Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tiểu luận ô nhiễm không khí vấn đề toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SƯ PHẠM
----------------

BÀI TIỂU LUẬN
Học phần: Giáo dục môi trường cho học sinh
tiểu học
Tên đề tài: Ô nhiễm không khí - vấn đề toàn cầu
thực trạng và giải pháp

Giảng viên

: Nguyễn Hữu Duy Viễn

Sinh viên

: Đinh Thị Bích Thủy

1


Lớp

: ĐHGD Tiểu Học B – K59

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
II. NỘI DUNG.................................................................................................2
1. Cơ sở lý luận................................................................................................2
1.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường không khí.................................................2
1.2. Nguồn gây ô nhiễm không khí..................................................................2


2. Thực trạng ô nhiễm không khí ở một số nước trên thế giới....................4
3. Thực trạng ô nhiễm không khí tại Việt Nam............................................7
3.1. Tại các đô thị..............................................................................................7
3.1.1. Thực trạng...............................................................................................7
3.1.2. Nguyên nhân..........................................................................................11
3.1.3. Hậu
quả..................................................................................................17
3.2. Tại các vùng nông thôn............................................................................19
3.2.1. Thực trạng.............................................................................................19
3.2.2. Nguyên nchân.......................................................................................23
3.2.3. Hậu quả.................................................................................................25
4. Các biện pháp hạn chế ô nhiễm không khí.............................................26
5. Kết luận......................................................................................................29
Tài liệu tham khảo.........................................................................................31

2


I.

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Thế giới ngày càng phát triển đưa con nguời đến những tiến bộ mới về
khoa học kỹ thuật và công nghệ nhưng cũng làm con người phải đối mặt với
những với những thách thức mới.Một trong những thách thức lớn mang tính
toàn cầu đó là thách thức về môi trường.Thế giới ngày càng phát triển nhưng
sự phối hợp quản lý môi trường ở quy mô quốc tế vẫn còn chậm. Những
thành quả về môi trường thu được nhờ công nghệ và những chính sách mới
đang không theo kịp nhịp độ và quy mô gia tăng dân số và phát triển kinh

tế.Thách thức về môi trường thể hiện ở:
Hiệu ứng nhà kính đang gia tăng
Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần suất thiên tai gia tăng
Sự suy giảm tầng ozon
Tài nguyên bị suy thoái
Ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở qui mô rộng và ngày càng nghiêm
trọng
 Sự gia tăng dân số mạnh mẽ
 Sự suy giảm tính đa dạng sinh học trên trái đất…






Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta đang trên đà phát triển.
Các khu công nghiệp, các nhà máy lớn đang mọc lên khắp nơi. Cùng với sự ô
nhiễm môi trường đất, nước, thực phẩm, sinh thái, nguồn tài nguyên là sự ô
nhiễm môi trường không khí đang trở thành vấn đề gây bức xúc cho nhân
loại, cần phải được giải quyết một cách có quy hoạch và hiệu quả.
Sự phát triển về giao thông, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch cùng với việc
khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt hằng năm đã thải
vào môi trường không khí, đất, nước một lượng lớn các chất thải khác nhau
mà chưa qua xử lý (hay chưa được xử lý triệt để), gây hậu quả nghiêm trọng
đối với con người và sinh vật. Hậu quả thấy rõ rệt nhất đó là sự biến đổi về
khí hậu.

1



Tổ chức Y tế Thế giới ước tính vào năm 2014 rằng mỗi năm ô nhiễm không
khí gây ra cái chết thiếu tháng của khoảng 7 triệu người trên toàn thế giới. Ấn
Độ có tỷ lệ tử vong cao nhất do ô nhiễm không khí. Theo Tổ chức Y tế Thế
giới, Ấn Độ cũng có nhiều ca tử vong do hen suyễn hơn bất kỳ quốc gia nào
khác. Trong tháng 12 năm 2013, ô nhiễm không khí ước tính giết 500.000
người ở Trung Quốc mỗi năm. Có sự tương quan dương giữa tử vong do viêm
phổi và ô nhiễm không khí do phát thải xe cơ giới. Cứ tám ca tử vong trên toàn
cầu thì có một ca tử vong do bị phơi nhiễm ô nhiễm không khí. Số liệu phân tích
thống kê này cho thấy con số tử vong do ô nhiễm không khí tăng lên so với ước
tính trước đây và xác nhận rằng ô nhiễm không khí là nguy cơ môi trường đơn lẻ
lớn nhất thế giới hiện nay đối với sức khỏe. Giảm ô nhiễm môi trường có thể cứu
sống được rất nhiều người.
Chính vậy, ô nhiễm không khí đang là tình trạng đáng báo động, cần sự
quan tâm của tất cả cộng đồng nhằm nâng cao ý thức, đưa ra biện pháp xử lý
nhằm cứu lấy chính mình! Đấy là lí do em lựa chọn đề tài: “Ô nhiễm không
khí - vấn đề toàn cầu thực trạng và giải pháp” để thực hiện bài tiểu luận này.
Tuy đã cố gắng nhưng chắc chắn bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót,em rất mong
được sự hướng dẫn, góp ý thêm của thầy để bài viết được hoàn thiện hơn!
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam và
một số nước trên thế giới
- Xây dựng cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp nhằm bảo vệ
môi trường không khí
- Đề xuất giải pháp để bảo vệ môi trường không khí

