Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tham luận quản lý chuyên môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.81 KB, 9 trang )

UBND HUYỆN TRẢNG BOM xxxxxxxxxxCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠOxxxxxxxxxxxxxxx Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxTrảng Bom, ngày 02 tháng 7 năm 2010
BÁO CÁO THAM LUẬN
Về việc quản lý thực hiện quy chế chuyên môn
ở trường tiểu học.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Thời gian qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng
cao chất lượng dạy học ở bậc tiểu học, nâng cao chất lượng quản lí chuyên môn. Kết quả bước đầu
là nhiều trường tiểu học đã xây dựng được nề nếp hoạt động chuyên môn từ giáo viên đến tổ khối
và nhà trường; nhiều thầy cô giáo của các trường đã phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi các cấp;
chất lượng giáo dục toàn diện từng bước được nâng lên; mũi nhọn học sinh năng khiếu được duy
trì... Góp phần vào những thành quả đó có nhiều nguyên nhân tích cực, trong đó phải kể đến chất
lượng của đội ngũ thầy cô giáo đã từng bước được nâng cao; việc chỉ đạo của nhà trường trong việc
thực hiện quy chế chuyên môn ngày được củng cố và có chất lượng, …
Để góp phần vào đổi mới quản lý thực hiện chuyên môn ở trường tiểu học hiện nay. Phòng GDĐT
Trảng Bom xin được báo cáo tham luận về việc quản lý thực hiện quy chế chuyên môn ở trường
tiểu học của huyện như sau:
Như chúng ta đã biết quy chế là những điều định ra để nhiều người, nhiều nơi cùng theo đó mà
làm. Vậy thì quy chế chuyên môn ở trường tiểu học được hiểu sơ lược là những quy định về công
việc chuyên môn tiểu học do cấp trên yêu cầu đặt ra để mọi người (bao gồm: CBQL, Giáo viên, học
sinh…) cùng thực hiện.. Việc thực hiện quy chế chuyên môn không phải là việc làm mới, vì thời
gian qua chúng ta đã và đang tiếp tục thực hiện thường xuyên song cũng còn có nhiều khó khăn và
hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy tất cả chúng ta, những nhà quản lí giáo dục từ tổ chuyên môn, ban
giám hiệu các trường cùng với thầy cô giáo cần ngồi lại với nhau, để bàn bạc trao đổi và thống nhất
thực hiện sao cho chúng ta mỗi ngày mỗi thực hiện công việc chuyên môn ở trường tốt hơn .
Đầu tiên muốn thực hiện việc quản lý thực hiện quy chế chuyên môn ở trường tiểu học hiện nay,
chúng ta cần phải dựa vào một số căn cứ các văn bản chỉ đạo có liên quan sau:
Luật giáo dục sửa đổi 2009; Điều lệ trường tiểu học ban hành kèm theo QĐ 51/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 31/8/2007; QĐ 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ GD&ĐT về ban hành Chương
trình giáo dục phổ thông.; Tài liệu chuẩn KT-KN; Công văn 896/BGDĐT của Bộ GDĐT; QĐ


