Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

QUẢN lý NHÀ nước đối với tổ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG từ THỰC TIỄN TỈNH đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.32 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THÙY ANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẮK LẮK, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THÙY ANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ANH HÙNG

ĐẮK LẮK, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các thông tin và số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
phản ánh chân thực nội dung của tài liệu gốc. Các kết quả nghiên cứu trong khóa
luận do tôi tự tìm hiểu, tổng hợp và phân tích một cách trung thực, khách
quan. Các kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ nghiên
cứu nào khác.

Học viên

LÊ THÙY ANH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG ........................................ 8
1.1. Khái quát chung về công chứng và tổ chức hành nghề công chứng ......................... 8
1.3. Thẩm quyền và nội dung quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công
chứng .............................................................................................................................. 22
1.4. Hình thức quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng ............... 29
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng ở nước
ngoài. .............................................................................................................................. 33
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC
HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ........................ 36
2.1. Thực tiễn tỉnh Đắk Lắk và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với
các tổ chức hành nghề công chứng ................................................................................ 36
2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................................................... 40

2.3. Những ưu điểm, hạn chế và nguyên ngân của những hạn chế trong quản lý nhà
nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................. 53
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG ............... 58
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề
công chứng ..................................................................................................................... 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công
chứng .............................................................................................................................. 63
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 74


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tổ chức HNCC

Tổ chức hành nghề công chứng

UBND

Ủy ban nhân dân

VPCC

Văn phòng công chứng

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
biểu đồ
2.1

Tên Biểu đồ
Dân số trung bình phân theo địa phương khu vực
Tây Nguyên từ năm 2014 đến sơ bộ năm 2018

Trang

40

Tổng hợp tỷ lệ số công chứng viên, tổ chức hành

2.2

nghề công chứng và số việc công chứng của tỉnh

44

Đắk Lắk so với cả nước năm 2018

2.3

Tổng số việc công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
từ năm 2014 đến năm 2019

45



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cải cách hành chính luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước, với
mục tiêu nhằm xây dựng một nền hành chính hiện đại, một chính phủ kiến tạo, phát triển,
tiệm cận với nền tư pháp tiên tiến của các nước trên thế giới đồng thời nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong những năm
vừa qua, Việt Nam đã có những bước đi hết sức quan trọng, đạt được nhiều thành tựu
trên con đường phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong năm 2018, nền kinh tế Việt
Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008 và thuộc nhóm các nền kinh tế có
tốc độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Điều này mở ra cho Việt Nam nhiều
cơ hội mới nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ.
Công chứng là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp, giúp đảm bảo tính an
toàn pháp lý đối với các giao dịch dân sự, thương mại, đặc biệt là các giao dịch chuyển
quyền liên quan đến các tài sản có giá trị lớn…vốn đã tồn tại nhiều nguy cơ dẫn đến tranh
chấp. Trong những năm gần đây, nhu cầu về giao dịch dân sự, thương mại giữa các cá
nhân tổ chức trong xã hội… diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn kéo theo đó là nhu cầu công
chứng các hợp đồng, giao dịch phát sinh trong đời sống xã hội ngày càng tăng cao. Điều
này đặt ra yêu cầu, cần có những thay đổi trong quy định pháp luật về hoạt động công
chứng sao cho nó có thể điều chỉnh được các hành vi xã hội kịp thời và không bị thụ
động trước những thay đổi mới phát sinh của hoạt động đặc thù này. Có thể kể đến một
trong những thay đổi lớn nhất trong quy định pháp luật về hoạt động công chứng đó là
cho phép thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, làm gia tăng số lượng các phòng
công chứng và VPCC đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội.
Hoạt động công chứng nói riêng và các tổ chức hành nghề công chứng nói chung
đóng một vai trò quan trọng, không thể thiếu trong đời sống kinh tế - xã hội của Việt
Nam hiện nay. Do nhu cầu về công chứng của nhân dân ngày càng cao khiến cho mối
quan hệ trong hoạt động công chứng ngày càng phức tạp, điều này đặt ra yêu cầu cần có
một loại hình văn bản Luật cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động công chứng. Luật

Công chứng 2006 và Luật Công chứng 2014 ra đời đã góp phần quan trọng vào tiến trình
này.
1


Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng, Luật Công chứng 2014 đang bộc lộ một số hạn
chế trong hoạt động quản lý nhà nước và hiệu quả hoạt động của các tổ chức hành nghề
công chứng. Hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng nói
chung và đối với tỉnh Đắk Lắk nói riêng đang còn gặp nhiều bất cập như: phân bố các
VPCC không đồng đều ở các địa bàn trong tỉnh; chưa thành lập được các VPCC ở huyện
vùng sâu, vùng xa; công tác thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức hành nghề công chứng
không được tiến hành thường xuyên; chưa có sự phối hợp với các thủ tục hành chính
khác liên quan, khiến người yêu cầu công chứng phải mất nhiều thời gian, công sức; chưa
phát huy hết các ưu điểm và khắc phục các nhược điểm của việc chứng thực tại ủy ban
nhân dân cấp xã - một hình thức chứng thức thông dụng hiện nay…
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi chọn đề tài "Quản lý nhà nước đối với tổ chức hành
nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk" làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hoạt động công chứng xuất hiện khá sớm ở Việt Nam, kể từ khi thực dân Pháp thiết
lập chế độ bảo hộ ở nước ta. Hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp
dụng theo mô hình của Pháp chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị của Pháp tại Đông
Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong một khoảng thời gian dài, nước ta có rất
ít quy phạm điều chỉnh hoạt động công chứng, chứng thực. Hoạt động công chứng, chứng
thực thời kỳ phân chia hai miền Nam - Bắc (1954-1975) và từ khi thống nhất đất nước
(sau năm 1975) cũng chưa phổ biến và chưa được điều chỉnh bằng các văn bản luật chi
tiết.Mãi đến ngày 29/11/2006, Quốc hội thông qua Luật công chứng, chính thức có hiệu
lực thi hành vào ngày 1/7/2007 nhằm điều chỉnh hoạt động công chứng diễn ra ngày càng
phức tạp do những nhu cầu về công chứng của nhân dân ngày càng cao.
So với những văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh các hành vi trong xã hội,

chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động công chứng xuất hiện muộn hơn trong hệ thống
pháp luật nước ta, nhưng nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được các
học giả quan tâm nghiên cứu từ lâu nay. Trước khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11
2


được ban hành, có thể kể đến các công trình: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn
thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam, do Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư
pháp chủ trì vào năm 1993; Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở
nước ta, Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Ngọc Nga; Những vấn đề lý luận và thực tiễn
trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản
công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000;
Tổ Chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác
giả Dương Khánh năm 2002. Và nhiều đề tài nghiên cứu sau khi Luật Công chứng 2014
có hiệu lực, như: Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, của tác giả Lê Thị Phương
Hoa năm 2013; Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác
giả Nguyễn Thanh Hà năm 2014; Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực thực
hiện các việc công chứng, luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Thúy; Hoàn thiện pháp luật
về công chứng, chứng thực ở Việt Nam hiện nay - lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ
của tác giả Tuấn Đạo Thanh; Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Chí Thiện; Luận văn thạc sĩ
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú
Yên năm 2017 của tác giả Trương Nữ Trần Chung; Quản lý nhà nước về công chứng
trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Vi
Châu Khánh năm 2018...
Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000 về đề tài Những vấn đề lý
luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị
pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay gần như là một trong những tác
phẩm trước nhất nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động công chứng. Luận án đã đưa ra
những phân tích mang tính lý luận và thực tiễn về hoạt động công chứng ở Việt Nam thời

kỳ đầu đổi mới. Tác phẩm phân tích bản chất hoạt động của hành vi công chứng và giá trị
pháp lý của văn bản công chứng mang lại. Đặt trong bối cảnh hoạt động công chứng ở
Việt Nam lúc bấy giờ diễn ra khá ít, không phát triển công trình khoa học của tác giả
Đặng Văn Khanh đã đem đến những phân tích, đánh giá sâu rộng hoạt động này. Một
trong số đó là kết luận “không nên xem công chứng là việc “chứng nhận” các hợp đồng,
giấy tờ. Mà phải quan niệm công chứng là việc “tạo lập” các hợp đồng, giấy tờ nhằm
3


đem lại cho hợp đồng, giấy tờ đó dấu ấn của công quyền” nhằm tạo những chứng cứ
không thể phản bác, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch kinh tế, dân sự.
Năm 2014, tại thời điểm Luật Công chứng 2006 đang còn hiệu lực thi hành, Luận
văn thạc sĩ Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả
Nguyễn Thanh Hà đã chỉ ra được những bất cập của Luật Công chứng năm 2006 trong
quá trình áp dụng. Như tình trạng: tiêu chuẩn Công chứng viên, tiêu chuẩn thành lập
VPCC còn quy định đơn giản, chưa chặt chẽ; sau khi thành lập thiếu sự kiểm tra, thanh
tra của cơ quan quản lý nhà nước; chưa có quy định về việc chuyển đổi mô hình VPCC
do một công chứng viên thành lập sang mô hình VPCC do 2 công chứng viên trở lên
thành lập và ngược lại; chưa quy định việc chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu công chứng
giữa tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan liên quan. Thủ tục công chứng chưa
cụ thể, rõ ràng, chưa có sự phối hợp, liên thông với các thủ tục hành chính khác liên
quan… Từ những phân tích trên, Luận văn đã làm sáng tỏ hiệu quả hoạt động áp dụng
pháp luật công chứng trong giai đoạn này, đưa ra các đề xuất giải pháp hoàn thiện, nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật công chứng ở Việt Nam nói chung.
Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề
công chứng tại tỉnh Phú Yên năm 2017 của tác giả Trương Nữ Trần Chung tập trung vào
nội dung lý luận về quản lý nhà nướcvà chức năng quản lý của Nhà nước đặc biệt trong
lĩnh vực công chứng. Luận văn đưa ra những nguyên nhân dẫn đến quản lý chưa hiệu quả
các tổ chức hành nghề công chứng từ công đoạn ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
như: một số văn bản còn chồng chéo nhau về nội dung; một số văn bản quy phạm pháp