2


3. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập dữ liệu sơ cấp

- Phương pháp tổng hợp phân tích

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận

3


1.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường không khí
Ô nhiễm không khí là sự có mặt của các chất lạ hoặc sự biến đổi quan
trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí nó không sạch, có mùi
khó chịu, bụi làm giảm tầm nhìn...
1.2. Nguồn gây ô nhiễm không khí
Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí nhưng chúng ta có thể
chia thành 2 chính đó là: nguồn tự nhiên và nguồn nhân tạo.
* Nguồn tự nhiên:
+ Núi lửa: Núi lửa phun ra những nham thạch nóng và nhiều khói bụi
giàu sunfua, mêtan và những loại khí khác. Không khí chứa bụi lan toả đi rất
xa vì nó được phun lên rất cao.

+ Cháy rừng: Các đám cháy rừng và đồng cỏ bởi các quá trình tự nhiên
xảy ra do sấm chớp, cọ sát giữa thảm thực vật khô như tre, cỏ. Các đám cháy
này thường lan truyền rộng, phát thải nhiều bụi và khí.

4


+ Bão bụi gây nên do gió mạnh và bão, mưa bào mòn đất sa mạc, đất
trồng và gió thổi tung lên thành bụi. Nước biển bốc hơi và cùng với sóng biển
tung bọt mang theo bụi muối lan truyền vào không khí.


+ Các quá trình phân huỷ, thối rữa xác động, thực vật tự nhiên cũng
phát thải nhiều chất khí, các phản ứng hoá học giữa những khí tự nhiên hình
thành các khí sunfua, nitrit, các loại muối v.v... Các loại bụi, khí này đều gây
ô nhiễm không khí.
* Nguồn nhân tạo:

5


Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng, nhưng chủ yếu là do hoạt
động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hoá thạch và hoạt động của các phương
tiện giao thông. Nguồn ô nhiễm công nghiệp do hai quá trình sản xuất gây ra:
+ Quá trình đốt nhiên liệu thải ra rất nhiều khí độc đi qua các ống khói
của các nhà máy vào không khí. Do bốc hơi, rò rỉ, thất thoát trên dây chuyền
sản xuất sản phẩm và trên các đường ống dẫn tải. Nguồn thải của quá trình
sản xuất này cũng có thể được hút và thổi ra ngoài bằng hệ thống thông gió.
+ Các ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm không khí bao gồm:
Nhiệt điện; vật liệu xây dựng; hoá chất và phân bón; dệt và giấy; luyện kim;
thực phẩm; Các xí nghiệp cơ khí; Các nhà máy thuộc ngành công nghiệp nhẹ;
Giao thông vận tải; bên cạnh đó phải kể đến sinh hoạt của con người.
Cụ thể:
Nguồn sinh
Thuộc loại
Thành phần chính
Sản xuất xi măng
Bụi, tro vô cơ
SiO2, CaO, MgO, C, …
Chế biến than
Bụi, tro than

Hạt C, bụi cốc, bụi S,…
CN luyện kim
Bụi vô cơ
Các oxit kim loại, CaO, MgO, C, …
Vật liệu xây dựng
Bụi khoáng vô cơ
SiO2, oxit kim loại, C, …
CN thủy tinh
Bụi silic, khoáng
Silicat, thạch anh, oxit kim loại, …
CN dệt, tơ sợi
Bụi vải bông
Bột polime hữu cơ, bột bông, …
CN chế biến gỗ
Bụi gỗ
Bột gỗ, xenlulozo, phụ gia,…
Bảng 1. Nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí ở dạng bụi
Nguồn sinh ra
CN cốc hóa than

Thuộc loại
Khí than

Thành phần chính
CO, NH3, SO2, NOx, …

6


Sản xuất xi măng

Khí lò
SO2, NO2, CO, HCl, HF, …
CN luyện gang, thép
Khí lò
CO, NOx, SO2, hơi kim loại, …
CN nhiệt điện
Khí than
CO, SO2, NOx, HCl, …
CN sản xuất H2SO4
Khí vô cơ
SO2, SO3, …
CN sản xuất HNO3
Khí vô cơ
NO, NO2, NOx, …
Bảng 2. Nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí ở dạng khí
2. Thực trạng ô nhiễm không khí ở một số nước trên thế giới
Theo thông tin từ Tổ chức Y tế thế giới WHO, ô nhiễm không khí gây ra cái
chết sớm cho khoảng 4,2 triệu người trên thế giới vào năm 2016. Trong đó,
91% tỉ lệ thuộc về các nước nghèo và đông dân ở Đông Nam Á và Tây Thái
Bình Dương.
Bob O'Keefe, Phó Chủ tịch WHO chia sẻ: "Ô nhiễm không khí thực sự là một
cú sốc lớn cho toàn cầu. Vấn nạn này khiến những người mắc bệnh hô hấp
thêm khó thở, trẻ con và người già phải vào viện, bỏ học, bỏ việc và gây ra
những cái chết sớm cho con người".
Health Effects Institute (HEI) vừa đưa ra phát hiện mới nhất trong báo cáo
thường niên 2018, dựa trên dữ liệu vệ tinh và được quy chiếu với các tiêu
chuẩn trong Hướng dẫn đánh giá chất lượng không khí của WHO. HEI cho
biết, hơn 95% dân số thế giới đang phải hít thở bầu không khí ô nhiễm và có
đến 60% người sống ở những khu vực không đáp ứng được tiêu chuẩn cơ bản
nhất của WHO. Theo đó, ô nhiễm môi trường không khí là nguyên nhân gây