14/2007/QĐ-BGDĐT ngày 04/5/2007 về ban hành quy định về chuẩn nghề nghiệp GVTH; Thông
tư 32/2009/TT-BGDĐT ngày 27/10/2009 của Bộ GDĐT về đánh giá xếp lọai học sinh tiểu học;
Công văn 1513/SGDĐT-GDTH ngày 25/8/2006 và công văn 2273/SGD&ĐT-GDTH ngày
09/11/2007 của Sở GD&ĐT,; Hướng dẫn nhiệm vụ năm học hàng năm của các cấp; Một số văn bản
khác của các cấp có liên quan …
B. CÔNG TÁC QUẢN LÍ THỰC HIỆN QUI CHẾ CHUYÊN MÔN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
CỦA PHÒNG GDĐT TRẢNG BOM
I/ Đối với giáo viên :
1. Kế hoạch giảng dạy môn (Phân môn)
Mỗi giáo viên tự nghiên cứu chương trình để lập ra một kế hoạch dạy học (là khung về thứ tự, thời
lượng giảng dạy đối với từng đơn vị kiến thức, kĩ năng cụ thể của chương trình mỗi môn học ,
trong đó có thể hiện phần điều chỉnh (so với chương trình của Bộ). Đầu tiên phải xây dựng trên cơ
sở cả năm học, sau đó chia thành từng học kỳ, tháng, tuần và thực hiện theo từng môn. Đến năm
học 2009-2010, Bộ GDĐT ban hành tài liệu chuẩn kiến thức và kĩ năng đến các trường cho nên
việc lập kế hoạch giảng dạy môn (phân môn) của giáo viên có phần thuận lợi hơn.
2. Lịch báo giảng
- Mỗi giáo viên đều có lịch báo giảng (mẫu của SGD)
- Dự thảo và thông qua lịch báo giảng trước 2 tuần trong tổ khối và công khai ở nơi qui định của
nhà trường.
- Lịch báo giảng có thể hiện việc điều chỉnh dạy học và ghi ngắn gọn như : ghi phần điều chỉnh
trong ngoặc, bên cạnh của từng bài dạy cần điều chỉnh hoặc ghi vào cột ghi chú bằng mực đỏ.
Ngòai ra trong lịch báo giảng còn ghi dấu cho việc có sử dụng ĐDDH của từng bài dạy. Từ đó tổ
khối chuyên môn, CBQL nhà trường dễ kiểm tra đối chiếu với kế hoạch dạy học và với giáo án của
giáo viên
- Thường thì việc điều chỉnh trong lịch báo giảng của giáo viên không thể giống nhau hoàn toàn.
3. Giáo án
- Soạn thật, soạn để dạy (không chép lại để đối phó)
- Khuyến khích soạn đánh máy bằng vi tính đối với giáo viên phải biết vi tính ( GV có thể coppy
tham khảo các bộ giáo án trên mạng, của đồng nghiệp nhưng phải soạn lại cho riêng mình). BGH
chịu trách nhiệm duyệt và cho phép sử dụng.

- Ngắn gọn đảm bảo 3 phần: MĐYC, ĐDDH và các hoạt động (Theo 1513/SGDĐT-GDTH ngày
25-08-2006; Theo 2273/ SGDĐT-GDTH ngày 09-11-2007) Có bổ sung những nội dung cần rút
kinh nghiệm sau tiết dạy hoặc sau khi đồng nghiệp dự giờ góp ý …
- Hình thức: soạn theo môn (hoặc theo tiết của từng buổi học) để theo dõi và dễ điều chỉnh cho giáo
viên, cho CBQL.
- Không có khái niệm sử dụng lại giáo án cũ (vì giáo án cũ lấy lại có điều chỉnh bổ sung thì lại
thành mới).
- Phòng khuyến khích giáo viên từng bước soạn giảng theo hình thức giáo án điện tử.
4. Công tác chủ nhiệm:
- Tìm hiểu thật kĩ hoàn cảnh gia đình của từng học sinh (thông qua kết quả giáo dục năm học trước;
khảo sát chất lượng; tham khảo GVCN cũ, tham khảo sổ chủ nhiệm của năm học trước; trao đổi
trực tiếp với PHHS) để nắm vững đặc điểm và khả năng của từng học sinh trong lớp.
- Xây dựng chỉ tiêu phấn đấu của lớp (phù hợp với trình độ lớp ; khớp với chỉ tiêu của khối và của
nhà trường). Chỉ tiêu phải có tính khả thi và tránh bệnh thành tích…
- Tất cả mỗi lớp đều có phần theo dõi giúp đỡ học sinh cá biệt cụ thể trong sổ chủ nhiệm (HS yếu,
HS năng khiếu, HS khuyết tật, …) nhất là phải luôn theo dõi tiến độ học sinh yếu hàng tháng của
lớp mình.
- Nội dung và biện pháp không lẫn lộn (VD: Muốn ghi đúng về nội dung, thường thì phải trả lời câu
hỏi: làm những gì? Còn về Biện pháp thường thì trả lời cho câu hỏi: làm như thế nào? Làm cách
nào để đạt được nội dung đó? …) Hạn chế việc ghi chung chung như : Một số học sinh trong lớp ;
đa số học sinh…
- Nội dung đầu tháng có vạch ra thì trong các tuần của tháng đó phải được thực hiện.
- Theo dõi chứng cứ để nhận xét giúp đỡ học sinh trong tháng ( Thường ghi những em chưa đạt ) để
khi ghi sẽ ngắn gọn và để GV tiếp tục theo dõi giúp đỡ học sinh đó trong thời gian tiếp theo,
- Ghi nội dung phân tích chất lượng sau mỗi lần kiểm tra và và theo dõi sự tiến bộ của học sinh của
lớp mình.
5. Công tác kiểm tra đánh giá học sinh:
- Giáo viên phải nắm chắc và nắm vững ý nghĩa , nội dung các quy định về đánh giá, xếp loại học
sinh kết hợp chặt chẽ về đổi mới PPDH (trước là QĐ 30, nay là TT 32 của Bộ). Hình thức: Phô tô
văn bản đến từng giáo viên; Tổ chức họp triển khai, tập huấn thật kĩ ; Khi GV thực hiện thì phải

