thể hiện lòng thành kính, niềm xúc động sâu sắc của tác giả cũng như
nhân dân đối với Bác.
+ Liên hệ, mở rộng tới một số tác phẩm viết về tre. (Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)
- Dạng 4: Kiểu bài so sánh:
Với dạng bài này học sinh cần:
+ So sánh nét tương đồng hoặc khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình
diện nội dung và nghệ thuật.
+ Lý giải sự khác biệt (dựa vào bối cảnh xã hội, phong cách của nhà văn,

đặc trưng thi pháp của từng giai đoạn văn học...)
+ Đánh giá chung và mở rộng.
Ví dụ: So sánh hình ảnh người lính cách mạng qua hai bài thơ: “ Đồng chí”
của Chính Hữu và “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
9


GV gợi ý:
Những điểm chung:
+ Yêu nước, yêu quê hương, yêu đồng chí:
Có thể phân tích các câu thơ: “ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” và
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”. Cùng với cử chỉ nắm tay chất chứa bao
tình cảm không lời trong cả hai bài thơ.
+ Họ đều vượt qua khó khăn gian khổ quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành
nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả.
+ Tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng.
Những điểm khác biệt:
+ Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu khắc họa hình ảnh người lính nông
dân thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sâu
sắc. Tình đồng chí thiêng liêng hòa quyện với tình yêu nước khi lí tưởng chiến đấu
đã rực sáng trong tâm hồn:
“ Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
+ Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật thể hiện
người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ với vẻ đẹp trẻ trung, ngang
tàng. Đây là thế hệ người lính có học vấn, có bản lĩnh chiến đấu,có tâm hồn nhạy
cảm, có tính cách riêng mang chất lính đáng yêu. Họ có trái tim yêu nước cháy
bỏng, lòng nhiệt huyết căng tràn:
“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Đánh giá chung:
Hình tượng người lính dù ở thời kì chống Pháp hay chống Mỹ đều mang
phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ
những nguyên mẫu đẹp đẽ, họ tạo nên những hình tượng làm xúc động lòng người.
c. Giáo viên rèn luyện cho học sinh thành thạo một số kĩ năng
* Rèn kĩ năng xác định yêu cầu của kiểu bài để có phương pháp nghị luận phù hợp
Đối với đề văn nghị luận về bài thơ, đoạn thơ GV lưu ý với HS:
- Đề có các từ: Phân tích, suy nghĩ, cảm nhận (phần câu lệnh) thường đặt
ra yêu cầu cụ thể:
+ Phân tích: Nói tới phân tích tức là nói tới việc mổ xẻ, chia tách đối tượng
ra thành các phương diện, các bộ phận khác nhau để tìm hiểu, khám phá, cắt
nghĩa. Cái đích cuối cùng là nhằm để tổng hợp, khái quát, chỉ ra được sự thống
nhất. Như vậy, phân tích là yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét của
người viết (người nói).
Ví dụ: Phân tích khổ đầu trong bài “ Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Cần làm rõ những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời.
- Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình:
+ Hương ổi phả trong gió se.
+ Từ “phả”: động từ có nghĩa là toả vào, trộn lẫn -> gợi mùi hương ổi ở độ
đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, hoà vào trong gió heo may của mùa thu, lan toả
10


khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát - hương thơm nồng nàn hấp dẫn
của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt Nam. Đó là thứ hương vị
đặc biệt – hương thu ở miền Bắc Việt Nam.
+ Sương chùng chình: những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc như một làn
sương mỏng nhẹ nhàng trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển
động chầm chậm sang thu. Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn như thiếu nữ,

như nàng tiên thu.
- Cảm xúc của nhà thơ:
+ Tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng. Nhà thơ giật mình, hơi bối
rối, hình như còn có chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận.
->những cảm nhận nhẹ nhàng, thoáng qua hay là vì quá đột ngột mà tác giả
chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của cảnh
vật. Từng cảnh sang thu thấp thoáng hồn người: chùng chình, bịn rịn, lưu luyến.
+ Suy nghĩ: Là nhận xét, nhận định, phân tích về tác phẩm của người viết.
Ví dụ: Suy nghĩ của em về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.
GV hướng dẫn HS nhận xét, đánh giá, phân tích về một số nội dung sau:
Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu.
- Hình ảnh đầu tiên được tác giả tái hiện là hình ảnh một bếp lửa ở làng quê
Việt Nam thời thơ ấu.
- Từ hình ảnh bếp lửa, liên tưởng tự nhiên đến người nhóm lửa, nhóm bếp đến nỗi nhớ, tình thương bà của đứa cháu đang ở xa: "Cháu thương bà biết mấy
nắng mưa”.-> là cách nói ẩn dụ, gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà.
- Bếp lửa lại đánh thức thêm một kỉ niệm tuổi thơ: Những kỉ niệm đầy ắp
âm thanh, ánh sáng và những tình cảm sâu sắc xung quanh cái bếp lửa quê hương.
Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa.
- Bà tần tảo, chịu thương chịu khó, lặng lẽ hi sinh cả một đời:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
………………………
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
- Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa. Chính vì thế mà nhà thơ đã
cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng
liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa!”
=> Như vậy, từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về
ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự
sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Niềm thương nhớ của cháu:

- Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành. Cháu đã được sống với những
niềm vui rộng mở, nhưng cháu vẫn không thể quên bếp lửa của bà, vẫn không
nguôi nhớ thương bà….
-Mỗi ngày đều tự hỏi: “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?", mỗi ngày đều
nhớ về bà và bếp lửa của bà. Hình ảnh ấy đã trở thành kỉ niệm thiêng liêng làm ấm
lòng, nâng đỡ cháu trên những bước đường đời.
11


Khái quát: Bài thơ chứa đựng ý nghĩa triết lí thầm kín: những gì là thân
thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt
hành trình dài rộng của cuộc đời.
- Bài thơ sáng tạo hình tượng bếp lửa vừa thực, vừa mang ý nghĩa biểu
tượng; kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận; giọng điệu và thể thơ tám
chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng, suy ngẫm.
+ Cảm nhận: Là cảm thụ của người viết về một hay nhiều ấn tượng mà tác
phẩm để lại sâu sắc trong lòng người đọc về nội dung hay nghệ thuật hoặc cả nội
dung và nghệ thuật.
Ví dụ: Cảm nhận của em về tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
qua nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du.
Với đề này HS cần thể hiện sự cảm nhận về:
* Tâm trạng của Thuý Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:
- Đó là tâm trạng cô đơn buồn tủi, đau đớn xót xa .
- Nàng nhớ đến Kim trọng, thương chàng .
- Nàng thương cha mẹ già thiếu người chăm sóc.
- Nàng nghĩ về hiện tại của bản thân thì thấy buồn dâng lớp lớp như tâm
trạng ngổn ngang trước một tương lai mờ mịt, bế tắc.
* Nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nguyễn Du:
- Nhà thơ sử dụng ngoại cảnh để tả tâm cảnh.
- Vừa tạo ra sự đối lập Thiên nhiên rộng lớn- con người nhỏ bé cô đơn vừa

tạo ra sự tuơng đồng: cảnh ngổn ngang - tâm trạng ngổn ngang, cảnh mờ mịt nhạt
nhoà - tâm trạng u buồn, bế tắc.
- Nguyễn Du sử dụng điệp ngữ, các từ láy tạo nên sự trùng điệp như nỗi
lòng của Kiều đang "Lớp lớp sóng dồi".
* Phần kết:
- Khẳng định nghệ thuật Vịnh cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào
Nguyễn Du.
- Xót thương số phận tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều.
- Căm ghét xã hội phong kiến xấu xa, thối nát, tàn ác ở góc nhìn nào đó về
chủ đề, đề tài, hình tượng nhân vật, nghệ thuật…
Như vậy, từ “phân tích” chỉ định về phương pháp; từ “suy nghĩ” nhấn mạnh
tới nhận định, phân tích; từ “cảm nhận” lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của người
viết. Nếu học sinh không hiểu đề bài yêu cầu gì đi nữa thì học sinh đều phân tích
hết. Song dù với kiểu đề gì thì cũng cần phải nắm chắc được những đơn vị kiến
thức, có sự rung động và cảm nhận sâu sắc được những cái hay, cái đẹp về nội
dung về nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ thì các em sẽ giải quyết được vấn đề một
cách êm xuôi.
* Kĩ năng tìm hiểu đề:
GV cần khắc sâu cho học sinh tầm quan trọng của phần tìm hiểu đề, cần trả
lời cho được 4 câu hỏi sau:
- Đề đặt ra vấn đề gì cần giải quyết? Viết lại rõ ràng luận đề ra giấy.
* Lưu ý: Có 2 dạng đề:
12


+ Đề nổi HS dễ dàng nhận ra và gạch dưới luận đề trong đề bài.
+ Đề chìm, HS cần nhớ lại bài học về tác phẩm, dựa vào chủ đề của bài đó
mà xác định luận đề.
- Đề yêu cầu nghị luận theo kiểu bài nào trong các kiểu thường gặp?
+ Nghị luận về bài thơ.

