Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực đọc hiểu cho học sinh trung học phổ thông qua một số dạng đề nghị luận về đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.3 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT HÀ TRUNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU CHO
HỌC SINH THPT QUA MỘT SỐ DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VỀ
ĐOẠN TRÍCH TRONG TÁC PHẨM VĂN XUÔI

Người thực hiện : Hoàng Thị Ngọc Lan
Chức vụ :

Giáo viên

SKKN thuộc lĩnh vực (môn) : Ngữ văn


THANH HÓA, NĂM 2020
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU……………………………………………………...................... ……1
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………...1
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………….1
1.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………2
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………..2
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….2
2. NỘI DUNG………………………………………………………………………2
2.1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn……………………………………………...2
2.1.1. Cơ sở lí luận……………………………….………………………………....2
2.1.2. Cơ sở thực tiễn…………………………… ………………………………....3
2.2. Các giải pháp thực hiện vấn đề ………..………………………………….....4


2.2.1. Tri thức đọc hiểu văn bản văn học………………………..………………...4
2.2.2. Nâng cao năng lực đọc hiểu qua dạng đề nghị luận về đoạn văn
trong tác phẩm văn xuôi…………………………………………………………...5
2.2.3. Nâng cao năng lực đọc hiểu qua dạng đề nghị luận về nhân vật trong
trích đoạn tác phẩm văn xuôi…………………………………………………….13
2.3. Hiệu quả của ứng dụng sáng kiên kinh nghiệm trong thực tiễn giảng
dạy……………………. ………………………………………………………….18
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………………...19
3.1. Kết luận………………………………………………………………………19
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………………..20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Quốc Anh - Hà Bình Trị- Nguyễn Quang Cương (1990), Mẹo luật viết văn
hay và những bài văn hay mới nhất (NXB Trường ĐHSP Qui Nhơn).
2. Bộ giáo dục và Đào tạo (2010), Nghiên cứu Khoa học sư phạm ứng dụng, (NXB
Đại học sư phạm).
3. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Muốn viết được bài văn hay (NXB Giáo dục).
4. Nhà Xuất bản Giáo Dục (2014), Ngữ văn 8, tập 1, tr. 34
5. Nhà Xuất bản Giáo Dục (2014), Ngữ văn 9, tập 2, tr. 43
6. Nhà Xuất bản Giáo Dục (2014), Ngữ văn 10, tập 1, 2.
7. Nhà Xuất bản Giáo Dục (2014), Ngữ văn 11, tập1, 2.
8. Nhà Xuất bản Giáo Dục (2014), Ngữ văn 12, tập 1, 2.
9. Đinh Xuân Quỳnh (1999), Ngữ pháp văn bản (Trường Đại học sư phạm Huế).
10. Sở giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa (2017), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên Trung
học phổ thông (Tài liệu lưu hành nội bộ).


4


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử giáo dục của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng, đọc hiểu vốn là một trong những nội dung cốt yếu ở nhà trường phổ thông
bởi tầm quan trọng của nó. Năng lực đọc hiểu văn bản chính là năng lực công cụ:
“Biết đọc, biết viết là cơ sở và công cụ cho việc học những nội dung khác, những
môn học khác. Ban đầu là học để biết đọc, biết viết, sau đó thông qua đọc và viết
để học, học trong nhà trường và học suốt đời. Cũng phải thông qua đọc và viết thì
làm mới có hiệu quả cao”. Do đó “dạy đọc hiểu là tạo nền tảng văn hóa cho người
đọc”.
Chương trình Ngữ văn THPT hiện nay, các tiết đọc hiểu văn bản, trong đó bao
gồm cả văn bản văn học và văn bản nhật dụng chiếm thời lượng tương đối lớn. Kĩ
năng đọc- hiểu văn bản cũng là một kĩ năng cơ bản mà giáo viên dạy Ngữ văn cần
phải hình thành cho học sinh trong suốt quá trình học tập. Đây cũng là một trong
hai kĩ năng quan trọng (cùng với kĩ năng viết- tạo lập văn bản) của học sinh cần thể
hiện trong công tác kiểm tra, đánh giá thông qua các kì thi mà Bộ GD & ĐT yêu
cầu. Trong những năm gần đây, đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn có sự thay đổi
lớn từ cấu trúc, nội dung đến thời gian thi, các đề văn “mở” hơn và yêu cầu đối với
kĩ năng đọc- hiểu đối với học sinh cũng được chú ý nhiều hơn. Đặc biệt, trong năm
học 2014- 2015 với sự chỉ đạo “đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học
tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh”, các bài tập đọc hiểu và ứng dụng
kỹ năng đọc hiểu trong việc tạo lập văn bản ở câu nghị luận văn học đã trở thành
một phần không thể thiếu trong các đề thi, kiểm tra. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng
đọc- hiểu cho học sinh như thế nào để đạt hiệu quả tối ưu là điều mà bất cứ giáo
viên dạy Ngữ văn nào cũng quan tâm và trăn trở.
Xuất phát từ những lí do đó, chúng tôi đã tăng cường nhiều biện pháp, nhiều
dạng bài tập để nâng cao năng lực đọc hiểu cho học sinh, trong đó chú ý đến việc
tích hợp rèn luyện kĩ năng đọc hiểu gắn liền với kĩ năng viết bài nghị luận về đoạn
trích trong tác phẩm văn xuôi bởi lẽ với dạng đề nghị luận này, do kỹ năng đọc hiểu
và cảm thụ văn chương còn nhiều hạn chế, chưa biết cách khai thác chi tiết và đánh

giá khái quát vấn đề nên học sinh rất hoang mang và lúng túng trong việc nhận thức
đề và xử lí đề. Chính vì vậy, bình thường nhiều học sinh vốn đã không thích học
văn, ngại đọc văn bản tác phẩm văn xuôi nay lại thêm nản do đề thi khó, dẫn đến
kết quả bài làm không cao. Trước thực trạng đáng lo ngại này đã thôi thúc người
viết quyết định nghiên cứu và thực hiện đề tài : “Giải pháp nâng cao năng lực
đọc- hiểu cho học sinh trung học phổ thông qua một số dạng đề nghị luận về
đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Hình thành phương pháp và rèn luyện năng lực đọc hiểu để học sinh chủ động,
tự tin trong nhận thức và xử lí đề thi, tạo cho các em cơ sở tiếp cận các văn bản tác
phẩm tự nhiên để từ đó có thêm hứng thú với bộ môn Ngữ văn.


5

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Năng lực đọc hiểu ,vận dụng kĩ năng đọc hiểu vào quy trình nhận thức và xử lí
dạng đề nghị luận về đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi theo định hướng cấu trúc
đề thi THPT Quốc gia.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến năng lực đọc hiểu phương pháp,
kỹ năng làm bài nghị luận văn học; Điều tra khảo sát nắm bắt tình hình thực tế,
tiến hành thực nghiệm rèn luyện kỹ năng viết bài nghị luận bằng các đề cụ thể về
một số đoạn trích ở các tác phẩm văn xuôi trong chương trình lớp 12 cho học sinh.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài hướng đến nghiên cứu năng lực đọc hiểu và tích hợp kĩ năng đọc hiểu
với phương pháp làm bài nghị luận về đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi theo cấu
trúc đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn với đối tượng là học sinh học ban cơ
bản. Ngưỡng tiếp nhận của các em còn thấp nên để phù hợp với cách đổi mới đề thi
tốt nghiệp, đề tài đã đưa ra những bước đi, những biện pháp cụ thể, phù hợp với

một số dạng đề thường gặp.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
2.1.1. Cơ sở lí luận
Trong quá trình đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục THPT nói
riêng, mục tiêu, nội dung giáo dục đã được đổi mới, đáp ứng nhu cầu mới của nền
kinh tế xã hội đang phát triển. Tài liệu tập huấn “Dạy học và kiểm tra đánh giá kết
quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh” của Bộ Giáo dục và đào
tạo (năm 2014) đã xác định rõ: “Dạy học đọc- hiểu là một trong những nội dung cơ
bản của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong việc tiếp nhận văn bản. Cách
dạy đọc- hiểu không nhằm truyền thụ một chiều cho học sinh những cảm nhận của
giáo viên về văn bản được học, mà hướng đến việc cung cấp cho học sinh cách đọc,
cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó
hình thành năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân…”. Tài
liệu cũng đã nêu rõ các nhiệm vụ và các nội dung cơ bản mà học sinh cần đạt được
trong quá trình dạy học đọc hiểu. Theo đó học sinh cần thực hiện được các nội
dung: huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân có liên quan đến chủ
đề, thể loại văn bản; thể hiện những hiểu biết về văn bản; vận dụng những hiểu biết
về các văn bản đã đọc hiểu vào việc đọc các loại văn bản khác nhau, sẵn sàng thực
hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống yêu cầu dùng đến các hoạt
động đọc hiểu. Tài liệu cũng nhấn mạnh, việc dạy đọc hiểu không chỉ rèn luyện cho
học sinh năng lực đọc hiểu mà còn rèn luyện năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là
năng lực viết sáng tạo.