tiến hành kiểm tra.
- Thực hiện tốt các kỳ kiểm tra theo quy định của nhà trường (Thường xuyên và định kỳ), chấm kĩ
và phải chữa bài cũng như nhận xét bài của học sinh thường xuyên. Chú ý nhất là học sinh yếu (kêu
gọi sự hỗ trợ gia đình các em).
- Khi đánh giá học sinh cần kết hợp đánh giá thường xuyên với đánh giá định kì (tuy theo TT32 thì
điểm kiểm tra định kì là quyết định). Cần xem xét mối quan hệ tương thích giữa đánh giá thường
xuyên và đánh giá định kì. Nếu có những vấn đề bất thường thì nhà trường, giáo viên cần phải kiểm
tra lại các khâu: Đề kiểm tra; Công tác coi, chấm thi; Cách đánh giá thường xuyên của giáo viên;
Những nguyên nhân khác (gia đình học sinh…)…
- Thực hiện tốt việc phân tích chất lượng bài kiểm tra sau mỗi lần kiểm tra định kỳ theo quy định
của nhà trường. Từ đó tìm hiểu nguyên nhân để điều chỉnh về nội dung , PPDH và ngay chính cả
phương thức kiểm tra đánh giá học sinh ở lần tiếp theo.
- Bản thân mỗi giáo viên tập dần và biết cách ra đề kiểm tra cho lớp mình (PGD đã yêu cầu những
năm gần đây)
- Riêng đối với học sinh khuyết tật, mỗi em được theo dõi đánh giá qua bản kế hoạch giáo dục cá
nhân (theo mẫu qui định). Tiếp tục thực hiện Quy định về giáo dục hoà nhập dành cho người tàn
tật, khuyết tật ban hành theo Quyết định số 23/2006/QĐ-BGDĐT ngày 22/5/2006 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo. Học sinh khuyết tật là đối tượng được quan tâm chăm sóc để được hưởng quyền được
giáo dục. Đối với trẻ khuyết tật nặng giáo viên chỉ cần lựa chọn một số môn học phù hợp với năng
lực của các em để dạy. Các môn còn lại tổ chức để các em được tham gia và chỉ đánh giá sự tiến bộ
của học sinh. Không xem là ngồi nhầm lớp đối với đối tượng học sinh này. Đánh giá học sinh
khuyết tật theo nguyên tắc động viên, khuyến khích sự nỗ lực và tiến bộ của học sinh là chính.
6. Đổi mới phương pháp dạy-học (PPDH)
- Trong tiết dạy phải chú ý đến tất cả đối tượng học sinh, nhất là học sinh yếu phải có việc làm phù
hợp với khả năng . Mạnh dạn thực hiện điều chỉnh dạy học đến từng đối tượng học sinh và từng bài
học cụ thể .
- Khuyến khích làm ĐDDH đơn giản một cách thường xuyên để phục vụ tiết dạy (DDDH nào sử
dụng có hiệu quả, BGH sẽ lưu giữ và chi trả kinh phí)
- Tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh, chú ý các hoạt động có thể đưa ra ngoài bốn bức
tường lớp học, hoạt động dã ngoại ( khoảng 2/3 số trường tiểu học trong huyện đã tổ chức cho học