tử vong cao thứ tư thế giới, chỉ đứng sau cao huyết áp, suy dinh dưỡng và hút
thuốc lá.
Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia đứng đầu danh sách ô nhiễm môi
trường, chiếm 50% số ca tử vong do ô nhiễm không khí trên toàn cầu. Riêng
tại Trung Quốc đã ghi nhận 1,1 triệu người chết vì ô nhiễm không khí trong
năm 2016.
Mặc cho nhận thức về môi trường sống và ô nhiễm không khí ngày càng được
cải thiện tại các đô thị lớn, tình hình vẫn ngày càng trầm trọng hơn khi 2/3 thế
giới đang phải hứng chịu nạn ô nhiễm khủng khiếp với chỉ số hạt bụi PM2.5
cao trên mức 35 µg/m3 khí, chủ yếu tại Châu Á, Trung Đông và Châu Phi.

7


Nguyên nhân là do dân số những khu vực này tăng quá nhanh, khiến các nỗ
lực giảm thiểu ô nhiễm không khí chỉ như "muối bỏ bể"
 Trung Quốc:
Thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc đã và đang phải chống chọi với tình
trạng ô nhiễm khói bụi đô thị ở mức báo động màu cam (mức độ ô nhiễm
cao). Chỉ trong tháng 3 đầu năm 2018 cảnh báo màu cam được thông báo
2 lần. Cảnh báo này cho biết khói bụi đã làm giảm tầm nhìn xuống dưới
1,24 dặm và độ ẩm tương đối ít hơn 80%, nồng độ bụi trong không khí
PM2.5 đạt từ 500-700µg/m³. Người dân Bắc Kinh được khuyến cáo nên
tránh các hoạt động ngoài trời để đảm bảo sức khỏe. Dự báo thời tiết Bắc
Kinh cho thấy ô nhiễm leo thang với mức độ nhanh từ ô nhiễm nhẹ ở mức
3 trong vòng 3 ngày liên tiếp đã tăng lên ô nhiễm nặng ở mức 5. Bắc Kinh
trở thành thủ đô ô nhiễm hàng đầu thế giới.
Vào đầu năm 2017, 9 tỉnh và thành phố lớn ở miền Bắc và miền Trung
Trung Quốc chìm trong khói bụi ô nhiễm. Ô nhiễm không khí đã khiến
giao thông ùn tắc nhiều ngày, nhiều tuyến đường bị đóng cửa do khói bụi

dày đặc làm giảm tầm nhìn, nhiều chuyến bay đã bị hủy. Trung Quốc rơi
vào cảnh “ngày cũng như đêm”.
Hồng Kông (Trung Quốc) báo động vì màn “mây khói độc”
Mức độ ô nhiễm không khí ở Hồng Kông đã tăng cao kỷ lục, với Cơ
quan bảo vệ môi trường cảnh báo màn “mây khói độc” bao phủ thành phố là
một hiểm họa đối với dân chúng.
Chính quyền Hồng Kông cho hay
chỉ số ô nhiễm không khí (API) hiện
nay đã tăng gấp đôi và dân chúng được
khuyên ở trong nhà hoặc tránh tiếp xúc

Ảnh 1. Mây khói độc che khuất đường chân
trời nhìn ra quận WanChai

8


lâu với những khu vực đông xe cộ. Chỉ số API hiện nay đang ở mức cao kỷ
lục”, người phát ngôn của cơ quan Bảo vệ môi trường cho hay.
Đường chân trời cùng vịnh nổi tiếng của Hồng Kông thường xuyên bị phủ
trong màn sương mờ khói bụi, được cho là thảm họa đối với sức khỏe của dân
chúng và khiến một số người tránh xa khỏi trung tâm tài chính quốc tế này.
Tháng 7/2008, cơ quan môi trường thành phố đo được mức ô nhiễm không
khí là 202, thấp hơn nhiều so với con số kỷ lục 413 hiện nay ở một nhà ga ven
đường.
Dựa trên chỉ số API, những người có vấn đề về tim mạch và hô hấp được
khuyên ở trong nhà, khi chỉ số xuống còn hơn 100. Công chúng được khuyên
ở trong nhà, tránh tiếp xúc lâu với khu vực nhiều xe cộ, khu vực có chỉ số API
hơn 200.
Một nghiên cứu của cơ quan phân tích Civic Exchange (Trao đổi đô thị) vào

năm ngoái cho hay khí thải trên đường phố của chính Hồng Kông là nguồn
chủ yếu gây ra ô nhiễm không khí ở thành phố đông đúc, 7 triệu dân này.


London (Anh) đứng đầu châu Âu về ô nhiễm không khí
London đã trở thành thủ đô ô nhiễm nhất châu Âu, và Anh có thể sẽ

phải chịu án phạt của Liên minh châu Âu (EU) do mức độ ô nhiễm không khí
đạt mức nguy hiểm, vượt mức quy định của EU. Kỷ lục "thành phố ô nhiễm
nhất châu Âu" được thiết lập sau khi thiết bị kiểm soát chất lượng không khí
cho thấy số ngày có mức độ ô nhiễm không khí tại thủ đô London chạm mức
nguy hiểm đã lên tới con số 36 ngày kể từ đầu năm nay. Theo quy định của
EU, trong một năm, Anh chỉ được phép có tối đa 35 ngày khi chất lượng
không khí "được phép" ở mức độ "nguy hiểm."