6

Giáo sư Trần Đình Sử đã từng khẳng định: “Khởi điểm của môn Ngữ văn là
dạy học sinh đọc hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không
trực tiếp đọc các văn bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu,

mục tiêu cao đẹp của môn Văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì tới
tình yêu văn học”. Do đó, có thể nói rèn luyện năng lực, kĩ năng đọc – hiểu văn bản
cho học sinh là một trong những yêu cầu quan trọng, khoa học và đúng đắn để các
em tiếp cận văn bản văn học, đánh thức tình yêu đối với môn Văn và có khả năng
vận dụng sáng tạo kiến thức đã học trong nhà trường vào cuộc sống.
Môn Ngữ văn với mục tiêu đặc thù là phải rèn luyện cho học sinh biết cách tư
duy hình tượng nghệ thuật, thành thạo kĩ năng đọc - hiểu, cảm thụ tác phẩm văn
chương trong hệ thống tích hợp ngang và tích hợp dọc, nên cũng rất cần có sự đổi
mới trong kiểm tra đánh giá. Đặc biệt, kiểu bài nghị luận trong làm văn sẽ cung cấp
ngữ liệu và rèn luyện cho học sinh nhiều kỹ năng đọc hiểu, kĩ năng tạo lập văn bản
để học sinh chủ động, tích cực và sáng tạo trong những tình huống, trước những
vấn đề cụ thể. Nhưng đổi mới phương pháp như thế nào để dạy và học môn Ngữ
văn tích cực hơn, có hiệu quả cao hơn và gợi được sự hứng thú học tập đối với học
sinh thì không phải là vấn đề đơn giản, không thể thực hiện một cách máy móc, dập
khuôn, mà đòi hỏi chúng ta phải có quá trình chuẩn bị kiến thức cho học sinh một
cách chu đáo, lựa chọn phương pháp hướng dẫn làm bài cụ thể sao cho phù hợp với
đặc điểm tình hình học tập của học sinh ở từng địa phương, từng trường, từng lớp.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
2.1.2.1. Thuận lợi
- Học sinh bậc THPT đã được nâng cao hơn ở một số kỹ năng tiếp cận văn bản
trong đó có kĩ năng đọc hiểu và tạo lập văn bản từ những yêu cầu cụ thể. Hầu hết,
các em có thể đọc hiều đoạn văn, văn bản thành thạo với những kĩ năng phù hợp,
viết bài nghị luận văn học đảm bảo các yêu cầu cơ bản về nội dung và hình thức.
- Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 cũng có nhiều sự đổi mới. Trong đó,
thời lượng dành cho đọc hiểu tác phẩm và đoạn trích văn xuôi là tương đối lớn.
Các tác phẩm văn xuôi được đưa vào chương trình giảng dạy đều là những sáng tác
tiêu biểu của các nhà văn có tên tuổi.
- Hiện nay, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, được sự quan tâm hướng dẫn
của gia đình, nhà trường và các thầy cô giáo, học sinh có điều kiện tiếp xúc với
nhiều nguồn tài liệu tham khảo bổ ích giúp các em trang bị thêm kiến thức về đọc

hiểu các loại văn bản trong đó có văn bản văn học cũng như học hỏi về kỹ năng
làm bài nghị luận.
2.1.2.2. Khó khăn
- Hiện tại vẫn còn nhiều học sinh quá yếu cả về kĩ năng đọc- hiểu lẫn năng lực viết
sáng tạo, đặc biệt là phần nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi. Đa
số các em khi làm bài về kiểu đề này thường không chịu đọc hiểu kĩ càng dẫn đến
diễn xuôi, tóm tắt tác phẩm, kể chuyện nhân vật… mà không biết vận dụng kĩ năng
đọc hiểu với đoạn trích văn bản, không xác định được luận đề, luận điểm cụ thể.


7

- Lượng ngữ liệu được sử dụng trong phần câu hỏi đọc hiểu và câu nghị luận văn
học là “mở”, những tác phẩm, đoạn trích văn xuôi trong chương trình Ngữ văn
THPT rất hay nhưng đồng thời lại đặt ra rất nhiều vấn đề sâu sắc đòi hỏi học sinh
phải đào sâu tìm tòi. Vì vậy, khi gặp những dạng đề lạ hoặc có yêu cầu cao một
chút là các em thường bị hoang mang, bỡ ngỡ, không định hướng được cách làm
bài dẫn đến điểm kiểm tra, điểm thi thường rất thấp.
- Trường THPT Hà Trung là trường đóng trên địa bàn huyện với nhiều xã nghèo, có
cả học sinh dân tộc thiểu số nên mặt bằng học sinh thấp, việc lĩnh hội kiến thức của
các em ngay trong lớp cũng không đồng đều. Mặt khác, số tiết học chính khóa
dành cho môn Ngữ văn hầu hết ở các khối chỉ là 3 tiết trên tuần nên rất khó để
giáo viên có đủ thời gian hướng dẫn tỉ mỉ thêm kĩ năng đọc hiểu và tạo lập văn bản
sáng tạo cho từng đối tượng học sinh.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và thực tế giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy
có mối tương tác hai chiều giữa rèn luyện năng lực đọc hiểu với kĩ năng viết bài
nghị luận về một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực đọc- hiểu cho học
sinh trung học phổ thông qua một số dạng đề nghị luận về đoạn trích trong tác
phẩm văn xuôi”. Tôi áp dụng việc nâng cao năng lực đọc hiểu cho học sinh THPT

trên cơ sở ngữ liệu trong các dạng đề nghị luận về đoạn trích trong tác phẩm văn
xuôi mà các em đã được học trong chương trình.
2.2. Giải pháp thực hiện vấn đề
Để nâng cao năng lực đọc hiểu và làm tốt kiểu bài nghị luận về một đoạn văn
trong tác phẩm văn xuôi, học sinh cần được trang bị những kiến thức cụ thể sau:
2.2.1. Tri thức đọc hiểu văn bản văn học
Văn bản văn học là một văn bản ngôn từ, là sản phẩm của tưởng tượng, sáng
tạo, là mô hình cuộc sống được phản ánh bằng nghệ thuật, thể hiện cách nhìn và
thái độ của người viết. Theo đó, văn bản văn học được cố định bởi hệ thống kí hiệu
ngôn từ, nhưng ý nghĩa của nó rất phong phú do sự chi phối, tương tác của nhiều
yếu tố khác nhau. Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ lạ hóa. Cấu trúc văn bản văn học
là một cấu trúc mở, có nhiều khoảng trống về nghĩa… Khi dạy học đọc hiểu văn
bản văn học, giáo viên cần chú ý:
- Thứ nhất, tổ chức cho học sinh khám phá văn bản theo một quy trình giải mã văn
bản nghệ thuật, chỉ ra sự phù hợp giữa các kí hiệu hình thức văn bản ngôn từ và nội
dung, tư tưởng. Chú trọng các yêu cầu đọc hiểu từ nhận biết tính toàn vẹn, chỉnh
thể trong tiếp nhận đến yêu cầu khám phá tư tưởng, chủ đề, cảm hứng và tình cảm,
thái độ của tác giả thể hiện qua hình thức cụ thể của văn bản; liên hệ, mở rộng để
phát hiện những giá trị đạo đức, văn hóa và triết lý nhân sinh; từ đó biết vận dụng,
chuyển hóa thành giá trị sống.
- Thứ hai, hướng dẫn học sinh tìm hiểu ý nghĩa của văn bản văn học một cách tổng
hợp. Trước hết là coi trọng văn bản ngôn từ, phân tích cái lý của những hình thức
ngữ âm, chữ, từ, câu, đoạn, vần, nhịp, hình ảnh, chi tiết, nhân vật, sự kiện, không