luật chưa có văn bản hướng dẫn thi hành kịp thời, hoặc nếu có thì nội dung lại chưa cụ
thể; tính minh bạch, hệ thống của pháp luật còn hạn chế. Phát triển nguồn công chứng
viên, nâng cao chất lượng của các VPCC đi kèm với số lượng xây dựng lộ trình phát
triển, hoàn thiện mô hình VPCC, xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin ngăn chặn...
Luận văn của tác giả Hà Lan Hương về đề tài Đánh giá thực trạng công tác công
chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai trên địa bàn quận Đống Đa, tp. Hà Nội tập
trung phân tích các giao dịch liên quan đến bất động sản phải được công chứng, chứng
thực và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng khi thực hiện công chứng các
4


giao dịch liên quan đến loại tài sản này. Nhìn chung, luận văn mới dừng lại ở mức khái
quát về mặt lý luận quy định của pháp luật đối với các chủ thể có liên quan khi thực hiện
các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền sử dụng đất (QSDĐ). Từ đó tác giả nêu ra của
một vài thực trạng trong hoạt động công chứng, chứng thực các giao dịch liên quan đến
loại hình giao dịch này. Cũng nghiên cứu về nội dung liên quan đến hoạt động công
chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản, đặc biệt là bất động sản, là Luận văn thạc sĩ
của tác giả Vi Châu Khánh năm 2018 về: Quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực
chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn này trình bày được
hai vấn đề lớn đó là những vấn đề lý luận về công chứng và nội dung quản lý nhà nước
về hoạt động này trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản. Đặt trong bối cảnh luận văn
nghiên cứu sau khi Luật Công chứng 2014 ra đời và có hiệu lực, cộng với thực tiễn phát
triển của một trong những thành phố lớn nhất ở Việt Nam, như Hồ Chí Minh, luận văn đã
nêu ra được những đánh giá giá trị thực thi của các văn bản pháp luật công chứng sau vài
năm thực hiện, hiệu quả đạt được và những mặt hạn chế phát sinh trong giai đoạn này.
Có thể thấy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu hoạt động công chứng ở những
góc độ khác nhau từ khái quát lý luận đến thực tiễn áp dụng trong một số lĩnh vực, địa
bàn khác nhau. Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những vấn đề mang
tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của hoạt động công chứng.
Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu về quản lý nhà nước đối với

hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, đặc biệt trong phạm vi một địa phương
cụ thể: tỉnh Đắk Lắk. Có thể khẳng định, đề tài Quản lý nhà nước đối với các tổ chức
hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk là đề tài đầu tiên nghiên cứu về khía
cạnh này. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả cũng cần phải kế thừa, vận dụng
có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận một cách có hệ thống về
hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk từ khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành, để từ đó đề xuất hướng nâng
5


cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn
tỉnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích một số vấn đề lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước, công chứng và tổ
chức hành nghề công chứng.
- Đánh giá kết quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk, xác định những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong quá trình
thực hiện quản lý nhà nước.
- Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ
chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động công chứng và hoạt động
quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ

năm 2014 đến nay.
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về quản lý nhà nước
đối với các tổ chức hành nghề công chứng và phân tích những vướng mắc, bất cập từ
thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài,
luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của phương pháp nghiên cứu duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động của các cơ
quan tư pháp nói chung, bổ trợ tư pháp nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

6


Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp;
Phương pháp thống kê, so sánh; các phương pháp điều tra, phân tích thực tiễn tổ chức và
hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, quản lý nhà nước về công chứng trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đóng góp thêm những vấn đề lý luận quản lý nhà nước đối với các tổ chức
hành nghề công chứng đặc biệt từ thực tiễn của tỉnh Đắk Lắk.
Từ đó, tác giả hy vọng luận văn có thể mang lại những đề xuất nhằm khắc phục
phần nào những hạn chế còn tồn tại, là cơ sở để hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước
đối với các tổ chức hành nghề công chứng, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng
trên địa bàn tỉnh nói chung và hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề
công chứng nói riêng. Đồng thời đưa hoạt động công chứng thực sự là một công cụ hữu
hiệu của nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật về dân sự.

7. Kết cấu Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, danh mục bảng biểu và danh mục tài liệu tham
khảo nội dung của luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận – pháp lý về quản lý nhà nước đối với các tổ chức
hành nghề công chứng
CHƯƠNG 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
CHƯƠNG 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các
tổ chức hành nghề công chứng