9


Việc phá vỡ quy định của EU chỉ trong nửa năm là điều rất đáng lo ngại đối
với chính phủ Anh, bởi nước này vừa nhận cảnh báo cuối cùng từ Ủy ban
châu Âu cách đây ba tuần về việc phải cải thiện chất lượng không khí.
Một nghiên cứu khác do Thị trưởng London Boris Johnson chủ trì cũng cho
thấy chất lượng không khí tồi tệ là nguyên nhân dẫn tới cái chết của 4.300
người tại London, gây thiệt hại khoảng 2 tỷ bảng mỗi năm.
 Moscow(Nga) khói bụi mịt mờ
Tại Kremlin và Nhà thờ St. Basil, đường chân trời đã biến mất do màn
khói bụi dày đặc và độc hại bao trùm khắp thủ đô Moscow, khiến rất nhiều
trong số 10 triệu cư dân của thành phố này bị đau mắt, rát họng.
Ngày 6/8/2010, Tổng thống
Dmitry Medvedev cùng các quan chức

y tế Nga đã tới thăm một trạm cứu
thương Moscow. Ông được báo cáo
rằng số lượng các cuộc gọi khẩn cấp
trong thời gian gần đây tăng 10%, liên
quan tới nắng nóng và khói mù. Khói
bụi từ hàng trăm đám cháy rừng đã
khiến cho lượng carbon monoxide ở
Ảnh 2. Người dân đi bộ tại trung tâm Moscow tăng gấp 5 lần mức được cho
Moscow trong làn khói dày đặc.
(Ảnh: Reuters)

là an toàn, theo Bộ Y tế Nga. Người
dân thành phố được khuyến khích ở

yên trong nhà. Trả lời phỏng vấn báo RIA Novosti, các quan chức y tế so
sánh mức độ ô nhiễm không khí hiện nay tương đương với hút vài bao thuốc
mỗi ngày. Một số chuyến bay tới Moscow phải chuyển hướng do tầm nhìn
kém. Percy von Lipinski, một khách du lịch ở Nga, miêu tả mặt trời trông “chỉ
như trái cam nhỏ xíu đang cố gắng thắp sáng bầu trời”.

10


 Một số quốc gia khác:
Cũng như Trung Quốc, Philippines cũng phải đối mặt với những thách
thức từ ô nhiễm khói bụi tại các thành phố lớn trong đó có thủ đô Manila.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng ô nhiễm không khí tại Manila là do khí
thải, khói bụi từ các phương tiện giao thông, chiếm 80% nguồn gây ô nhiễm.
Quốc gia đông dân khác ở châu Á là Ấn Độ cũng có 2 thành phố là New
Delhi và Varanasi nằm trong số 14 thành phố của quốc gia này có mức độ ô

nhiễm không khí cao nhất thế giới xét về lượng hạt bụi PM2.5. Những thành
phố khác của Ấn Độ có mật độ hạt bụi rất cao có thể kể đến là Kanpur,
Faridabad, Gaya, Patna, Agra, Muzaffarpur, Srinagar, Gurgaon, Jaipur, Patiala
và Jodhpur. Hơn 2 thập kỷ qua, nền kinh tế Ấn Độ tăng trưởng với tốc độ cao,
song hành với đó là mức độ ô nhiễm do khói bụi cũng tăng đột biến.
Có thể nói, nhiều quốc gia châu Á đã phải “trả giá đắt” cho việc tăng trưởng
kinh tế nhanh, đô thị hóa với tốc độ cao đó là tình trạng ô nhiễm khói bụi
nghiêm trọng. Các quốc gia này đã đưa ra nhiều biện pháp để khắc phục tình
trạng này, tuy nhiên hiệu quả vẫn còn rất thấp.
Các nhà môi trường cho biết ô nhiễm không khí trong nhà đã trở thành nhân
tố rủi ro hàng đầu cho “gánh nặng bệnh tật” ở Nam Á, xếp thứ hai ở khu vực
Đông, Trung và Tây Phi, xếp thứ ba ở Đông Nam Á.
3. Thực trạng ô nhiễm không khí tại Việt Nam
Tại Việt Nam, do có sự khác biệt về cơ sở hạ tầng, thành phần kinh tế,…
mà sự ô nhiễm không khí giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn cũng có sự
khác nhau rõ rệt.
Theo báo cáo thường niên The Environmental Performance Index (EPI) của
Mỹ thực hiện, Việt Nam hiện đang đứng trong top 10 các nước ô nhiễm không
khí ở Châu Á. Đáng lưu ý, tổng lượng bụi ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đang