8

gian, thời gian, biểu tượng… để hiểu văn bản văn học không thể thoát ly văn bản.
Đọc hiểu văn bản văn học cũng là đi tìm ý đồ sáng tạo, tình cảm, tư tưởng của tác
giả gửi gắm trong đó. Tuy nhiên cần thận trọng trong việc diễn giải ý đồ, tư tưởng

của tác giả. Việc đề cao vai trò người đọc của lý thuyết tiếp nhận đã chi phối mạnh
mẽ cách dạy đọc hiểu văn bản văn học. Khi dạy giáo viên cần chú ý khai thác vốn
hiểu biết đã có của học sinh, khuyến khích sự tìm tòi, liên hệ với hoàn cảnh của cá
nhân... để chỉ ra thông điệp, phát hiện ý nghĩa, góp phần lấp đầy “khoảng trống”
của văn bản. Kết quả diễn giải ý nghĩa của văn bản phải có sự thống nhất ở cả 3
phương diện: cấu trúc văn bản, ý đồ tác giả và vai trò người đọc.
- Thứ ba, tùy vào đối tượng học sinh từng cấp, lớp và thể loại văn học mà vận dụng
kết hợp các phương pháp, kỹ thuật và hình thức dạy học đọc hiểu cho phù hợp theo
yêu cầu phát triển năng lực học sinh như: đàm thoại, diễn giảng, nêu vấn đề, đọc
diễn cảm, đọc phân vai, kể chuyện, đóng vai để giải quyết một tình huống, diễn
kịch, hướng dẫn ghi chép, phiếu học tập, nhật ký đọc sách, tổ chức thảo luận,
chuyển thể tác phẩm văn học, vẽ tranh, làm phim, trải nghiệm tình huống...
- Thứ tư, sử dụng đa dạng các loại câu hỏi ở những mức độ khác nhau để hướng
dẫn học sinh đọc hiểu văn bản, đồng thời hình thành kỹ năng đọc. Các câu hỏi như
nêu cảm nhận chung về văn bản, nhận biết các chi tiết quan trọng, nhân vật, cốt
truyện…; giải mã và kiến tạo ý nghĩa cho văn bản; phân tích, đánh giá được vai trò
của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung; khái quát được chủ đề, tư
tưởng, cảm hứng, triết lý nhân sinh được thể hiện trong văn bản; liên hệ nội dung
của tác phẩm với kiến thức và trải nghiệm cá nhân để từ đó rút ra những bài học về
cuộc sống. Động viên học sinh nói ra suy nghĩ và cảm nhận của riêng mình, khuyến
khích sự khác biệt…
Có thể nói hình thành kỹ năng đọc hiểu cho học sinh không thể vội vã mà nên
theo hướng “mưa dầm thấm lâu”. Với mỗi văn bản, giáo viên chỉ cần khơi gợi để
học sinh tìm kiếm một vài nội dung sâu sắc và hình thức nghệ thuật độc đáo, lý thú;
đừng tham lam, ôm đồm với mong muốn nhồi nhét tất cả những gì mình hiểu về tác
phẩm ấy vào đầu người học. Thỉnh thoảng gặp văn bản khó, kết quả tiết học có khi
chỉ để lại trong học sinh một ấn tượng nào đó hoặc giúp các em thấy rằng: hiểu
được tác phẩm văn học cũng không dễ, thậm chí có khi không hiểu được.
2.2.2. Nâng cao năng lực đọc hiểu qua dạng đề nghị luận về đoạn trích trong tác
phẩm văn xuôi

2.2.2.1. Khái quát các dạng đề nghị luận về một đoạn trích trong tác phẩm văn
xuôi
Khi đọc hiểu văn bản là tác phẩm văn xuôi, học sinh cần chú ý những vấn đề sau:
TÁC PHẨM VĂN XUÔI
Các phương diện nghệ thuật
- Xây dựng kết cấu
- Xây dựng tình huống
- Xây dựng nhân vật

Các phương diện nội dung
- Giá trị hiện thực
- Giá trị nhân đạo


9

- Nghệ thuật ngôn từ
v…v…
- Các phương tiện nghệ thuật…
Trước đây trong thời gian 180 phút, đề thi thường hỏi vào các dạng bài phân
tích tình huống truyện, phân tích nhân vật hoặc so sánh hai tác phẩm trên một số
phương diện. Tuy nhiên, hiện nay thời lượng bài thi đã giảm xuống chỉ còn 120
phút nên đề thi cũng chỉ còn tập trung vào những dạng đề cơ bản sau:
a. Phân tích/ cảm nhận về một đoạn văn, một chi tiết nghệ thuật trong đoạn.
Ví dụ: - Cảm nhận về đoạn văn sau:
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy… (…) Hắn xăm
xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà.”
(Trích “Vợ nhặt”- Kim Lân)
b. Phân tích/ cảm nhận một khía cạnh, đặc điểm, giai đoạn trong cuộc đời… của

nhân vật (Tức là không phân tích cả một nhân vật mà chỉ phân tích một giai đoạn
trong cuộc đời nhân vật với những biểu hiện cụ thể được nêu trong đoạn trích)
Ví dụ: - Cảm nhận về sự thay đổi của người đàn bà vợ nhặt trong buổi sáng sớm
hôm sau, khi đã trở thành vợ Tràng. (“Vợ nhặt”- Kim Lân)
c. Phân tích/ cảm nhận một biểu hiện của tình huống truyện.
Ví dụ: - Phân tích những phát hiện của Phùng khi nghe câu chuyện của người
đàn bà hàng chài ở tòa án huyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
(Nguyễn Minh Châu).
d. Phân tích/ cảm nhận một khía cạnh của giá trị nội dung.
Ví dụ: - Phân tích một biểu hiện của giá trị nhân đạo trong tác phẩm như: Lòng
yêu thương con người; Niềm tin vào phẩm chất tố đẹp của con người; Sự cảm
thông thấu hiểu và trân trọng con người…
Có thể thấy, cùng nghị luận về đoạn trích văn xuôi nhưng đề thi rất phong phú.
Mặc dù đã khái quát các dạng đề cơ bản song mọi sự phân loại chỉ mang tính tương
đối bởi vì thực chất trong quá trình làm bài sẽ gặp rât nhiều các dạng đê khác nhau.
Học sinh cần có sự nhanh nhạy trong nhận thức và khéo léo, linh hoạt trong cách
xử lí đề.
2.2.2.2. Phương pháp làm dạng bài phân tích/ cảm nhận một đoạn văn
Có thể thấy, xu hướng ra đề thi gần đây của Bộ Giáo Dục thường yêu cầu nghị
luận về một đoạn văn hoặc một chi tiết trong tác phẩm văn xuôi. Thực ra dạng bài
phân tích/ cảm nhận về một chi tiết, một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi là khá
khó đối với học sinh bởi vì khi làm dạng đề này đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng
đọc hiểu thuần thục để khai thác được chiều sâu chứ không phải chỉ đơn thuần là
chiều rộng. Chính vì vậy, nếu học sinh không nắm thật kĩ, thật sâu kiến thức về tác
phẩm, về từng chi tiết nghệ thuật, không có kỹ năng cảm thụ và khai thác những
đặc trưng nghệ thuật của ngôn từ.. thì sẽ rất rơi vào tình trạng chỉ viết được một
đoạn văn đã cạn ý. Để làm tốt bài nghị luận về một đoạn văn trong tác phẩm văn
xuôi, học sinh cần thực hiện các bước sau:
* Bước 1: Nhận diện dạng bài cảm nhận về một đoạn văn trong tác phẩm văn xuôi