7


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
1.1. Khái quát chung về công chứng và tổ chức hành nghề công chứng
1.1.1. Khái niệm công chứng và tổ chức hành nghề công chứng
 Khái niệm công chứng
Nguồn gốc của hoạt động công chứng có từ thời Ai Cập cổ đại, thời đại mà việc
“chính thức hóa” các văn bản ghi chép trở nên quan trọng với nhân loại lúc bấy giờ. Ở Ai
Cập cổ đại vào năm 2750-2250 trước Công nguyên, người Ai Cập cổ đại “sesh” hay
người chép sách ở Vương quốc cổ Ai Cập được biết đến là những người chép biên niên
sử đầu tiên được lịch sử ghi lại. Những người chép sách góp phần tạo nên một cấp độ của
bộ máy quan liêu thời Ai Cập cổ đại. Từ thư cá nhân cho đến các tuyên bố chính thức, hồ
sơ thuế và các tài liệu khác đều qua tay họ.
Nguồn gốc của thuật ngữ “notary” (công chứng viên) trong Tiếng Anh bắt nguồn
từ thuật ngữ “notarius”.Thời La Mã cổ đại, trước năm 535 TCN, những ông tổ thực sự
của các công chứng viên được sinh ra ở Đế chế La Mã.Nhiều người cho rằng Công chứng
viên đầu tiên trong lịch sử là một người nô lệ La Mã tên là Tiro. Ông đã phát minh ra một
hệ thống viết tốc ký, mà ông gọi là notae nhằm để ghi chép lại bài phát biểu của nhà hùng

biện nổi tiếng lúc bấy giờ Cicero. Những người viết tốc ký khác được biết đến với cái tên
notarii và scribae. Thời bấy giờ, việc biết đọc biết viết không được phổ biến rộng rãi, các
công chứng viên hay còn gọi là các “notarius” là người soạn hợp đồng, di chúc hoặc các
loại tài liệu quan trọng khác có tính phí. Với sự phát triển của đế chế La Mã, tỷ lệ biết
chữ tăng lên, nhu cầu về công chứng viên cũng tăng lên. Sau này, vào thế kỷ XV, một
công chứng viên đã đồng hành cùng Christopher Columbus trong chuyến hải trình của
ông ấy để đảm bảo vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella rằng tất cả những phát hiện đều
được công chứng ghi chép đầy đủ.
Công chứng viên được xem là một công chức được ủy quyền công khai để phục
vụ như một người vô tư, không thiên vị làm chứng cho việc ký kết giấy tờ pháp lý. Việc
ký kết hợp đồng này thường bao gồm chứng thư chuyển nhượng bất động sản, bản khai
có tuyên thệ, di chúc, văn bản ủy quyền. Mục đích chính của công chứng viên là để ngăn
8


cản sự gian lận. Công chứng viên không được từ chối làm chứng một văn bản dựa vào
chủng tộc, quốc gia, vùng miền hay giới tính [56].
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp
của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Trong khi đó,“chứng thực”
là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là
đúng với bản chính, hoặc chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản là chữ ký của
người đã yêu cầu chứng thực.
Công chứng viên đóng vai trò là một nhân chứng vô tư, không vụ lợi xác nhận
danh tính của người ký vào văn bản [54, tr.4]. Từ điển Hán-Việt (của tác giả Đào Duy
Anh), Nxb. Khoa học và Xã hội ấn hành năm 2004, đưa ra định nghĩa về công chứng như
sau: “Công chứng có nghĩa là lấy quyền công mà làm chứng”. Theo từ điển Black’s Law
Dictionary 8th định nghĩa công chứng viên là người được nhà nước trao quyền để quản lý
thi hành việc tuyên thệ, chứng nhận văn bản, chứng thực tính xác thực của chữ ký và
chính thức hóa các hành vi trong lĩnh vực thương mại như xác nhận công cụ chuyển

nhượng “negotiable instruments”.
Trong Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ
chức và hoạt động công chứng nhà nước, Điều 1 xác định: “Công chứng nhà nước là việc
chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng
cường pháp chế XHCN. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng
cứ”. Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công
chứng nhà nước, khái niệm công chứng được nêu tại Điều 1: “Công chứng là việc chứng
nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội (sau đây gọi chung là tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường
pháp chế XHCN. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận
hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp
bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu”.
9


Sau 5 năm, khái niệm “công chứng” được sửa đổi theo Nghị định số 75/2000/NĐCP ngày 08/12/2001 của Chính phủ về công chứng, chứng thực Khoản 1, Điều 2 ghi rõ:
“Công chứng là việc Phòng Công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được
giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và
quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo
quy định của Nghị định này; Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác
nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ
cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này”. Theo Điều 2
Luật Công chứng 2006: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực,
tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng
văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng”.
Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014: “Công chứng là việc công chứng viên của

một tổ chức HNCC chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự
khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không
trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc
từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
Như vậy từ những khái niệm nêu trên có thể kết luận, công chứng là việc công
chứng viên thực hiện quyền mà nhà nước trao cho để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác
thực của hợp đồng giao dịch.
 Khái niệm tổ chức hành nghề công chứng:
Vào thời kỳ đầu của hoạt động công chứng, Nhà nước ta không thành lập cơ quan
công chứng chuyên trách. Mọi động có tính chất công chứng đều do Ủy ban nhân dân cấp
cơ sở thực hiện theo hình thức thị thực, chứng thực trên cơ sở Sắc lệnh số 59/SL ngày
15/11/1945 ấn định Thể lệ về việc thị thực các giấy tờ và Sắc lệnh số 85/SL ngày
29/02/1952 về Thể lệ trước bạ về các việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất [25,
tr.3]. Sự ra đời của thông tư số 574/QLTPK hướng dẫn công tác công chứng Nhà nước
ngày 10/07/1987 do Bộ Tư pháp ban hành, Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987
của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng và Nghị định số 45/CP về
10