11


liên tục tăng cao khiến chỉ số chất lượng không khí (AQI) luôn ở mức báo
động.Năm 2016, GreenID công bố báo cáo Sơ lược tình trạng môi trường Hà
Nội và TP.HCM:
Hà Nội: chỉ số AQI trung bình là 121, nồng độ bụi PM2.5 là 50.5 gấp đôi
quy chuẩn quốc gia (25 µg/m3) và gấp năm lần khuyến nghị từ WHO (10
µg/m3).
TP.HCM: chỉ số AQI trung bình là 86, nồng độ bụi PM2.5 là 28.3 cao hơn so

với quy chuẩn quốc gia và gấp ba lần khuyến nghị từ WHO.
Nồng độ bụi trung bình trong không khí ở Hà Nội và TP.HCM vượt mức cho
phép từ hai đến ba lần và có xu hướng duy trì ở ngưỡng cao. Nguồn sinh ra bụi
ô nhiễm ở các đô thị lớn hầu hết là từ khí thải giao thông, công trình xây dựng,
đường sá và nhà máy công nghiệp. Hà Nội chỉ đứng sau New Delhi, Ấn Độ
(124 µg/m3), nơi ô nhiễm không khí nặng nhất nhì thế giới.
Đối với vùng nông thôn, nhìn chung chất lượng môi trường không khí còn khá
tốt. Môi trường chủ yếu bị tác động cục bộ bởi các hoạt động sản xuất làng
nghề, xây dựng, đốt rơm rạ, đốt rác thải, đun nấu, v.v.
3.1. Tại các đô thị
3.1.1. Thực trạng
a. Ô nhiễm bụi
Ở hầu hết các đô thị nước ta đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm
bụi trầm trọng, tới mức báo động. Các khu dân cư ở cạnh đường giao thông
lớn và ở gần các nhà máy, xí nghiệp cũng bị ô nhiễm bụi rất lớn. Nồng độ bụi
trong các khu dân cư ở xa đường giao thông, xa các cơ sở sản xuất hay trong
các khu công viên cũng đạt tới xấp xỉ trị số tiêu chuẩn cho phép.
Nồng độ bụi trong không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng trung bình lớn hơn trị số tiêu chuẩn

12


cho phép từ 2 đến 3 lần, ở các nút giao thông thuộc các đô thị này nồng độ bụi
lớn hơn tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 5 lần, ở các khu đô thị mới đang diễn ra
quá trình thi công xây dựng nhà cửa, đường sá và hạ tầng kỹ thuật thì nồng độ
bụi thường vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 - 20 lần.
Ở các thành phố, thị xã thuộc Đồng bằng Nam Bộ có mức ô nhiễm bụi
trung bình cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 đến 1,5 lần, như ở thành phố
Cần Thơ, thị xã Rạch Giá, thị xã Hà Tiên, thị xã Bến Tre. Nói chung, ô nhiễm

bụi ở các tỉnh, thành miền Nam trong mùa khô thường lớn hơn trong mùa
mưa.
Nồng độ bụi trong không khí ở các thị xã, thành phố miền Trung và
Tây Nguyên (như là thị xã Tam Kỳ, Hội An, Nha Trang, Cam Ranh, Vinh,
Đồng Hới, Buôn Ma Thuột, Kon Tum,...) cao hơn ở các thành phố, thị xã
Nam Bộ.
Nồng độ bụi ở các đô thị thuộc các tỉnh miền núi, vùng cao, nói chung
còn thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép (tức là không khí còn trong sạch), như
là Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Đà Lạt,... Ngược lại, ở các đô thị phát triển
đường giao thông và xây dựng nhà cửa mạnh, thì môi trường không khí bị ô
nhiễm bụi tương đối nặng, như thị xã Vĩnh Yên (nồng độ bụi: 0,70 1,23mg/m3), thị xã Phúc Yên (0,99 - 1,33mg/m 3), thị trấn Hoà Mạc, Hà Nam
(1,31mg/m3), thị xã Hà Đông (0,9 - 1,5mg/m3),...
Trên Hình V.5 giới thiệu diễn biến nồng độ bụi trong không khí từ năm
1995 đến hết năm 2002 ở các khu dân cư bên cạnh các khu công nghiệp.

13


b. Ô nhiễm khí SO2:
Nói chung, nồng độ khí SO2 trung bình ở các đô thị và khu công nghiệp
nước ta còn thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép.
Trong các thành phố, thị xã đã quan trắc thì ở các thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, Long An có nồng độ khí SO 2 lớn
nhất, nhưng vẫn thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép tới 2 lần, ở các thành phố
khác còn lại, như Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long, Thanh Hoá, Vinh, Huế, Cần
Thơ, Cà Mau, Mỹ Tho,... nồng độ khí SO2 trung bình ngày đều dưới 0,1
mg/m3, tức là thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép tới 3 lần.

14



c. Ô nhiễm các khí CO, NO2 :
Ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,
Hải Phòng, nồng độ khí CO trung bình ngày dao động từ 2 - 5 mg/m 3, nồng
độ khí NO2 trung bình ngày dao động từ 0,04 - 0,09mg/m 3, chúng đều nhỏ
hơn trị số tiêu chuẩn cho phép, tức là ở các đô thị và khu công nghiệp Việt
Nam, nói chung chưa có hiện tượng ô nhiễm khí CO và khí NO 2. Tuy vậy, ở
một số nút giao thông lớn trong đô thị nồng độ khí CO và khí NO 2 đã vượt trị
số tiêu chuẩn cho phép, như ở ngã tư Đinh Tiên Hoàng - Điện Biên Phủ
(thành phố Hồ Chí Minh) trị số trung bình ngày của năm 2001: 0,19, gấp 1,9
lần trị số tiêu chuẩn cho phép, nồng độ CO năm 2001: 15,48 gấp 3,1 lần trị số
tiêu chuẩn cho phép; tương tự, năm 2002 nồng độ khí NO2 = 0,191mg/m3 và
khí CO = 12,67mg/m3.