10

Cùng là phân tích/ cảm nhận về đoạn văn trong tác phẩm văn xuôi nhưng đề có
thể yêu cầu ở nhiều dạng câu hỏi khác nhau. Nhìn chung có thể hệ thống thành 3
dạng câu hỏi như sau:
- Phân tích/ cảm nhận đoạn văn sau.
- Phân tích/ cảm nhận một khía cạnh thuộc phương diện nội dung hoặc nghệ thuật
của đoạn văn.
- Phân tích/ cảm nhận đoạn văn, từ đó làm rõ một yêu cầu của đề bài.
Ví dụ:
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.
Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống,
tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó
khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…
Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con…May ra mà qua khỏi
được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra
ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
(“Vợ nhặt”- Kim Lân)
Cùng ngữ liệu là một đoạn văn trên, đề thi có thể hỏi 3 cách khác nhau:
- Đề 1: Cảm nhận về đoạn văn trên.
- Đề 2: Cảm nhận về diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn trên.
- Đề 3: Cảm nhận về đoạn văn trên, từ đó nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí

nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Với mỗi một đề đều có những yêu cầu khác nhau: Đề 1 sẽ yêu cầu học sinh phân
tích tất cả các đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích; Đề 2 là cảm nhận
về diễn biến tâm trạng của nhân vật. Học sinh cần đọc thật kĩ, phân tích sâu những
cung bậc, diễn biến cảm xúc của bà cụ Tứ được thể hiện trong đoạn văn; Đề 3 sẽ
làm giống đề 1, tuy nhiên còn có một yêu cầu ở cuối là nhận xét về nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật của Kim Lân. Khi đề bài hỏi thêm ý này, bắt buộc trong phần bài
làm của học sinh phải có thêm một luận điểm riêng về nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật của Kim Lân, và luận điểm này sẽ được trình bày ở cuối phần thân bài,
sau khi đã phân tích/ cảm nhận về đoạn văn trên. Khi đã đọc hiểu được ngữ liệu và
nhận diện được đề bài, học sinh sẽ biết cách xử lí đề đúng hướng và hiệu quả.
* Bước 2: Tìm hiểu đề : yêu cầu học sinh đọc kĩ đề, gạch chân vào những từ khóa
quan trọng để xác định đúng yêu cầu cần nghị luận. Khi xác định yêu cầu của đề,
cần trả lời 3 câu hỏi sau:
- Vấn đề nghị luận là gì ?


11

- Các thao thác lập luận nào cần sử dụng ? (giải thích, phân tích, chứng minh, bình
luận, so sánh, bác bỏ…hay tổng hợp các thao tác)
- Dẫn chứng lấy trong phạm vi nào? (Chú ý: chỉ tập trung phân tích/ cảm nhận vấn
đề nghị luận trong đoạn văn đề bài yêu cầu).
* Bước 3: Lập dàn ý: Gạch ra giấy nháp những luận điểm chính, cần cân nhắc xem
lượng luận điểm đã đủ so với yêu cầu của đề bài hay chưa, sắp xếp các luận điểm
phù hợp.
a) Mở bài: Có thể giới thiệu trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng cần đảm bảo 2 ý sau:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Vị trí, đặc điểm sáng tác của tác giả về nội dung tư
tưởng, phong cách nghệ thuật, nhấn mạnh điều gì đã làm nên tên tuổi của tác giả
trong linh vực văn chương.

- Giới thiệu đoạn văn cần phân tích: Vị trí của đoạn trích trong tác phẩm, nêu khái
quát nội dung tư tưởng, chủ đề của đoạn văn. Thông thường đoạn trích được sử
dụng khá dài, vì vậy không nên chép nguyên vẹn đoạn văn vào mở bài mà chỉ cần
giới thiệu nội dung của đoạn văn đó là đảm bảo yêu cầu.
b) Thân bài: Không nên phân tích đoạn văn ngay, cần triển khai các luận điểm sau:
- Xác định vị trí của đoạn văn: Nằm ở phần nào (phần đầu, giữa hay cuối truyện?),
có vị trí ra sao trong dòng chảy của cốt truyện, trong kết cấu nghệ thuật của tác
phẩm? có vai trò gì trong việc thể hiện nội dung chủ đề tác phẩm ?
- Phân tích/ cảm nhận những đặc sắc nội dung, nghệ thuật của đoạn văn:
+ Về nội dung: Cần chú ý đến 3 vấn đề (có những đoạn văn có cả 3 vấn đề, nhưng
có đoạn văn ít hơn)
(+) Đoạn văn viết về cảnh tượng hoặc tình huống gì? Cảnh tượng/ tình huống ấy
được gợi lên qua những chi tiết, hình ảnh nào ? (về thời gian, không gian, nhân vật)
(+) Diễn biến của sự việc được kể đến trong đoạn văn ? Chú ý đến các từ ngữ, chi
tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa.
(+) Nhân vật được tái hiện ở những khía cạnh, đặc điểm, phẩm chất nào ? (chú ý:
tâm trạng, hành động, ngôn ngữ, tính cách, mối quan hệ với các nhân vật khác…).
Qua những đặc điểm của nhân vật trong đoạn văn đã góp phần hoàn thiện bức chân
dung nhân vật như thế nào ?
+ Về nghệ thuật: (Bám sát vào đặc trưng thể loại của tác phẩm văn xuôi)
(+) Nghệ thuật trần thuật:
• Điểm nhìn trần thuật: Trần thuật từ điểm nhìn, quan điểm của ai ? tại sao lại sử
dụng điểm nhìn, quan điểm trần thuật ấy ?
• Ngôn ngữ trần thuật: có đặc điểm gì (giản dị mộc mạc hay trang trọng, uyên
bác).
• Giọng điệu trần thuật: Nhanh / chậm ?. Lạnh lùng / tràn đầy cảm xúc ?...
(+) Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật thiên về hành động hay tâm trạng (chú
ý các chi tiết khắc họa ngoại hình, diễn biến, tâm trạng, tính cách…)
(+) Lựa chọn, sáng tạo các chi tiết nghệ thuật đặc sắc: Chi tiết nào được đặc tả kĩ
càng, mang nhiều ý nghĩa biểu tượng ?



12

(+) Các biện pháp nghệ thuật: Những biện pháp tư từ nào được sử dụng trong đoạn
văn ? Tác dụng ?
Lưu ý: Trong quá trình phân tích/ cảm nhận bao giờ cũng nên lồng ghép phần
nghệ thuật vào khi phân tích/ cảm nhận nội dung.
- Đánh giá chung;
+ Về nội dung: Đoạn trích đã góp phần hoàn thiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm
như thế nào? Qua đoạn trích thể hiện được quan điểm, thái độ của nhà văn trước
vấn đề phản ánh ra sao, từ đó toát lên được giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo nào?
Nó đem đến những nhận thức gì cho người đọc về con người, về cuộc đời ?
+Về nghệ thuật: Đoạn trích thẻ hiện được nét phong cách nghệ thuật hoặc thành
công nghệ thuật nào của nhà văn ?
- Phần rút ra nhận xét, bàn luận theo yêu cầu của đề bài (nếu có).
+ Viết thành một đoạn văn riêng ở cuối phần thân bài. Cần đi thẳng vào vấn đề mà
đề bài yêu cầu, không cần phân tích dẫn chứng minh họa.
c) Kết bài: Cần đảm bảo 2 ý:
- Khẳng định lại giá trị của vấn đề nghị luận.
- Liên hệ, mở rộng, nêu suy nghĩ của bản thân về vấn đề.
2.2.2.3. Bài tập vận dụng minh họa
Đề bài:
“ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau
chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành.
Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện
vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn
gà cho mà xem…

Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ
con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng
ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà
lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. – Bà lão múc ra một bát – Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị
điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vãn
tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả
có cám mà ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại,
miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói câu gì,