tổ chức và hoạt động của Công chứng nhà nước ngày 27/02/1991 do Chính phủ ban hành
là bước khởi đầu cho quá trình hình thành và hoạt động của các phòng công chứng trên
cả nước. Lúc bấy giờ tổ chức HNCC là cơ quan nhà nước hoạt động với mục đích giúp
các cá nhân, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp
hóa và làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện.
Trải qua giai đoạn phát triển của lịch sử, từ việc ghi nhận văn bản pháp luật đầu
tiên quy định về tổ chức hoạt động công chứng ở Việt Nam trong Nghị định số
45/HĐBT, đến việc ghi nhận sự thay đổi trong thuật ngữ “phòng công chứng nhà nước”
và “phòng công chứng” đánh dấu quá trình xã hội hóa công chứng trong Nghị định số
75/2000/NĐ-CP. Theo định nghĩa về công chứng trong Nghị định này, có thể rút ra được

định nghĩa tổ chức HNCC là nơi thực hiện việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng
được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương
mại và quan hệ xã hội khác.
Luật công chứng năm 2006 đánh dấu một dấu mốc quan trọng với sự xuất hiện của
tổ chức công chứng của tư nhân là VPCC. Sự ra đời của VPCC là kết quả của quá trình
thay đổi về tư duy và nhận thức về nền kinh tế thị trường của Đảng và nhà nước Việt
Nam, từ chỗ hoạt động công chứng chỉ do nhà nước độc quyền thực hiện cho tới việc
chuyển giao quyền nay cho tổ chức tư nhân thay mặt nhà nước cung cấp dịch vụ công.
Như vậy, tổ chức HNCC hiện nay không phải là cơ quan nhà nước, mà nó tồn tại hai loại
hình: là đơn vị sự nghiệp công lập đối với Phòng công chứng, và là công ty hợp danh đối
với VPCC. Tuy được xây dựng thành hai loại hình khác nhau, pháp luật vẫn xây dựng
quy định chung về quyền và nghĩa vụ cho các tổ chức HNCC này, mà không có sự phân
biệt giữa nhà nước và tư nhân.
Như vậy, tổ chức HNCC là nơi chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch dân sự bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. bao gồm Phòng
công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
1.1.2. Đặc điểm, nguyên tắc của hoạt động công chứng

11


Công chứng là hành động xác thực, là đặc điểm của hệ thống công chứng dân luật.
Nó phản ánh trung thực ý chí của các bên. Hoạt động này yêu cầu một vài yếu tố cần
thiết như sau:
-

Hoạt động công chứng phải tuân thủ pháp luật. Công chứng viên kiểm tra, đảm

bảo hành vi. Họ kiểm tra tính pháp lý của các hợp đồng, thông báo cho khách hàng biết

về những về các quy định pháp luật hiện hành và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật.
-

Hành vi công chứng có hiệu lực chứng minh rằng các hành vi đã được công nhận

và được kiểm tra bởi công chứng viên là chính xác và không thể bác bỏ.
-

Ở hầu hết các quốc gia, hành vi công chứng có hiệu lực thi hành tương đương với

một phán quyết của tòa án. Công chứng đảm bảo tính minh bạch. Hành vi công chứng là
hành động xác thực, là bằng chứng về thời gian, danh tính, chữ ký và tập hợp ý chí của
các bên do đó có hiệu lực thi hành giữa các bên. Ở nhiều quốc gia, hoạt động công chứng
được phép thu thuế đối với những hành vi công chứng chuyển nhượng tài sản. Nghĩa vụ
phải đăng ký công chứng đối với một số hoạt động đồng thời giúp chống lại việc trốn
thuế. Hoạt động công chứng là một tập các sự kiện của một quốc gia. Công chứng viên
đảm bảo chúng được lưu giữ dù dưới dạng soạn thảo trên giấy hay trên dữ liệu điện tử.
Tính xác thực trong hoạt động công chứng
(i) Xác định đúng người: Nghĩa là xác định đúng người yêu cầu công chứng thông qua
giấy tờ tùy thân của họ. Đồng thời, xác định họ phải trong trạng thái tinh thần thoải mái,
tự nguyện, không chịu bất kỳ một sức ép nào từ phía bên ngoài và họ hoàn toàn ý thức
được hậu quả việc làm của mình.
(ii) Xác định đúng việc: Người yêu cầu công chứng phải xuất trình đủ các giấy tờ, tài liệu
có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đó.
(iii) Xác định bản chất thực của các hợp đồng, giao dịch: Công chứng viên phải xác định
xem những thỏa thuận của các bên đương sự có phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của
họ hay không, các thỏa thuận này có nhằm che giấu bất kỳ một mục đích nào khác hay
không.
Hoạt động của công chứng vừa mang tính công quyền vừa mang tính chất dịch vụ
công. Tính công quyền thể hiện ở chỗ công chứng viên của phòng công chứng hay của