15


Biểu đồ. Diễn biến nồng độ CO tại các tuyến đường phố của một số đô thị
2002-2006
Nguồn: Chi cục BVMT TP. Hồ Chí Minh, Cục BVMT, 2007

d. Nhiễm chì (Pb) trong không khí đô thị
Thực hiện chỉ thị 24/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ở nước ta
đã sử dụng xăng không pha chì từ ngày 1-7-2001. Số liệu quan trắc ô nhiễm
giao thông cho thấy nồng độ chì trong không khí Hà Nội trung bình năm 2002
giảm đi khoảng 40 - 45% so với cùng thời kỳ năm trước; tương tự, ở thành
phố Hồ Chí Minh nồng độ chì giảm đi khoảng 50%.
3.1.2. Nguyên nhân
a. Nguồn ô nhiễm không khí từ hoạt động công nghiệp
Công nghiệp cũ (được xây dựng trước năm 1975) đều là công nghiệp

vừa và nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, một số cơ sở sản xuất có thiết bị lọc
bụi, hầu như chưa có thiết bị xử lý khí thải độc hại. Nói chung, công nghiệp
cũ không đạt tiêu chuẩn về chất lượng môi trường. Công nghiệp cũ lại rất
phân tán, do quá trình đô thị hoá, phạm vi thành phố ngày càng mở rộng nên
hiện nay phần lớn công nghiệp cũ này nằm trong nội thành của nhiều thành
phố. Ví dụ ở thành phố Hồ Chí Minh, không kể các cơ sở thủ công nghiệp, có
khoảng 500 xí nghiệp trong tổng số hơn 700 cơ sở công nghiệp nằm trong nội
thành, ở thành phố Hà Nội có khoảng 200 xí nghiệp trong tổng số khoảng 300
cơ sở công nghiệp nằm trong nội thành. Trong các năm gần đây nguồn ô
nhiễm từ hoạt động công nghiệp nằm trong nội thành có phần giảm bớt do các

16


tỉnh, thành đã tích cực thực hiện chỉ thị xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm
nghiêm trọng nằm xen kẽ trong các khu dân cư. Ví dụ như ở Hà Nội đã đầu tư
xây dựng kỹ thuật hạ tầng 10 cụm công nghiệp nhỏ ở các huyện ngoại thành
với tổng diện tích đất quy hoạch 2.573ha để khuyến khích các xí nghiệp cũ ở
trong nội thành di dời ra các cụm công nghiệp đó. Đặc biệt, thành phố Hà Nội
có chế độ thưởng tiến độ di chuyển sớm trong giai đoạn từ 2003 - 2004, mức
thưởng từ 10 triệu đến 500 triệu đồng/đơn vị sản xuất. Cho đến nay Hà Nội đã
di chuyển được 10 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm nặng ra ngoại thành như: Công
ty Cổ phần Dệt 10/10, Công ty Thuỷ tinh Hà Nội, Công ty Giầy Thụy Khuê,...
Hiện nay có 6 công ty đang di chuyển là Công ty Nhựa Hà Nội, Dệt kim Hà
Nội, Xe đạp xe máy Đống Đa, Kỹ thuật điện thông, Dệt kim Thăng Long.
Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra chính sách thưởng 500 triệu đồng (mức
cao nhất) cho những doanh nghiệp di dời trong năm 2002, mức thưởng này
chỉ còn 50% đối với các doanh nghiệp di dời vào năm 2003 và chỉ còn 40%
nếu di dời vào năm 2004. Tỉnh Bắc Ninh và một số tỉnh khác cũng đã đầu tư
kỹ thuật hạ tầng xây dựng một số cụm công nghiệp nhỏ để tập trung các

doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nặng nề ở đô thị và làng nghề vào các
cụm công nghiệp này,...
Hoạt động công nghiệp gây ô nhiễm không khí còn từ các khu, cụm
công nghiệp cũ, như các khu công nghiệp: Thượng Đình, Minh Khai - Mai
Động (Hà Nội), Thủ Đức, Tân Bình (thành phố Hồ Chí Minh), Biên Hoà I
(Đồng Nai), Khu Công nghiệp Việt Trì, Khu Gang thép Thái Nguyên,... và ô
nhiễm không khí cục bộ ở xung quanh các xí nghiệp, nhà máy xi măng (đặc
biệt là xi măng lò đứng), các lò nung gạch ngói, xí nghiệp sản xuất đồ gốm,
các nhà máy nhiệt điện đốt than và đốt dầu FO, các nhà máy đúc đồng, luyện
thép, các nhà máy sản xuất phân hoá học,... Các chất ô nhiễm không khí chính
do công nghiệp thải ra là bụi, khí SO2, NO2, CO, HF và một số hoá chất khác.