+ Nghị luận về đoạn thơ.
+ Nghị luận về hình tượng.
- Cần sử dụng những thao tác nghị luận nào? Thao tác nào là chính?
- Để giải quyết vấn đề cần sử dụng những dẫn chứng nào? Ở đâu?
* Kĩ năng tìm ý:
Có nhiều cách tìm ý:
- Tìm ý bằng cách lập câu hỏi: Tác phẩm hay ở chỗ nào? Nó xúc động ở
tình cảm, tư tưởng gì? Cái hay thể hiện ở hình thức nghệ thuật nào? Hình thức đó
được xây dựng bằng những thủ pháp nào?
- Tìm ý bằng cách đi sâu vào những hình ảnh, từ ngữ, tầng nghĩa của tác
phẩm,…
* Kĩ năng lập dàn ý:.
Đây là nội dung mà phần nhiều học sinh rất ngại thực hiện. Ở mỗi tiết dạy
cách làm bài tôi thường được nghe câu: “Thưa thầy (cô), lập dàn ý khó lắm! Lập
sao được ạ?”. Các em chỉ muốn thực hiện luôn khâu viết bài để viết một cách tùy
hứng nên thường viết lan man, không rõ ý, bài viết không có trọng tâm. GV hướng
dẫn HS lập dàn ý theo bố cục 3 phần:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, giới thiệu bài thơ, đoạn thơ (hoàn cảnh sáng tác, vị trí
của đoạn thơ…)
- Dẫn bài thơ, đoạn thơ.
* Thân bài:
- Làm rõ nội dung tư tưởng, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ (Phân tích theo
từng câu, cặp câu, bám sát vào từ ngữ mang giá trị nghệ thuật trong từng câu thơ
=> làm nổi bật giá trị nghệ thuật, cái hay, cái đẹp của bài thơ)
- Bình luận về giá trị của bài thơ, đoạn thơ; cái hay, cái đẹp, giá trị tư tưởng
mà nó mang lại cho người đọc.
Cụ thể HS cần xác định rõ từng luận điểm:
- Nêu luận điểm 1 – luận cứ 1 – luận cứ 2,…(Các luận điểm, luận cứ này
chính là các ý 1,2,3…ý a, ý b,..mà các thầy cô đã giảng dạy trong bài học về tác

phẩm ấy).
Học sinh cần chỉ ra giá trị nội dung thứ nhất là gì, trong đó chứa đựng giá trị
nghệ thuật gì?, giá trị tư tưởng tình cảm gì?,…
- Nêu luận điểm 2 – luận cứ 1 – luận cứ 2,…Cần chỉ ra giá trị nội dung thứ
2, trong đó chứa đựng giá trị nghệ thuật gì, giá trị tư tưởng tình cảm gì?,…
- Nhận định chung: khắc sâu giá trị tư tưởng – chỉ ra thành công về nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm .
- Kết hợp liên hệ, so sánh với các tác giả, tác phẩm khác để làm rõ nét riêng
của tác phẩm.
13


* Kết bài:
Đánh giá vai trò và ý nghĩa đoạn thơ, bài thơ trong việc thể hiện nội dung tư
tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
Giáo viên hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho đề bài cụ thể, ngoài VD
trong SGK.
Ví dụ như: Cảm nhận của em về bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy.
a. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nguyễn Duy viết “Ánh trăng” như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân
tình với chính mình, với mọi người về lẽ sống chung thuỷ, nghĩa tình.
b. Thân bài:
* Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ:
- Trước hết là hình ảnh vầng trăng tình nghĩa, hiền hậu, bình dị gắn liền với
kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê.
- Trăng thành người bạn tri kỉ, gắn với những kỉ niệm không thể nào quên
của người lính trong những năm tháng gian lao nơi chiến trường,
-> Lời thơ kể không tả mà có sức gợi nhớ, âm điệu của lời thơ như trùng
xuống trong mạch cảm xúc bồi hồi.

* Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại.
- Sự thay đổi của hoàn cảnh sống- không gian khác biệt, thời gian cách biệt,
điều kiện sống cách biệt, cuộc sống công nghiệp hoá, hiện đại hoá của điện gương
đã làm át đi sức sống của ánh trăng trong tâm hồn con người...
- Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành “người dưng” - người khách
qua đường xa lạ. => Một sự thay đổi phũ phàng khiến người ta không khỏi nhói
đau. Tình cảm xưa kia nay chia lìa.
* Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng.
- Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một thời điểm
không ngờ. ..
- Bất ngờ đối diện với vầng trăng, con người đã có cử chỉ "ngẩng mặt", tâm
trạng “rưng rưng” .
- Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào.
- Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản
bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên.
c. Kết bài:
"Ánh trăng" - một hình ảnh rất giản dị nhưng mang triết lí sâu xa. Nó gợi ra
trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm người “uống
nước nhớ nguồn” ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.
Sau khi đã nắm được các bước làm, giáo viên giao bài tập để học sinh lần
lượt thực thực hành kĩ năng ở phần chuẩn bị cho tiết luyện nói hoặc giao bài tập
về nhà và chữa bài vào các buổi học phụ đạo.
* Kĩ năng làm và viết đoạn văn

14


Trong chương trình, học sinh học nghị luận văn học về tác phẩm truyện
hoặc đoạn trích; về một đoạn thơ, bài thơ, giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết
bài văn phải có bố cục đầy đủ gồm ba phần: mở bài, thân bài, kết bài.

Đối với bài thơ, học sinh phải xác định được bố cục. Phân tích theo lối cắt
ngang ở từng đoạn thơ, khổ thơ.
Từ văn bản thơ, học sinh tiến hành chia đoạn và tìm những ý chính của mỗi
đoạn. đối với từng khổ thơ, đoạn thơ, câu thơ vẫn có thể chia tách ra thành các ý
nhỏ được. Sau khi tìm được ý chính của mỗi đoạn thì biến những ý chính ấy thành
các luận điểm.
Ban đầu tập cho học sinh phân tích một câu, rồi đến hai câu. Từ hai câu rồi
đến một khổ thơ, từ khổ thơ (đoạn thơ) rồi đến bài thơ.
Ví dụ: Khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồn cùng gió khơi.
Giáo viên tâp cho học sinh phân tích câu thơ thứ nhất, rồi đến câu thơ thứ
hai. Phân tích một lượt hai câu (một và hai). Trong khi hướng dẫn học sinh phân
tích lưu ý cho học sinh không thể cắt ngang câu 3 vì câu thơ thứ 3 và câu thứ 4
cùng nói về hoàn cảnh đoàn thuyền ra khơi, còn câu 1 và 2 là cảnh thiên nhiên khi
đoàn thuyền ra khơi. Cho nên để tách thành các ý nhỏ chỉ cắt câu thơ 1 và 2 ở khổ
thơ trên.
Phân tích nghệ thuật cũng là nhằm biểu đạt nội dung, một ý tưởng nào đấy
mà tác giả muốn gửi gắm.
Lưu ý là tránh diễn nôm các câu thơ thành văn xuôi. Khi tiến hành diễn
thành văn xuôi, thuật lại ý, tứ của câu chỉ trong trường hợp cái ý, tứ ấy rất mơ hồ,
mỗi người hiểu một cách khác nhau.
Hướng dẫn cụ thể ở từng phần:
* Mở bài:
Giáo viên trình bày quy trình ở đoạn văn phần mở bài về đoạn thơ, bài thơ
để học sinh nhận biết qua đối chiếu sau
1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác phẩm -> (3) Thời điểm, hoàn cảnh sáng
tác -> (4) Vấn đề cần bàn bạc -> (5) Nêu ý kiến, đánh giá sơ bộ của mình về vấn

đề . Giáo viên lưu ý cho học sinh có thể mở bài theo trình tự như thế nhưng cách
trình bày trên là không bắt buộc. điều bắt buộc về nội dung phải có là (2) và (5) ở
mỗi phần.
Về giới thiệu tác giả, mỗi tác giả, học sinh phải thuộc ít nhất một câu.
* Ví dụ:
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
- Thanh Hải là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách
mạng miền Nam từ những ngày đầu.
* Ví dụ minh họa phần mở bài:
Đề bài: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
15