13

họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm
trí mọi người.”
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về chiều sâu nhân
đạo trong ngòi bút Kim Lân khi viết về số phận bất hạnh của người nông dân trước
Cách mạng tháng Tám 1945.
Hướng dẫn giải đề:
A- Bước 1: Tìm hiểu đề
- Vấn đề nghị luận:
+ Cảm nhận về đoạn văn trên.
+ Nhận xét về chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút của Kim Lân khi viết về số phận

bất hạnh của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.
- Thao tác lập luận: Phân tích, chứng minh, bình luận.
- Phạm vi dẫn chứng: Đoạn văn đề bài trong mối liên hệ so sánh với các đoạn văn
trước và sau nó.
B- Bước 2: Lập dàn ý
a) Mở bài: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu đoạn văn cần phân tích: đoạn văn viết về cảnh gia đình
nhà Tràng trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới.
b) Thân bài:
* Giới thiệu vị trí đoạn văn cần nghị luận:
- Xuất hiện ở gần cuối truyện ngắn “Vợ Nhặt”, có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc thể hiện chủ đề tác phẩm: Trong đói khổ, kề cận với cái chết, con người vẫn
thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
* Phân tích đoạn văn (trọng tâm của bài làm):
- Nội dung: Đoạn văn có cả nội dung tả cảnh và khắc họa chân dung nhân vật
+ Đoạn văn đã tái hiện cảnh sinh hoạt của gia đình Tràng trong buổi sáng đầu tiên
đón nàng dâu mới:
(+) Bằng thủ pháp liệt kê kết hợp với điệp từ “một”, từ đồng nghĩa “độc”, nhà
văn miêu tả chi tiết về bữa cơm của gia đình Tràng : “Bữa cơm ngày đói trông thật
thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn
với cháo…”. Một bữa sáng nghèo nàn, ít ỏi nhưng đó cũng lại là bao chắt chiu, dồn
góp của những con người trong năm đói. Hiện thực thảm khốc về nạn đói hiện lên
đầy xót xa.
(+) Chi tiết đặc sắc “nồi chè khoán” đã khắc họa đậm nét hơn về cái đói, cái
nghèo thảm hại. “Chè khoán” (thực chất là cháo cám), đây không phải là món ăn
dành cho con người, ấy thế nhưng không phải nhà nào cũng có để ăn.
(+) Mỗi người một thái độ khi đón nhận bát “chè khoán” từ tay bà mẹ, nhưng ai
cũng “cắm đầu ăn cho xong”, họ không nói câu gì và “có một nỗi tủi hờn len vào
tâm trí mọi người”.



14

-> Bữa cơm ngày đói của gia đình Tràng cũng phần nào thể hiện được bức tranh
hiện thực thống khổ của người nông dân Việt Nam trong nạn đói trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
+ Đoạn văn đã góp phần khắc họa hoàn chỉnh bức chân dung của các nhân vật qua
hành động và tâm trạng:
(+) Bà cụ Tứ:
• Lời nói: “nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà cố tình nói thật
nhiều, cố gắng tìm những chuyện thật vui để nói nhằm át đi những lo lắng có thể
đang lởn vởn trong đầu các con, để cố gắng gieo vào đó một hạt mầm hi vọng.
• Hành động: Nhà văn dùng hàng loạt các từ láy liên tiếp diễn tả các hành động của
người mẹ: lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy, đon đả... Món ăn hèn mọn trong tay bà hiện
lên với biết bao sự trân trọng và nâng niu. Dường như trong hoàn cảnh đói kém
quay quắt này việc dành dụm để có được một nồi cháo cám cũng đã là sự cố gắng
rất lớn của người mẹ. Món ăn ấy đặt trong tay bà cụ đã biến thành “cái này hay
lắm cơ”, “món này ngon đáo để cơ”, thành “chè khoán” ngon và rất ngọt ngào.
Phải chăng chính tình yêu thương con của người mẹ đã biến đắng chát thành ngọt
ngào. Từ nồi cháo cám hèn mọn và không phải thức ăn dành cho người nhưng nó
đã toát lên chất người quý giá.
-> Tiểu kết: Bà cụ Tứ là một người mẹ nông dân nghèo khổ nhưng hết lòng thương
con và có khát vọng sống mãnh liệt. Đây là nhân vật chính trong đoạn văn đã thể
hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm và cảm xúc chủ đạo của tác giả.
(+) Người vợ nhặt: Được tác giả khắc họa qua những chi tiết nghệ thuật đặc sắc:
• Chi tiết đặc tả:“…hai con mắt thị tối lại”: Đôi mắt đầy âu lo vì thị ý thức được
tình cảnh của gia đình này và bây giờ cũng là gia đình của thị nữa. “Đôi mắt tối lại”
cũng thể hiện một chút hụt hẫng, một niềm lo âu trong tâm trạng của thị. Đành rằng
là đói nên thị cần tìm một nơi nương tựa. Chắc chắn thị cũng không ngây thơ tới
mức tưởng tượng đến việc gia đình của một anh kéo xe bò thuê, một bà mẹ ốm yếu

sống trong túp lều rúm ró, xiêu vẹo kia lại có một bữa chè khoán thực sự chào đón
mình trong tình cảnh đói kém này. Thị không ngây thơ đến mức ấy nhưng chắc
chắn cũng không thể tránh khỏi nỗi ngậm ngùi vì tủi thân, tủi phận vì đây là bữa
cơm đầu tiên ở nhà chồng mà thảm hại thế này. Điều gì còn đang đón chờ thị ở phía
trước ?
• Hành động: “Thị điềm nhiên và vào miệng”. Cho rằng tình cảnh ăn cháo cám
cũng là bình thường, đồng thời thể hiện sự quan tâm của người đàn bà sẵn sàng
chung lưng đấu cật cùng sát cánh với gia đình Tràng để vượt qua cái tao đoạn khốn
khó này. Chi tiết này cũng cho ta thấy cái ý tứ của người con dâu không muốn làm
vỡ đi niềm vui và sự vun vén của người mẹ chồng.
-> Tiểu kết: Chỉ qua một chi tiết nhỏ nhưng Kim Lân đã cho thấy biết bao nét đẹp
trong tâm hồn nhân vật người vợ nhặt. Nếu hôm qua cái đói đã làm cho thị trờ nên
“chao chát,cong cớn, chỏng lỏn, liều lĩnh” thì hôm nay, chỉ sau một đêm ngủ ấm,
một bữa ăn no, nhưng điều tốt đẹp lại trở về với thị. Thị hiện lên đúng là một nàng
dâu mới, ý tứ và lễ phép. Cái tài của Kim Lân chính là ở chỗ đã để cho nhân vật


15

bước vào tác phẩm với những nét không mấy dễ ưa rồi lại làm cho nhân vật dần
dần hiện lên với những nét thật dễ mến.
(+) Nhân vật Tràng:
• Thái độ: “ngoan ngoãn vâng lời mẹ”: Khi nghe mẹ bàn tính chuyện nuôi gà,
Tràng chỉ vâng dạ rất ngoan. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa
hợp như thế. Rõ ràng Tràng cũng rất trân trọng, nâng niu hạnh phúc và không khí
đầm ấm của gia đình. Như vậy, dẫu mang thân phận ngụ cư lại xấu xí, thô kệch,
đến lúc này Tràng cũng đã có vợ, có một mái ấm gia đình. Dù sang hay hèn cũng là
hạnh phúc mới. Dù cuộc sống trước mắt còn rất nhiều những khó khăn nhưng
Tràng và những người thân đang cùng chuẩn bị cho một cuộc sống mới lâu dài hơn.
- Nghệ thuật: Học sinh nên lồng ghép phân tích đặc sắc nghệ thuật khi phân tích

những đặc sắc về nội dung để tạo sự liền mạch và tinh tế hơn trong diễn đạt
+ Nghệ thuật trần thuật:
(+) Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, các chi tiết, tình tiết, hành động của nhân vật
được sắp xếp một cách hợp lí, không thấy có sự gượng ép, không có chỗ nào thể
hiện sự “non tay”.
(+) Ngôn ngữ: Mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Ta tưởng
như Kim Lân đã bưng nguyên một mảng ngôn ngữ từ đời sống để đưa vào trong tác
phẩm của mình. Những từ ngữ có tính chất khẩu ngữ (lời của bà cụ Tứ) đều được
đưa vào trong tác phẩm để có tính biểu đạt. Thậm chí, một từ rất nhỏ cũng thể hiện
tài năng của Kim Lân: “Cám đấy mày ạ, hì”. Tiếng “hì” ấy giúp ta hình dung được
dáng vẻ của người mẹ, cái cười trừ của người mẹ bởi vì hoàn cảnh khó khăn, đói
kém đến mức con người ta phải ăn đồ ăn của loài vật. Cái cười trừ có một chút
ngượng nghịu nhưng cũng rất đáng thương.
(+) Giọng điệu trần thuật linh hoạt: Khi miêu tả dáng điệu của bà mẹ, tác giả sử
dụng giọng điệu nhanh, lôi cuốn; Khi miêu tả tâm trạng các nhân vật đón nhận bát
cháo cám thì giọng điệu lại chuyển sang trầm lắng, day dứt, xót xa.
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Các nhân vật được hiện lên rất rõ qua một vài nét
khắc họa tinh tế về dáng vẻ, điệu bộ, đặc biệt là tâm trạng được thể hiện qua những
cung bậc cảm xúc sâu sắc nhất, phù hợp với hoàn cảnh.
+ Cách chọn lọc chi tiết tiêu biểu, xây dựng hình ảnh “nồi chè khoán” là biểu tượng
cho hiện thực thảm khốc trong nạn đói kinh hoàng và cũng là biểu tượng cho biết
bao yêu thương, chắt chiu của tình người trong hoàng cảnh ấy.
- Đánh giá chung:
+ Đoạn văn đã tái hiện chân thực cuộc sống của người dân nghèo khổ trong nạn đói
năm 1945 đồng thời nhà văn phát hiện, ngợi ca tình người cao đẹp, niềm hi vọng
sống mãnh liệt của các nhân vật
+ Đọc đoạn văn cho ta thấy tài năng nắm bắt và miêu tả tâm lí nhân vật của Kim
Lân, đặc biệt ở việc lựa chọn và xây dựng những chi tiết nghệ thuật đắt giá.
* Nhận xét về chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút Kim Lân:



16

- Khái quát về tư tưởng nhân đạo: là nội dung lớn được thể hiện trong nhiều tác
phẩm văn học ở mọi thời đại. Biểu hiện tổng quát của tư tưởng nhân đạo chính là
tình yêu thương con người…
- Biểu hiện của tư tưởng nhân đạo trong đoạn văn :
+ Nhà văn đồng cảm sâu sắc với tình cảnh khốn cùng của người dân lao động trong
nạn đói.
+ Tác giả đã phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn và niềm hi vọng sống mãnh liệt
của các nhân vật. Trong đói khổ, kề cận với cái chết, con người vẫn yêu thương và
sẵn sàng đùm bọc lẫn nhau. Đọc đoạn trích này trong “Vợ nhặt”, chúng ta thấm thía
hơn rằng: Bao giờ hạnh phúc được yêu thương cũng lớn hơn tất cả cho dù ngay cả
khi con người tưởng như không còn gì hơn là miếng cơm, manh áo.
c) Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị của vấn đề nghị luận: Đoạn văn nói riêng và tác phẩm nói
chung không chỉ tái hiện lại cuộc đời bi thảm của người nông dân trong nạn đói
thảm khốc năm 1945 mà đồng thời còn khẳng định những vẻ đẹp cao quý trong
phẩm chất của họ. Đó chính là biểu hiện của tư tưởng nhân đạo cao cả trong tác
phẩm của Kim Lân.
- Liên hệ, mở rộng, nêu suy nghĩ của bản thân về vấn đề.
2.2.3. Nâng cao năng lực đọc hiểu qua dạng đề nghị luận về nhân vật trong trích
đoạn tác phẩm văn xuôi
2.2.3.1. Khái quát các dạng đề nghị luận về một nhân vật trong trích đoạn tác
phẩm văn xuôi
Đối với tác phẩm tự sự nói riêng và tác phẩm văn xuôi nói chung, nhân vật
đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nhà văn nói qua nhân vật, nhân vật chính là
nơi mang chở ý tưởng sáng tạo của nhà văn cũng như nội dung tư tưởng, chủ đề tác
phẩm. Vì vậy, phân tích/ cảm nhận về nhân vật là dạng bài thường gặp trong các đề
thi THPT Quốc gia. Trước đây, với thời lượng là 180 phút của bài thi, đề bài

thường yêu cầu học sinh phân tích cả nhân vật, phân tích nhân vật để làm sáng tỏ
một phương diện nội dung- nghệ thuật của tác phẩm hoặc so sánh hai nhân vật ở
hai tác phẩm khác nhau… Nhưng hiện nay, do thời lượng của bài thi chỉ còn 120
phút nên đề thi tập trung vào các dạng đề có liên quan đến nhân vật như sau:
a) Phân tích/ cảm nhận trọn vẹn về một nhân vật phụ (Cụ Mết, Aphủ…)
b) Phân tích/ cảm nhận một khía cạnh/ đặc điểm/ giai đoạn trong cuộc đời nhân vật
Ví dụ: - Cảm nhận của anh chị về nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng
Ngài (“Vợ chồng APhủ” – Tô Hoài)- Đề tham khảo của BGD năm 2020.
c) Phân tích/ cảm nhận về nhân vật qua một số chi tiết nghệ thuật.
Ví dụ:- Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã hai lần miêu tả cách
ăn uống của nhân vật thị. Chiều hôm trước, khi được Tràng đồng ý đãi bánh đúc ở
ngoài chợ: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát
bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.” và sáng hôm sau, khi nhận bát “chè khoán” từ
mẹ chồng: “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối
lại. Thị điềm nhiên và vào miệng.”


17

(Kim Lân - Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.27 và tr.31)
Phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự
thay đổi của nhân vật này.
d) Bình luận về ý kiến, nhân định về một khía cạnh/ đặc điểm/ hành động của nhân
vật.
Ví dụ: - Nhận xét về hành động cắt dây trói cứu APhủ của nhân vật Mị trong
“Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), có ý kiến cho rằng : “Đây là hành động hoàn toàn
mang tính tự phát”. Ý kiến khác thì nhấn mạnh : “ Đây là hành động mang tính tất
yếu thể hiện bản chất con người Mị”.
Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm, anh/ chị hãy bình luận về hai ý kiến trên.
Như vậy, cùng là nghị luận về nhân vật trong đoạn trích tác phẩm văn xuôi

song có rất nhiều các ra đề. Mỗi dạng đề có một yêu cầu riêng, tuy nhiên, khi đọc
hiểu ngữ liệu, học sinh cần chú ý những phương diện sau khi phân tích/ cảm nhận
về nhân vật:
- Sự xuất hiện của nhân vật: Cách nhà văn để nhân vật xuất hiện lần đầu tiên trong
tác phẩm bao giờ cũng mang rất nhiều ý nghĩa
- Tên gọi của nhân vật không chỉ để định danh mà đôi khi còn hàm chứa ý nghĩa tư
tưởng muốn gửi gắm của tác giả, nó dự báo về cuộc đời, tính cách , số phận của các
nhân vật, kể cả với các nhân vật có tên hoặc không tên.
- Lai lịch (cảnh ngộ xuất thân): Đây là phương diện đầu tiên ảnh hưởng đến cuộc
đời,số phận của nhân vật.
- Ngoại hình diện mạo cũng góp phần thể hiện bản chất của nhân vật hay tư tưởng
nhà văn.
- Ngôn ngữ của các nhân vật, dù là lời đối thoại hay độc thoại cũng được nhà văn
cá biệt hóa mang rất nhiều ý nghĩa.
- Nội tâm nhân vật thường là điều được các nhà văn đặc biệt chú ý trong miêu tả
bởi vì khi miêu tả nội tâm sẽ làm đời sống tâm hồn phong phú và nổi bật hơn tính
cách của nhân vật.
- Cử chỉ, hành động: Bản chất con người được biểu hiện rõ nhất qua hành động, vì
vậy khi phân tích nhân vật cần chú ý vào việc nhà văn miêu tả và phân tích hành
động để làm nổi bật tính cách.
Trong một tác phẩm nói chung và trong đoạn trích văn xuôi nói riêng không
phải khi nào nhân vật cũng được khắc họa hoàn chỉnh những đặc điểm, phương
diện trên, trừ các nhân vật cá biêt, còn lại các nhân vật chỉ được khắc họa điển hình
ở một vài phương diện đặc biệt. Chính điều này sẽ gây khó khăn cho học sinh quá
trình làm bài nghị luận, đòi hỏi các em phải có sự am hiểu sâu sắc và có sự liên hệ
mở rộng để làm nổi bật được dụng ý nghệ thuật của nhà văn cũng như trình bày
được một bài nghị luận “đầy đặn”.
2.2.3.2. Phương pháp làm dạng bài phân tích/ cảm nhận một khía cạnh/ đặc điểm/
giai đoạn trong cuộc đời… nhân vật
* Bước 1. Nhận diện các dạng đề:



18

Cần chú ý hai dạng đề khi hỏi về một khía cạnh/ đặc điểm/ giai đoạn trong cuộc
đời… nhân vật như sau:
Phân tích một khía cạnh/ đặc điểm/ giai Phân tích một khía cạnh/ đặc điểm/ giai
đoạn trong cuộc đời… nhân vật
đoạn trong cuộc đời… nhân vật. Từ đó
làm rõ một yêu cầu của đề bài
Ví dụ: Nhân vật tràng trong buối sáng đầu tiên có vợ (“Vợ nhặt”- Kim Lân)
Đề 1: Cảm nhận về diễn biến tâm trạng Đề 2: Cảm nhận về diễn biến tâm trạng
và hành động của nhân vật Tràng trong và hành động của nhân vật Tràng trong
buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ (“Vợ buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ (“Vợ
nhặt”- Kim Lân)
nhặt”- Kim Lân). Từ đó nhận xét về tài
năng, tấm lòng của nhà văn trong miêu
tả và khám phá con người.
Với đề 1 học sinh chỉ cần phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân
vật Tràng trong buổi sáng đầu tiên có vợ; Còn đề 2, ngoài việc phân tích như ở đề
1, bắt buộc cần phải có thêm 1 luận điểm trình bày ở cuối thân bài là nhận xét về tài
năng và tấm lòng của nhà văn Kinh Lân trong miêu tả và khám phá con người.
* Bước 2. Tìm hiểu đề: Học sinh đọc kỹ đề và gạch chân các từ khóa trong đề để
xác định:
- Vấn đề cần nghị luận:
-Thao tác lập luận:
- Giớ hạn kiến thức: phần này rất quan trọng vì đề bài không yêu cầu phân tích
nhân vật trong toàn bộ tác phẩm mà chỉ yêu cầu phân tích một đặc điểm, một khía
cạnh, một giai đoạn trong cuộc đời nhân vật.
* Bước 3. Lập dàn ý:

a) Mở bài: - Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu phần cần phân tích về nhân vật.
b) Thân bài:
- Khái quát chung:
+ Khái quát về nhân vật: Tóm lược những nét chính về cuộc đời, số phận, tính cách
… của nhân vật (trong khoảng 3-5 câu văn)
+ Xác định vị trí của phần cần phân tích về nhân vật: nói về giai đoạn nào trong
cuộc đời hay đặc điểm/ khía cạnh nào cảu nhân vật ? Nó có vai trò gì trong việc
hoàn thiện chân dung nhân vật và tư tưởng chủ đề tác phẩm.
- Phân tích/ cảm nhận về đặc điểm/ khía cạnh/ giai đoạn trong cuộc đời nhân vật:
+ Có miêu tả ngoại hình không? Bằng những chi tiết, hình ảnh nào? Qua đó góp
phần thể hiện tính cách, tâm trạng nào của nhân vật ?
+ Nhân vật được khắc họa qua diễn biến tâm trạng hay cử chỉ, hành động?
(+) Nếu là tâm trạng: Chỉ rõ những cung bậc cảm xúc, suy nghĩ, thái độ nào? Vì
sao lại có tâm trạng ấy ?


19

(+) Nếu là hành động, cử chỉ: Phân tích tường tận từng hành động, cử chỉ của
nhân vật. Hành động được miêu tả trong mối quan hệ với nhân vật, sự vật, hiện
tượng nào? Có ý nghĩa gì ?
+ Ngôn ngữ: Cách nói năng của nhân vật, ngôn từ mà nhân vật sử dụng có gì đặc
biệt, nó thể hiện tính cách của nhân vật như thế nào?
- Phân tích đặc sắc nghệ thuật:
+ Sử dụng cách trần thuật như thế nào ? ý nghĩa ? tác dụng?
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật: thủ pháp, bút pháp nào được sử dụng? Nhân vật
được khắc họa về ngoại hình, tính cách, diễn biến tâm trạng hay hành động, ngôn
ngữ…?
+ Lựa chọn, sáng tạo các chi tiết nghệ thuật: Nhân vật gắn liền với chi tiết, hình ảnh

nào có ý nghĩa đặc biệt? Những chi tiết, hình ảnh đó diễn tả những đặc điểm nào về
tính cách, hành động, tâm trạng, số phận… của nhân vật
- Đánh giá chung:
+ Vai trò của nhân vật trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm và quan điểm
sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
+ Thành công của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Phần rút ra nhận xét, bàn luận theo yêu cầu của đề (nếu có).
c) Kết bài: - Khẳng định lại vấn đề nghị luận
- Liên hệ, mở rộng, nêu suy nghĩ của bản thân.
2.2.3.3. Bài tập vận dụng minh họa
Đề bài:
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu hai lần
miêu tả hành động van xin của người đàn bà hàng chài.
Tại bờ biển, khi bị chồng đánh và chứng kiến cảnh đứa con trai - thằng Phác đánh lại bố: “Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau
đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.
- Phác, con ơi!
Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm
chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy.”
Và tại tòa án huyện, khi chánh án tòa án huyện - Đẩu – yêu cầu bỏ chồng:
“Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,
đừng bắt con bỏ nó…”
Hãy phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài trong hai lần miêu tả trên, từ
đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật này.
(Nguyễn Minh Châu - Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.72
và tr.74)
a) Mở bài: - Giới thệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu phần cần phần tích/ cảm nhận theo yêu cầu đề bài: Hình tượng người
đàn bà hàng chài với hai lần có hành động van xin ở bãi biển và tòa án huyện.
b) Thân bài:



20

* Khái quát về người đàn bà hàng chài
- Không tên tuổi, vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác
- Ngoại hình xấu xí, thô kệch
- Số phận đau khổ, bất hạnh:
+ Nghèo khổ, lam lũ, vất vả
+ Nạn nhân của nạn bạo hành gia đình: thường xuyên bị chồng đánh đập.
* Phân tích chi tiết hành động vái lạy đứa con trai
- Nguyên cớ của hành động:
+ Người đàn bà, sau một đêm thức trắng kéo lưới, theo người đàn ông lên bờ, chờ
chồng đánh. Bị chồng đánh dã man, tàn bạo, người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục,
không hề kêu, không chống trả, không chạy trốn.
+ Thằng Phác lao tới, giằng chiếc thắt lưng, quật vào lão đàn ông. Gã đàn ông tát
thằng bé hai cái khiến nó lảo đảo ngã dúi xuống cát…
- Ý nghĩa của hành động:
+ Cầu xin thằng bé tha thứ, mụ day dứt, mặc cảm vì chưa trọn phận làm mẹ. Mụ đã
không thể che chở cho tâm hồn ngây thơ non nớt ấy tránh được vết thương tâm
hồn.
+ Van nài thằng bé giữ trọn đạo hiếu của kẻ làm con.
=> Đó là nghịch lí của cuộc đời và cũng là hành động của người mẹ rất mực
thương con, xót đau khi phải chứng kiến đứa con vì thương mẹ mà lỗi đạo với cha
nó.
* Phân tích chi tiết hành động vái lạy quý tòa
- Nguyên cớ của hành động: Chứng kiến cảnh ngộ của người đàn bà “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, với tư cách là người bảo vệ công lí cho nhân
dân, chánh án Đẩu đã mời người đàn bà đến và yêu cầu người đàn bà li hôn.
- Ý nghĩa của hành động:

+ Cầu xin không ly hôn với chồng, quyết không giải phóng cuộc đời mình =>
nghịch lí, trớ trêu, khó hiểu
+ Thể hiện sự cam chịu, nhẫn nhục thậm chí nhu nhược, đớn hèn không dám đấu
tranh để giải phóng số phận của nhân vật => cái nhìn bề ngoài.
=> Đó là hành động của con người chấp nhận đớn đau để có hạnh phúc. Nghịch lí
đó khiến Phùng và Đẩu nhận ra, cuộc đời không đẹp, không lãng mạn nên thơ như
chiếc thuyền ngoài xa bồng bềnh trong sương hồng. Đây cũng là cơ hội để họ thấu
hiểu về cuộc đời.
* Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài qua hai chi tiết:
- Vẻ đẹp của một người đàn bà từng trải, sâu sắc lẽ đời: Đây là vẻ đẹp đặc biệt nhất
của chị bởi chị là người đàn bà ít học nhưng chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng (do
hoàn cảnh), thấu hiểu tình thương và cả sự nông nổi của con thơ, chị hiểu cuộc đời
của người đàn bà hàng chài cần một người đàn ông trên thuyền để chèo chống khi
phong ba bão táp. Vì vậy, chị không thể bỏ chồng, càng không thể để đứa con phạm
đạo hiếu.