17


Ô nhiễm môi trường không khí ở nhiều làng nghề đã tới mức báo động, một
số bài báo đã đánh giá một cách đáng lo ngại là "sống giàu, nhưng chết mòn"
đối với làng tái chế nilông Minh Khai (Như Quỳnh, Hưng Yên); "hít khói ăn
tiền" ở xã Chỉ Đạo (Văn Lâm, Hưng Yên) - tái chế chì, hay là "những làn khói
độc" ở làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội). Ở rất nhiều làng nghề, đặc
biệt là các làng nghề ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ, đang kêu cứu về ô nhiễm
môi trường không khí.
Công nghiệp mới: Phần lớn các cơ sở công nghiệp mới được đầu tư tập
trung vào 82 khu công nghiệp. Trước khi xây dựng dự án đều đã tiến hành
"Đánh giá tác động môi trường", nếu dự án thực hiện đầy đủ các giải pháp
bảo vệ môi trường đã được trình bày trong báo cáo đánh giá tác động môi
trường thì sẽ đảm bảo đạt tiêu chuẩn chất lượng môi trường.
Tuy vậy, còn nhiều xí nghiệp mới, đặc biệt là các nhà máy nhiệt điện đốt than,
chưa xử lý triệt để các khí thải độc hại (SO 2, NO2, CO), nên đã gây ra ô nhiễm
môi trường không khí xung quanh.


b. Nguồn ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông vận tải

18


Cùng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, phương tiện giao thông
cơ giới ở nước ta tăng lên rất nhanh, đặc biệt là ở các đô thị. Trước năm 1980
khoảng 80 - 90% dân đô thị đi lại bằng xe đạp, ngày nay, ngược lại khoảng 80%
dân đô thị đi lại bằng xe máy, xe ôtô con. Nguồn thải từ giao thông vận tải đã trở
thành một nguồn gây ô nhiễm chính đối với môi trường không khí ở đô thị, nhất
là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng.
Theo đánh giá của chuyên gia môi trường, ô nhiễm không khí ở đô thị do giao
thông vận tải gây ra chiếm tỷ lệ khoảng 70%.
Theo số liệu của Phòng Cảnh sát giao thông Hà Nội, năm 1990 có
34.222 xe ôtô, năm 1995 có 60.231 xe, năm 2000 có 130.746 xe tham gia
giao thông. Như vậy sau 10 năm số lượng ôtô ở Hà Nội tăng lên gần 4 lần. Về
xe máy ở Hà Nội năm 1996 mới có khoảng 600.000 xe máy, năm 2001 gần 1
triệu, năm 2002 tăng tới hơn 1,3 triệu xe máy, bình quân khoảng 1 xe máy/2
người dân. Ở thành phố Hồ Chí Minh năm 1997 mới có khoảng 1,2 triệu xe
máy, năm 2001 gần 2 triệu xe, năm 2002 gần 2,5 triệu xe máy. Bình quân số
lượng xe máy ở các đô thị nước ta mỗi năm tăng khoảng 15 - 18%, số lượng
xe ôtô mỗi năm tăng khoảng 8 - 10%.
Do số lượng xe máy tăng lên rất nhanh, không những làm tăng nhanh
nguồn thải gây ô nhiễm không khí, mà còn gây ra tắc nghẽn giao thông ở
nhiều đô thị lớn. Ở Hà Nội có khoảng 40 điểm thường xuyên bị ùn tắc giao
thông, ở thành phố Hồ Chí Minh là 80 điểm. Khi tắc nghẽn giao thông, mức
độ ô nhiễm hơi xăng dầu có thể tăng lên 4 - 5 lần so với lúc bình thường. Ở
Việt Nam , khoảng 75% số lượng ôtô chạy bằng nhiên liệu xăng, 25% số
lượng ôtô chạy bằng dầu DO, 100% xe máy chạy bằng xăng. Ô nhiễm khí CO

và hơi xăng dầu (HC) thường xảy ra ở các nút giao thông lớn, như là ngã tư
Cầu Giấy, ngã tư Kim Liên (Hà Nội), ngã tư Điện Biện Phủ - Đinh Tiên
Hoàng, vòng xoay Hàng Xanh (thành phố Hồ Chí Minh), ngã tư Cầu Đất -

19


Nguyễn Đức Cảnh (thành phố Hải Phòng),... Trước năm 2001 ở các nút giao
thông này còn bị ô nhiễm chì (Pb).

c. Nguồn ô nhiễm không khí do hoạt động xây dựng
Ở nước ta hiện nay hoạt động xây dựng nhà cửa, đường sá, cầu cống,...
rất mạnh và diễn ra ở khắp nơi, đặc biệt là ở các đô thị. Các hoạt động xây
dựng như đào lấp đất, đập phá công trình cũ, vật liệu xây dựng bị rơi vãi trong
quá trình vận chuyển, thường gây ô nhiễm bụi rất trầm trọng đối với môi
trường không khí xung quanh, đặc biệt là ô nhiễm bụi, nồng độ bụi trong
không khí ở các nơi có hoạt động xây dựng vượt trị số tiêu chuẩn cho phép tới
10 - 20 lần.

20


d. Nguồn ô nhiễm không khí từ sinh hoạt đun nấu của nhân dân
Nhân dân ở nông thôn nước ta thường đun nấu bằng củi, rơm, cỏ, lá cây
và một tỷ lệ nhỏ đun nấu bằng than. Nhân dân ở thành phố thường đun nấu
bằng than, dầu hoả, củi, điện và khí tự nhiên (gas). Đun nấu bằng than và dầu
hoả sẽ thải ra một lượng chất thải ô nhiễm đáng kể, đặc biệt nó là nguồn gây ô
nhiễm chính đối với môi trường không khí trong nhà, ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khoẻ của người dân. Trong những năm gần đây nhiều gia đình trong đô
thị đã sử dụng bếp gas thay cho bếp đun bằng than hay dầu hoả.