Thanh Hải - người con xứ Huế, là một trong những cây bút có công xây
dưng nền văn học cách mạng miền Nam từ những ngày đầu. Nhắc đến Thanh Hải
không thể không nhắc đến “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ được viết trước khi nhà
thơ qua đời không lâu, thể hiện niềm yêu mến tha thiết cuộc sống, đất nước và ước
nguyện chân thành của tác giả.
- Cách mở bài gián tiếp được áp dụng với học sinh khá, giỏi.
Mùa xuân là đề tài, nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân. Mùa xuân thường
khơi dậy niềm lạc quan, yêu đời cùng những cảm xúc, rung động phong phú trong
lòng nhà thơ để rồi bao bài thơ nổi tiếng được thăng hoa. Với Thanh Hải, một
người con xứ Huế, trước cảnh đất trời, quê hương đổi mới, mùa xuân đã trào dâng
trong tâm hồn thi nhân một niềm say đắm mãnh liệt. Tình cảm ấy được gởi gắm
qua bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”.
Sau khi đã trang bị phần lí thuyết về đoạn mở bài, giáo viên cung cấp hệ
thống bài tập để rèn kĩ năng viết đoạn mở bài cho học sinh theo các cách thức sau:
- Xen hoặc lồng các dạng bài tập có chứa đoạn mở bài.
Trong chương trình SGK mới không có tiết rèn luyện kĩ năng xây dựng
đoạn văn mở bài, giáo viên phải xen lồng từng dạng bài tập dựng đoạn mở bài

trong các tiết học lý thuyết. Đặc biệt trong các tiết học phụ đaọ, tiết trả bài giáo
viên đã cố gắng đưa các bài tập chữa lỗi mà học sinh hay mắc phải để các em rút
kinh nghiệm: chữa lỗi về cách dùng từ, đặt câu, cách dẫn dắt vào đề… Từ đó,
hướng HS đến cách mở bài vừa chính xác, vừa gây ấn tượng với người đọc.
- Hướng dẫn HS tự viết mở bài theo cách giới thiệu về tác phẩm đã học.
Sau khi học xong một tác phẩm, giáo viên cố gắng hướng dẫn học sinh rèn
luyện cách giới thiệu về tác phẩm mình vừa học dựa vào mục Giới thiệu chung
trong mỗi văn bản. Giúp học sinh nhớ rõ những nét tiêu biểu của tác giả, tác phẩm
hoặc kết hợp trong các tiết luyện nói để rèn cho các em sự tự tin, mạnh dạn trình
bày một vấn đề trước đám đông. Đó cũng là cách giúp các em rèn luyện thêm kĩ
năng khi viết phần mở bài cho bài văn nghị luận về tác phẩm văn học nói chung và
thơ nói riêng.
- Giao bài tập về nhà cho học sinh.
Cùng với việc thực hiện các cách thức trên giáo viên còn giao bài tập về nhà
theo từng đối tượng học sinh hướng các em đến cách viết đúng, giới thiệu được
luận đề của bài viết. Thông qua đó, giáo viên có thể phát hiện ra những điểm sáng
tạo hoặc sai lệch của các em để kịp thời động viên và uốn nắn.Các dạng bài tập
đối với HS như:
+ Bài tập nhận diện đoạn văn mở bài.
+ Bài tập chữa lỗi để hoàn chỉnh đoạn mở bài.
+ Bài tập rèn luyện viết đoạn mở bài.
* Thân bài:
Để xây dựng đoạn văn ở phần thân bài, đầu tiên, giáo viên phải hình thành
cho học sinh quy trình xây dựng đoạn khi phân tích một đoạn thơ, khổ thơ như sau:
(1) Nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy (câu này gọi là
câu dẫn) -> (2) Dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ -> (3) Giảng giải, cắt nghĩa (từ, ngữ,
16


câu thơ) -> (4) Liên hệ, mở rộng, so sánh -> (5) Nhận xét cách sử dụng nghệ thuật