21

- Vẻ đẹp khoan dung, nhân hậu, hi sinh, vị tha: Chị cương quyết không chịu bỏ
chồng có nghĩa chị chấp nhận đòn roi của chồng. Chị coi đó như một cách giải tỏa
những bức bách, u uất trong lòng người chồng. Thậm chí chị không đổ lỗi cho
chồng mà kéo lỗi về phía mình (nhà nghèo mà mình lại đẻ nhiều quá)
- Vẻ đẹp tình mẫu tử thiêng liêng:
+ Chị luôn tìm mọi cách để bảo vệ con, bảo vệ tâm hồn non nớt của thằng Phác: xin
chồng đưa mình lên bờ mà đánh, và phải gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại.
+ Chị không bỏ chồng vì “Người đàn bà hàng chài chúng tôi sống cho con chứ
không phải sống cho mình” và niềm hạnh phúc của người đàn bà ấy là “ngồi nhìn
đàn con tôi chúng nó được ăn no…”
* Đánh giá:

+ Đây là những chi tiết nghệ thuật độc đáo mà Nguyễn Minh Châu đã dụng công
xây dựng để khắc họa vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài. Từ hành động ấy, tác giả
đã giúp ta phát hiện ra “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của nhân vật”.
+ Người đàn bà hàng chài là đại diện tiêu biểu cho cuộc đời và phẩm chất của người
phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung. Qua nhân vật người
đàn bà hàng chài, tác giả không chỉ bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của
con người mà còn là cái nhìn ấm áp trước vẻ đẹp tâm hồn con người, thức tỉnh con
người về cách nhìn nhận cuộc đời.
c) Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị của vấn đề nghị luận
- Liên hệ, mở rộng, nêu suy nghĩ của bản thân về vấn đề.
2.3. Hiệu quả của ứng dụng sáng kiến kinh nghiệm trong thực tiễn giảng dạy
Qua một năm thực hiện đề tài, tôi nhận thấy năng lực đọc hiểu và kĩ năng viết
bài nghị luận về đoạn văn trong tác phẩm văn xuôi của học sinh được nâng lên rõ
rệt sau từng kỳ học. Nhiều em đã không còn ngại đọc đã viết được bài nghị luận
thành thạo, đảm bảo sự liên kết cả về nội dung cũng như hình thức. Kết quả thi
THPT Quốc gia của học sinh 2 lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã giúp tôi kiểm chứng
hiệu quả của việc thực hiện đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực đọc- hiểu cho
học sinh trung học phổ thông qua một số dạng đề nghị luận về đoạn trích
trong tác phẩm văn xuôi”.
* KẾT QUẢ THI THPT QUỐC GIA NĂM 2018-2019 CỦA HỌC SINH HAI LỚP
12 TRƯỜNG THPT HÀ TRUNG TRƯỚC VÀ SAU KHI TRIỂN KHAI
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Tổng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Khối lớp

số học
sinh
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
3 6,7
7
15,6
20
44,4
15 33,3%
45
Đầu 12A3
%
%
năm
1
2,8
6
16,7
18
50,0
11 30,5%
12A9
36

%
%
%


22

Cuố
i
năm

22,2 25
55,6
9
20,0
1
2,2%
%
%
%
12A9
36
8
22,2 20
55,6
6
16,7
2
5,5%
%

%
%
So với kết quả khi chưa thực hiện đề tài, kết quả có thay đổi rõ rệt, tỉ lệ khá
giỏi tăng, tỉ lệ trung bình, yếu giảm. Dưới đây là thống kê số liệu tăng, giảm cụ thể:
BẢNG SO SÁNH ĐỐI CHỨNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRƯỚC VÀ SAU KHI
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI SKKN.
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Lớp
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
+7 + 15,5% +18 + 40,0% - 11 - 24,4% - 14 - 21,1%
12A3
12A7

12A3

+7

45

10


+ 19,4% +14

+ 38,9%

- 12

-33,3%

-9

- 25,0%

( Kí hiệu: + là tăng; - là giảm).
Nhìn vào bảng so sánh đối chứng ta thấy sau khi thực hiện đề tài số học sinh
đạt điểm giỏi và khá tăng lên đáng kể, còn điểm trung bình và yêu đã giảm rõ rệt.
Kết quả này cũng được khẳng định một cách khách quan qua các bài kiểm tra
thường xuyên, kiểm tra định kì, kiểm tra kết thúc học kỳ và khảo sát bồi dưỡng
môn Ngữ văn của trường THPT Hà Trung trong năm học vừa qua. Kết quả như
trên đã nằm ngoài dự kiến và mong muốn của người thực hiện đề tài. Mong rằng
kết quả này sẽ được tiếp tục khẳng định qua kỳ thi THPT Quốc gia trong các năm
học tới.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Để ôn thi tốt nghiệp rèn luyện, nâng cao năng lực đọc hiểu và làm bài thi, kiểm
tra đạt kết quả cao, đòi hỏi giáo viên cần áp dụng các phương pháp giảng dạy linh
hoạt với từng đối tượng học sinh, với từng dạng văn bản, dạng đề thi; bản thân
người giáo viên cần tích cực tìm tòi, nghiên cứu tài liệu để không chỉ có cái nhìn
sâu rộng về tác phẩm mà hiểu bản chất của việc đổi mới đề thi, cấu trúc thi…trên
cơ sở đó từng bước định hướng học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo, đổi mới trong

cách tiếp cận một văn bản thực thụ. Thành công của giờ dạy không chỉ là kết quả
đạt được cuối cùng của kì thi mà quan trọng hơn những tác phẩm văn học đó đã có
sự tác động sâu sắc đến tâm hồn, tình cảm của học sinh như thế nào.
Sáng kiến kinh nghiệm được rút từ thực tế giảng dạy, qua quá trình hướng dẫn
học sinh rèn luyện, nâng cao năng lực đọc hiểu và rèn kĩ năng viết bài văn nghị
luận nói chung và bài nghị luận về đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi nói riêng.
Những giải pháp thực hiện đã giúp học sinh nhất là đối tượng học sinh từ trung
bình trở xuống có được năng lực đọc hiểu và phương pháp làm bài cụ thể, giúp các
em tự tin, hào hứng với các đề văn nghị luận về đoạnvăn trong tác phẩm văn xuôi.
Khi học sinh đã có kỹ năng viết bài văn nghị luận về đoạn văn trong tác phẩm văn


23

xuôi sẽ giúp các em hoàn thành tốt các dạng bài nghị luận khác và cũng sẽ vững
vàng hơn trong việc nhận thức, xử lí nhiều vấn đề trong cuộc sống.
3.2. Kiến nghị
- Về phía nhà trường: Nên bổ sung thêm tài liệu mới về các dạng đề văn nghị luận
trong những năm gần đây để học sinh tham khảo; Tổ chức các hoạt động ngoại
khóa, câu lạc bộ văn học để các em được trò chuyện, trao đổi vè thể hiện năng lực
của mình, giúp các em tự tin hơn trong các kỹ năng học- thực hành và vận dụng
vào thực tiễn cuộc sống.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức về văn nghị luận: Khái
niệm, mục đích, đặc điểm, cách trình bày nội dung trong bài văn nghị luận. Phải
điều tra khảo sát thực tế và tuỳ theo đối tượng học sinh khá, giỏi hay trung bình,
yếu mà vận dụng lựa chọn các dạng bài tập phù hợp. Qua đó củng cố hoặc nâng cao
kiến thức về kiểu bài nghị luận về đoạn văn trong tác phẩm văn xuôi và rèn luyện
kỹ năng viết bài cho học sinh.
- Học sinh chủ động, tích cực trình bày quan điểm cá nhân về vấn đề trong đoạn
trích của tác phẩm văn xuôi, nắm vững kỹ năng viết bài văn nghị luận. Viết bài văn

cũng cần kiên trì và quyết tâm, tập viết và viết nhiều lần, vừa viết vừa rút kinh
nghiệm sẽ được bài văn đúng, hay và hấp dẫn.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi qua việc thực hiện đề tài ở trường THPT
Hà Trung. Tuy nhiên, đây chỉ là kinh nghiệm mang tính chủ quan của bản thân và
mới áp dụng trong thời gian ngắn, phạm vi hẹp. Rất mong sự đóng góp ý kiến, trao
đổi, bổ sung của bạn bè đồng nghiệp và sự phổ biến nhân rộng của đề tài để kết quả
giáo dục nói chung, dạy và học văn nói riêng của học sinh ngày càng được nâng
cao.
Xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 6 năm 2020.
XÁC NHẬN CỦA
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ:
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện:


24



×