Theo báo cáo hiện trạng môi trường của các tỉnh thành năm 2002, và
năm 2003, ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng, đặc biệt là ở các thành phố và thị xã của các tỉnh phía Nam, một số
gia đình có mức sống cao chuyển từ đun nấu bằng than, dầu sang đun nấu
bằng bếp gas ngày càng nhiều. Bếp gas gây ô nhiễm không khí ít hơn rất
nhiều so với đun nấu bằng than, dầu. Ngược lại, do giá dầu hoả và giá điện
tăng lên đáng kể, rất nhiều gia đình có mức thu nhập thấp đã chuyển sang
dùng bếp than tổ ong với số lượng lớn, bình quân mỗi gia đình tiêu thụ
khoảng 2kg than/ngày, gây ra ô nhiễm không khí cục bộ nặng nề, nhất là lúc
nhóm bếp và ủ than.

21


3.1.3. Hậu quả
a. Ảnh hưởng đến sức khỏe
Ô nhiễm không khí có những ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ, đặc biệt
đối với đường hô hấp. Kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy, khi môi
trường không khí bị ô nhiễm, sức khoẻ con người bị suy giảm, quá trình lão
hóa trong cơ thể diễn ra nhanh; các chức năng của cơ quan hô hấp suy giảm,
gây ra các bệnh hen suyễn, viêm phế quản, tim mạch... và làm giảm tuổi thọ
của con người. Các nhóm cộng đồng nhạy cảm nhất với ô nhiễm không khí là
người cao tuổi, phụ nữ mang thai, trẻ em dưới 14 tuổi, người đang mang
bệnh, người lao động thường xuyên phải làm việc ngoài trời... Mức độ ảnh
hưởng của từng người tuỳ thuộc vào tình trạng sức khoẻ, nồng độ, loại chất và
thời gian tiếp xúc với môi trường ô nhiễm.
Mặc dù chưa có con số thống kê cụ thể về tác hại do ô nhiễm không
khí, môi trường đến sức khỏe con người, tuy nhiên các bệnh lý liên quan đến
ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng, nhất là ở trẻ em là thực trạng rất đáng
lo ngại. Số lượng trẻ đến khám, điều trị các bệnh đường hô hấp tại Bệnh viện

Nhi đồng 1 (TP Hồ Chí Minh) đã cho thấy điều đó: Nhiễm khuẩn ở đường hô
hấp từ gần 2.800 trường hợp năm 1996 tăng lên gần 3.800 trường hợp vào

22


năm 2005; bệnh suyễn từ hơn 3.000 trường hợp năm 1996 tăng lên trên
11.000 trường hợp vào năm 2005; bệnh viêm tai giữa: từ chỉ 441 trường hợp
năm 1996 tăng lên gần 2.000 trường hợp năm 2005... Các quận, huyện vùng
ven như: Q.Tân Bình, H.Bình Chánh, H.Hóc Môn, Q.8, Q.11... là những địa
bàn có tỷ lệ bệnh liên quan đến ô nhiễm không khí cao (trên mức 6%) trong
tổng số các bệnh đường hô hấp ở trẻ em đến khám và điều trị tại Bệnh viện
Nhi đồng 1.
b. Gây thiệt hại kinh tế
Thiệt hại kinh tế do ảnh hưởng đến sức khoẻ, bao gồm các khoản chi
phí: Khám, chữa bệnh, thiệt hại cho sản xuất và nền kinh tế. Dự án “Điều tra,
thống kê, đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường tới sức khoẻ cộng
đồng” do Cục Bảo vệ môi trường (2007) tiến hành tại hai tỉnh Phú Thọ và
Nam Định cho kết quả ước tính thiệt hại kinh tế do ô nhiễm không khí tác
động đến sức khoẻ trên đầu người mỗi năm trung bình là 295.000 đồng. Giả
thiết, tổn thất về kinh tế do ô nhiễm không khí tác động đến sức khoẻ đối với
người dân Hà Nội và TP Hồ Chí Minh tương tự như người dân ở Phú Thọ và
Nam Định thì Hà Nội với 6,5 triệu dân, mỗi ngày thiệt hại 5,3 tỷ đồng và TP
Hồ Chí Minh với 7 triệu dân, mỗi ngày thiệt hại 5,7 tỷ đồng. Thực tế, môi
trường không khí ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng bị ô nhiễm cao hơn so với các tỉnh Phú Thọ và Nam Định, nên thiệt
hại về kinh tế do ô nhiễm không khí thực tế còn cao hơn con số nêu trên.
c. Ảnh hưởng tới biến đổi khí hậu
Ô nhiễm không khí cũng đang ảnh hưởng tới điều kiện sinh sống của
con người, đa dạng sinh học và các hệ sinh thái. Ảnh hưởng tổng hợp nhất là

đối với sự biến đổi khí hậu. Vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra và
trái đất đang nóng lên là do các hoạt động của con người chứ không phải
thuần tuý do biến đổi khí hậu tự nhiên. Do các hoạt động của con người, đặc

23


×