và phân tích nghệ thuật ấy (chú ý vào các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, mà ở đó,
các ý nghĩa độc đáo, tài năng nghệ thuật của tác giả được bộc lộ - lựa chọn chi tiết
không dàn trải) -> (6) Nhận xét, đánh giá về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ (phần
này có thể về cảnh, về tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình trực tiếp hoặc
nhân vật trữ tình nhập vai).
Các câu (1), (2), (5), (6) thường bắt buộc phải có khi phân tích. Câu (3), (4)
tùy theo đoạn thơ, khổ thơ mà thực hiện. Riêng câu (4) học sinh khá, giỏi thường
dùng để mở rộng ý.
Ví dụ : Phân tích khổ thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
(Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
Viết đoạn:
(1) Từ cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, nhà thơ đã có ước
nguyện:
(2) “Ta làm con chim hót
................................
Một nốt trầm xao xuyến”
(3) Nhà thơ muốn làm con chim hót để làm vui cho cuộc đời, muốn làm một
cành hoa để khoe sắc và tỏa ngát hương thơm làm đẹp cuộc đời, muốn làm một
nốt trầm trong bản hòa ca đẻ làm tăng ý nghĩa cuộc đời. (4) Nhà thơ đã dùng
những hình ảnh đẹp của tự nhiên như bông hoa, con chim để nói lên ước nguyện
của mình. Những hình ảnh ấy được lặp lại, trở lại mang một ý nghĩa mới: niềm
mong muốn được sống có ích, cống hiến có ích cho đời. Cũng trong thời gian này,
nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài “Một khúc xuân” những suy ngẫm tương tự:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” .
Nét riêng trong những câu thơ của Thanh Hải là ở chỗ nó đề cập đến một
vấn đề lớn nhân sinh quan – vấn đề ý nghĩa của đời sống cá nhân trong mối quan
hệ với cộng đồng – một cách thiết tha, nhỏ nhẹ, khiêm nhường được thể hiện qua
những hình tượng đơn sơ mà chưa đựng nhiều xúc cảm.
(4’)Nếu khi bắt đầu vào bài thơ, nhà thơ xưng “tôi” - “Tôi đưa tay tôi
hứng” thì giờ đây, tác giả đã chuyển sang ta. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên.
Với chữ ta vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt, cá
thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. (5) Cách sử dụng điệp ngữ “ta
làm” láy đi láy lại thật tha thiết, chân thành. (6) Nhà thơ có một ước nguyện nhỏ
bé, một phương châm sống thật cao đẹp được hòa nhập và cống hiến cho đời.
Từ đoạn văn trên, học sinh sẽ nhận thấy như quy trình trên :
17


Câu (1) nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy.
Câu (2) dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ.
Câu (3) giảng giải, cắt nghĩa.
Câu (4), (4’) là liên hệ, mở rộng, so sánh.
Câu (5) là nhận xét cách sử dụng nghệ thuật.
Câu (6) là nhận xét, đánh giá về nội dung.
Đối với học sinh yếu thì không thể thực hiện những câu (4), (4’) mà dành
cho học sinh khá, giỏi. Khi học sinh đã quen thì hướng dẫn cho đối tượng trung
bình, yếu thực hiện những câu (4), (4’).
* Kết bài:
Theo sách giáo khoa phần kết bài đối với nghị luận về một đoạn thơ, bài
thơ: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ bài thơ. Phần này giáo viên cần cụ thể
hơn để học sinh hiểu:
+ Khái quát giá trị, ý nghĩa: có thể về nghệ thuật, nội dung hoặc vị trí của
đoạn thơ, bài thơ trong dòng văn học ấy.

+ Hoặc rút ra ý nghĩa giáo dục.
Ví dụ: Phân tích bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
Bằng từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, nhà thơ thể hiện tình cảm gia đình
đầm ấm, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân
tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân
tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống, với quê hương và ý chí vươn
lên trong cuộc sống.
Có nhiều cách, nhiều kiểu kết bài ( kết bài bằng cách tóm lược, kết bài bằng
cách bình luận, mở rộng và nâng cao...). Dù theo cách nào thì kết bài cũng nhằm
khắc sâu kết luận của người viết để lại ấn tượng cho người đọc và nhấn mạnh ý
nghĩa của vấn đề đã được nghị luận. Song số đông học sinh còn rất lúng túng ở
phần kết bài, có thể do áp lực thời gian, tâm lí hoặc không biết cách làm. Trong
trường hợp này giáo viên lưu ý cho học sinh, khi hết giờ làm bài có thể trình bày
ngắn gọn về cảm nhận của mình về đoạn thơ, bài thơ cũng được.
Ví dụ:
- Thơ ca Việt Nam có những câu thơ, bài thơ hay viết về mùa thu. Đến lượt
mình, Hữu Thỉnh lại làm cho mùa thu có một hương sắc mới.
Như vậy, để viết được một bài văn nghị luận về bài thơ, đoạn thơ hay, ngoài
việc nắm vững đặc trưng thể loại của thơ và có khả năng cảm thụ tốt về tác phẩm
thơ thì việc rèn luyện các lĩ năng phân tích đè, lập ý, lập dàn ý và kĩ năng xây
dựng đoạn, liên kết đoạn là vô cùng quan trọng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Nhờ có sự đổi mới trong phương pháp dạy và học nên chất lượng bài viết
nghị luận về tác phẩm văn học nói chung và nghị luận về bài thơ, đoạn thơ nói
riêng của học sinh được nâng cao rõ rệt. Đa số bài làm của các em đều đáp ứng
được yêu cầu về nội dung, thể loại. học sinh nắm vững hơn về phương pháp làm
văn nghị luận về tác phẩm văn học; biết xây dựng luận điểm, trình bày các luận
18