sinh khối 3, 4, 5 tham quan dã ngoại vào những dịp Lễ, dịp cuối năm ).
- Khuyến khích việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy của giáo viên.(Đã có khoảng hơn 1/3 số trường
đã trang bị hệ thống trình chiếu như: Laptop và Projector. Trong đợt thi GVDG huyện năm học
trước có khoảng 15% số tiết dạy và thi GVDG tỉnh vừa qua có khoảng 70% số tiết dạy thực hành có
ứng dụng CNTT. Tất cả các tiết này đều đạt kết quả cao)
- Tổ chức các chuyên đề về đổi mới PPDH ở trường sao cho thật hiệu quả (thực chất, hiệu quả,
không chạy theo số lượng)
- Phòng đã chỉ đạo một trường trong huyện (TH Nguyễn Tri Phương) tổ chức chuyên đề “Thư viện
xanh và tủ sách di động” kết hợp với phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực
(Tính kinh tế, dễ làm, hiệu quả như giải quyết chỗ ngồi đọc sách và cải tạo không gian cho học
sinh) để các trường học tập.
7. Tự học hỏi nâng cao tay nghề
- Giáo viên dự giờ và trao đổi học tập qua hội giảng, chuyên đề khối và nhà trường.
- Dự giờ ở những tiết trống, tiết có giờ dạy của giáo viên bộ môn (Khuyến khích ngoài ở trong khối
ra phải nâng cao khối lớp liền kề để có thể được phân công dạy sau này ).
- Qua sinh hoạt chuyên môn tổ khối, nhà trường, qua giao lưu chuyên đề cấp cụm, huyện…
- Qua tham khảo báo chí, thế giới trong ta, Toán tuổi thơ, Giáo dục tiểu học,.. (Khuyến khích
những bài viết về cảm tưởng của giáo viên qua những bài giảng được lưu lại trong thư viện nhà
trường).
- Qua chương trình BDTX của Bộ .
- Qua các lớp nâng cao về nghiệp vụ chuyên môn.
II/ Đối khối tổ khối chuyên môn và BGH nhà trường
1. Sinh hoạt chuyên môn:
- Theo qui định: Tổ khối 2 lần / tháng ; nhà trường : 1 lần / tháng
- BGH cần phải tham dự sinh hoạt chuyên môn tổ khối .
- BGH có thể hướng dẫn cho tổ khối những nội dung cần phải được thực hiện trong buổi sinh hoạt
(ví dụ: Điều chỉnh dạy - học, tổ chức các hoạt động, phân tích chất lượng, Đổi mới PPDH,…)
- Sinh hoạt tổ khối chuyên môn cần tập trung vào các vấn đề : chuẩn bị cho công tác soạn giảng hay
tổ chức các hoạt động giáo dục cho những tuần sắp đến, trao đổi rút kinh nghiệm về soạn giảng , tổ
chức công tác chủ nhiệm lớp; tổng hợp và phân tích chất lượng học sinh qua mỗi kì khảo sát kiểm

tra, bàn bạc xác định nội dung và biện pháp tổ chức bồi dưỡng học sinh khá giỏi, phụ đạo học sinh
yếu kém ; tổ chức nghiên cứu, báo cáo và thể nghiệm chuyên đề về phương pháp / kĩ thuật dạy -
học hiện đại, tiên tiến.
- Tổ khối trưởng cần nâng cao vai trò đầu tàu, tập hợp những thành viên tích cực nghiên cứu, chuẩn
bị trước những vấn đề trọng tâm và cụ thể trong chuyên môn như kế hoạch giảng dạy môn học, điều
chỉnh dạy học, vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy - học có hiệu quả vào các tiết
dạy… để gợi ý, hướng dẫn tập thể tổ chuyên môn nghiên cứu, thảo luận, đào sâu suy nghĩ và áp
dụng. Trong thảo luận, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của mọi thành viên, dùng những luận chứng
khoa học để thuyết phục là chính, tránh áp đặt ý kiến chủ quan cá nhân.
- Phòng GDĐT đã tổ chức chuyên đề về nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn tổ khối vào
năm học 2007-2008. Tuy nhiên thực trạng hiện nay vẫn chưa thiết thực, hiệu quả chưa cao (Nội
dung sinh họat nặng về công việc hành chính, khuôn mẫu, máy móc mà chưa xác định được những
công việc chuyên môn trọng tâm của từng thời điểm; Chung chung, không cụ thể và bàn bạc trao
đổi không đi tới đích; một chiều từ cấp trên xuống, ít có ý kiến trao đổi; Giữa các khối lớp trong
một trường hoạt động không đều; BGH cũng rất hạn chế tham gia…)
- Đối với những đơn vị trường loại 3 qui mô số thành viên mỗi khối rất ít (2, 3 thành viên) có thể
ghép lại để sinh hoạt có chất lượng (khối 2,3 chung; khối 4,5 chung)

×