các VPCC đều do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để công chứng các hợp đồng giao
12


dịch giữa các tổ chức, công dân theo quy định của pháp luật. Khi tác nghiệp, công chứng
viên nhân danh nhà nước thực thi công việc. Hoạt động công chứng còn mang tính chất
dịch vụ công, tức là thực hiện một loại dịch vụ của Nhà nước nhưng được Nhà nước giao
cho tổ chức HNCC đảm nhiệm, đó là công chứng các hợp đồng giao dịch mà các tổ chức
và cá nhân yêu cầu. Ở các nước khác, hoạt động công chứng cũng mang bản chất của là
dịch vụ công.
Xuất phát từ thực tế các mối quan hệ xã hội và hành vi công dân cần được pháp
luật điều chỉnh diễn ra một cách thường xuyên, liên tục theo các quá trình kinh tế - xã
hội, nền hành chính Nhà nước phải hoạt động liên tục, ổn định để đảm bảo hoạt động sản
xuất, lưu thông không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào. Hoạt động công chứng
cũng phải đảm bảo được nguyên tắc này vì về bản chất hoạt động công chứng mang đặc
điểm của dịch vụ công, nhằm hướng tới các lợi ích sau:
-

Lợi ích của các bên tham gia giao dịch: Công chứng giúp cho các tổ chức, cá nhân

thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại theo đúng pháp luật, nhờ đó giảm
thiểu tranh chấp, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia
giao dịch.
-

Lợi ích của nhà nước: Hoạt động công chứng góp phần làm cho các giao dịch dân

sự, kinh tế, thương mại được thực hiện theo đúng khuôn khổ của pháp luật, góp phần tăng
cường pháp chế XHCN.
Công chứng viên có sự độc lập, trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng viên

không chịu trách nhiệm trước các cơ quan cơ quan cấp trên hay trước trưởng phòng,
trưởng văn phòng mà tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy, trong tác nghiệp
chuyên môn, công chứng viên không bị lệ thuộc vào cấp trên. Khi thực hiện hoạt động
công chứng, tổ chức HNCC được thu phí và thù lao công chứng theo quy định. Các tổ
chức HNCC được Nhà nước chuyển giao cho một phần quyền của Nhà nước để thực hiện
chức năng của Nhà nước trong một lĩnh vực cụ thể là công chứng các hợp đồng giao
dịch. Đồng thời, Nhà nước cũng chuyển giao cho các tổ chức HNCC một trách nhiệm và
nghĩa vụ lớn là phải thực hiện công chứng một cách đúng pháp luật và đảm bảo được lợi
ích của Nhà nước.

13


Như vậy, công chứng là hành vi của công chứng viên hành nghề theo sự ủy quyền
của nhà nước. Điều này phân biệt với chứng thực là hành vi của người đại diện của cơ
quan hành chính công quyền. Tính xác thực của hợp đồng, giao dịch khác được công
chứng viên xác nhận. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch
khác là vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị chứng cứ. Trong pháp
luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề cao tính xác thực của các sự
kiện, tình tiết có thực, khách quan được coi là chứng cứ. Văn bản công chứng được coi là
có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó
đã được công chứng viên xác nhận. Yếu tố này được công chứng viên kiểm chứng và xác
nhận ngay khi nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra
một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: sự tự nguyện, ý chí của các bên
khi ký kết hợp đồng) và do đó, nếu không có công chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ
xảy ra tranh chấp mà tòa án không thể xác minh được. Công chứng viên xác nhận tính
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Đặc điểm này ghi nhận ở mô hình công chứng nội
dung (công chứng hệ Latinh) khác biệt hoàn toàn so với mô hình công chứng hình thức
(công chứng hệ Anglosaxon). Trong công chứng hệ Latinh thì các hợp đồng, giao dịch
hợp pháp mới được công chứng viên xác nhận; những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp

thì bị từ chối công chứng. Đặc điểm này của công chứng hệ Latinh quy định chức năng
phòng ngừa các tranh chấp trong hợp đồng, giao dịch khác của công chứng.
1.1.3. Phân loại các tổ chức hành nghề công chứng
Từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp thấy rằng, nhiều vụ án tranh chấp
dân sự (theo nghĩa rộng) phát sinh là do nguyên nhân trong quá trình giao kết hợp đồng,
giao dịch, các chủ thể không thực hiện đúng quy định về tư cách chủ thể, về hình thức,
trình tự, thủ tục; nội dung thỏa thuận vi phạm quy định pháp luật. Để thuận lợi cho người
dân và bảo đảm an toàn pháp lý của các hợp đồng, giao dịch dân sự, hạn chế tranh chấp
dân sự xảy ra, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ về hoàn thiện các chế định bổ trợ tư
pháp, trong đó có nhiệm vụ “Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của
công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình
QLNN về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp;
14