cứ rõ ràng, biết sắp xếp ý theo trình tự hợp lý hơn. Có nhiều học sinh cảm thụ sâu
sắc về tác phẩm, có sự tìm tòi sáng tạo và tinh tế khi viết bài nghị luận. Nhiều em
tránh được lỗi diễn đạt rườm rà, không rõ ràng.
Những giải pháp nêu trong đề tài đã được người viết áp dụng có hiệu quả ở
khối lớp 9, trường THCS Tân Sơn, năm học 2019 – 2020. Qua kiểm tra khảo sát,
kết quả đạt được là:
Lớp

Tổng số
học sinh

Điểm giỏi

Điểm khá

SL

SL

%

%

Điểm TB
SL

%

Điểm yếu

SL

%

9A

39

09

23,07 18

46,16

10

25,65

2

5,12

9B

40

10

25,0
0


50,00

08

20,00

2

5,00

20

Như vậy, so với kết quả ban đầu thì các con số đạt được đã tăng lên đáng kể.
Điều này cho thấy việc tìm tòi, học tập, đổi mới phương pháp dạy học của giáo
viên là hoàn toàn đúng đắn và cần phát huy.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
* Kết luận
Trong giảng dạy, bên cạnh việc giúp học sinh nắm bắt kiến thức trọng tâm
của bài học thì việc rèn luyện kĩ năng sẽ giúp học sinh có định hướng trong việc
tìm hiểu, phân tích tác phẩm văn học và tạo lập văn bản khi thực hành. Việc hướng
dẫn học sinh cách làm văn nghị luận về tác phẩm văn học sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học, đáp ứng được chuẩn kiến thức và kĩ năng trong phương
pháp dạy học mới hiện nay.
Kinh nghiệm trên là rút từ thực tế khi hướng dẫn học sinh trong giảng dạy
và tiếp tục hướng dẫn học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học
nói chung, bài thơ, đoạn thơ nói riêng. Kinh nghiệm đã giúp học sinh có kĩ năng
làm bài, gỡ bí cho học sinh nhất là đối tượng học sinh từ trung bình trở xuống, đã
từng bước nâng cao chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Ngữ văn.

Tuy nhiên, đó chỉ là kinh nghiệm mang tính chất chủ quan, có thể đã được
nhiều đồng nghiệp thử nghiệm trong quá trình giảng dạy. Rất mong sự đóng góp ý
kiến, trao đổi, bổ sung của các bạn đồng nghiệp.
* Kiến nghị
- Với tính hiệu quả của cách dạy học trên, tôi rất mong muốn chỉ đạo
chuyên môn các cấp nghiên cứu đưa vào sử dụng để việc dạy học văn nghị luận về
bài thơ, đoạn thơ trong chương trình ngữ văn 9 đạt kết quả tốt nhất.
- Các thầy giáo, cô giáo cần nắm vững các nguyên tắc dạy học văn và kết
hợp các phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm của mỗi thể loại, chú trọng
đến việc rèn luyện kĩ năng làm bài Tập làm văn, tăng cường thực hành cho học sinh.
19


- Các cấp quản lí giáo dục tổ chức các chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ
văn trong các năm học để giáo viên có cơ hội được học tập, trao đổi kinh nghiệm,
bàn luận tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả, góp phần tích cực vào việc nâng
cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn.
- Thời gian nghiên cứu chưa nhiều, bài viết không tránh khỏi sai sót nên tôi
rất mong có sự nhận xét, đóng góp của đồng nghiệp để đề tài của tôi có chất lượng
hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin chân thành cảm ơn !
Tân Sơn, ngày 20 tháng 05 năm 2020
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Lê Thị Vân Anh


20



×