có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này”. Việc để tư nhân tham gia
cung cấp dịch vụ công là hướng phát triển tất yếu và cơ bản trong nền kinh tế hiện đại.
Sau khi thực hiện thành công xã hội hóa dịch vụ công chứng, xuất hiện hai loại hình tổ
chức HNCC là Phòng công chứng và VPCC.
Phòng công chứng: cơ quan công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
thành lập, là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản
riêng.Khoản 1, Điều 20 Luật Công chứng 2014 quy định: “Căn cứ vào nhu cầu công
chứng tại địa phương, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài
chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh xem xét, quyết định. Đề án nêu rõ sự cần thiết thành lập Phòng công chứng, dự kiến
về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển
khai thực hiện”. Như vậy, trên cơ sở đề nghị của Sở Tư pháp đồng thời căn cứ vào tình
hình địa phương, UBND tỉnh xem xét, ra quyết định thành lập.
Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng phòng. Trưởng

phòng công chứng phải là công chứng viên, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.Phòng công chứng gồm các công chức, viên chức hưởng
chế độ lương theo đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó Trường phòng công chứng là công
chức được hưởng lương quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập.
Các Phòng công chứng tùy từng trường hợp: tự bảo đảm chi thường xuyên và chi
đầu tư, tự bảo đảm một phần chi thường xuyên hay do Nhà nước bảo đảm chi thường
xuyên thì được trích từ 50% đến 75% số tiền phí thu được để trang trải chi phí phí cho
các nội dung chi dùng như: Chi thanh toán cho cá nhân thực hiện công việc, dịch vụ và
thu phí: Tiền lương, tiền công, phụ cấp lương (trừ chi phí tiền lương cho cán bộ, công
chức đã hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo chế độ quy định); Chi phí phục vụ cho
việc thực hiện công việc, dịch vụ và thu phí như: Văn phòng phẩm, vật tư văn phòng,
thông tin liên lạc, điện, nước, công tác phí; Chi sửa chữa thường xuyên tài sản, máy móc,
thiết bị; Chi mua sắm vật tư, nguyên liệu…Các Phòng công chứng phải nộp từ 25% đến
50% số tiền phí thu được còn lại vào ngân sách nhà nước theo từng trường hợp tương
ứng.

15


Văn phòng công chứng: Mô hình văn phòng công chứng lần đầu xuất hiện trong
quy định của Luật công chứng 2006, pháp luật Việt Nam ghi nhận song song hai tổ chức
được hành nghề công chứng. Theo quy định tại khoản 1, Điều 22 Luật Công chứng 2014:
“Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh”. Văn
phòng công chứng phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên.Văn phòng công
chứng không có thành viên góp vốn. Người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công
chứng là Trưởng Văn phòng phải là công chứng viên hợp danh của Văn phòng công
chứng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. Khác với phòng công chứng là đơn
vị sự nghiệp công lập, văn phòng công chứng hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài
chính bằng nguồn thu từ phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp

khác. Vì hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính nên đối với tiền phí thu được là
doanh thu của Văn phòng công chứng, Văn phòng được giữ lại 100% số tiền phí thu được
để trang trải cho việc thu phí và phải khai, nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Văn phòng công chứng phải thực hiện lập
và giao hóa đơn cho đối tượng nộp phí theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính về phát
hành, quản lý, sử dụng hóa đơn.
Các tổ chức HNCC là những chủ thể trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giúp giảm thiểu
rủi ro tranh chấp và đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự. Ở Việt Nam,
trước khi Luật Công chứng 2006 ra đời mọi hoạt động công chứng đều do cơ quan nhà
nước là phòng công chứng “bao cấp” thực hiện. Trong một thời gian dài, hoạt động với tư
tưởng “bao cấp”, “độc quyền”, những cơ quan này xuất hiện không ít những hạn chế và
tiêu cực. Thêm vào đó, với tình hình kinh tế-xã hội ngày càng phát triển, khiến cho nhu
cầu về số lượng giao dịch cần công chứng càng tăng. Nguyên nhân này làm cho các
phòng công chứng lúc bấy giờ trở nên quá tải không đáp ứng kịp thời tốc độ thay đổi của
xã hội, các hành vi tiêu cực lại càng xảy ra thường xuyên hơn gây bức xúc trong người
dân. Đứng trước thực trạng đó, đặt ra yêu cầu phải “xã hội hóa” hoạt động này, giao
nhiệm vụ này cho một tổ chức tư hoạt động riêng và chịu trách nhiệm trước nhà nước. Có
thể nói, hoạt động của các VPCC đã giúp giảm tải gánh nặng cho cơ quan công chứng
nhà nước, giúp cho các giao dịch của người dân diễn ra dễ dàng, nhanh chóng và hiệu
16


quả hơn, góp phần tiết kiệm được một khối lượng đáng kể thời gian, tiền bạc và nguồn
lực của tất cả các thành viên trong xã hội. Sự xuất hiện của yếu tố tư nhân trong hoạt
động cung cấp dịch vụ công cũng giúp nâng cao chất lương chung của hoạt động công
chứng. Trên cơ sở canh trạnh lành mạnh, các tổ chức HNCC không chỉ không ngừng phát
triển, cải thiện chất lượng dịch vụ mà giúp san sẻ việc công chứng. Các tổ chức HNCC
không chỉ tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp tự do lựa chọn loại hình dịch
vụ mà còn tạo ra một môi trường pháp lý cạnh tranh an toàn, ổn định, rộng khắp.
1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng

1.2.1. Khái quát về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
Quản lý là hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng, là sự phân công,
phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt được mục tiêu chung. Quản lý là hoạt động
điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật
hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của
người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước1.
Một số quan niệm khác nhau về quản lý:
- Nguyễn Minh Đạo: "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các
quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra" (Cơ
sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997).
- "Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và hiệu quả
thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ
chức" (Khoa học quản lý, tập I, Trường ĐH KTQD, Hà Nội 2001).
- “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển, liên kết các yếu
tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất, điều hoà hoạt động
của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục tiêu xác định trong điều kiện biến
động của môi trường” – theo Vi Châu Khánh, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Quản lý nhà
nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn thành hố Hồ Chí
Minh, 2018)

1

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Công an, 2017, tr 10

17


Từ những quan niệm này cho thấy, quản lý là một hoạt động liên tục và cần thiết
khi con người kết hợp với nhau trong tổ chức. Đó là quá trình tạo nên sức mạnh gắn liền

các hoạt động của các cá nhân với nhau trong một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu
chung. Quản lý là tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý vào
một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người
nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định. Như
vậy, quản lý là sự tác động của các chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm mục đích
điều khiển, chỉ đạo hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân thành hoạt động chung của cả tập
thể và hướng hoạt động chung đó đi theo phương hướng thống nhất nhằm đạt được mục
tiêu nhất định.
QLNN xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Dưới góc độ pháp lý: Thuật
ngữ QLNN là chức năng quan trọng trong vận hành thường xuyên bộ máy nhà nước bảo
đảm hoạt động của xã hội cũng như trên từng lĩnh vực đồi sống xã hội vận động theo một
hướng, đường lối nhất định do Nhà nước đặt ra. Đây là hoạt động thực thi quyền lực NN
nhằm xác lập trật tự ổn định, phát triển theo mục tiêu mà giai cấp cầm quyền đề ra thông
qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện và cơ chế đảm bảo
việc thực thi pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Có thể hiểu theo nghĩa
phổ biến nhất là việc hướng dẫn chấp pháp, điều hành, quản lý hành chính do cơ quan
hành pháp thực hiện và đc đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế. Thông qua khái niệm trên
có thể hiểu hoạt động QLNN được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, QLNN bao gồm
cả hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành pháp của Chính phủ và hoạt
động tư pháp của cơ quan tư pháp. Theo nghĩa hẹp, QLNN được hiểu là hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước điều chỉnh các quan hệ trong xã hội nhằm đạt được mục tiêu
quản lý.
Như vậy, QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sửa dụng
quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. QLNN được xem là một hoạt động
chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc
biệt. QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử
dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực
18



của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu
cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Xuất phát từ khái niệm QLNN và khái niệm các tổ chức HNCC, có thể định nghĩa:
QLNN đối với các tổ chức HNCC là sự tác động một cách có hệ thống bằng quyền lực
Nhà nước thông qua các công cụ, phương pháp cụ thể lên các tổ chức HNCC nhằm điều
chỉnh hoạt động của các tổ chức HNCC diễn ra hiệu quả, đúng pháp luật, để đạt được
mục tiêu duy trì và phát triển hoạt động của các tổ chức này theo đúng định hướng của
Nhà nước phù hợp với điều kiện xã hội.
Có thể hiểu hoạt động QLNN là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng vào
các yếu tố có liên quan đến hoạt động của các tổ chức HNCC bằng một hệ thống các hình
thức quản lý mang tính pháp lý và hình thức không mang tính pháp lý như: tổ chức trực
tiếp, tác động kĩ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong điều
kiện cụ thể do chủ thể là các cơ quan nhà nước tiến hành. Hoạt động công chứng nói
riêng và hoạt động của các tổ chức HNCC nói chung đóng một vai trò không thể thiếu
trong việc đảm bảo sự phát triển ổn định và trật tự của xã hội. Để đáp ứng nhu cầu duy trì
phát triển này cũng như xây dựng được một hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch
trong xã hội, hoạt động quản lý nhà nước về các tổ chức này luôn được Nhà nước quan
tâm xây dựng theo hướng hoàn thiện hơn. Hoạt động quản lý nhà nước bao gồm từ việc
xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến việc giám
sát, tổ chức thực hiện tuyên truyền, phổ biến, chính sách pháp luật; cũng như thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành – điều hành pháp luật về hoạt động quản lý đối với các tổ chức
HNCC.
1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
Chủ thể quản lý là cơ quan nhà nước, trong đó chủ yếu được thực hiện bởi cơ
quan hành chính nhà nước.Với tư cách là chủ thể quản lý mang tính công quyền, Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý nhằm tạo môi trường pháp lý phát triển trật tự, ổn định,
đưa tổ chức HNCC phát triển đúng mục tiêu, định hướng của Nhà nước. Nhà nước cần
xây dựng các chương trình, dự án và hệ thống kế hoạch để đạt được mục tiêu lâu dài,
thông qua việc:
19



×