Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết thời xa vắng của lê lựu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (839.24 KB, 52 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

TRƢƠNG THỊ DUYÊN

VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG
CỦA LÊ LỰU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

TRƢƠNG THỊ DUYÊN

VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG
CỦA LÊ LỰU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ



HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo,
ThS. Nguyễn Phương Hà đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong quá trình
thực hiện khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong tổ văn học Việt
Nam, khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ tôi và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt khóa luận.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Trƣơng Thị Duyên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, khóa luận với đề tài Vấn đề hôn nhân và gia đình
trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được hoàn thành dưới sự cố gắng
của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của ThS. Nguyễn Phương Hà
cũng như các thầy, cô trong Tổ văn học Việt Nam.
Khóa luận của tôi không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả nào
đã từng công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Trƣơng Thị Duyên



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu ................................................................. 3
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 3
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 4
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THỜI KÌ ĐỔI MỚI ......................................................................................... 5
1.1 Khái quát về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Việt Nam thời
kì đổi mới .......................................................................................................... 5
1.1.1 Thời kì trước 1975 ................................................................................... 5
1.1.2 Thời kì sau 1975 ....................................................................................... 6
1.2 Tác giả Lê Lựu ............................................................................................ 7
1.2.1 Cuộc đời ................................................................................................... 8
1.2.2 Sự nghiệp sáng tác ................................................................................... 8
1.2.3 Vị trí tiểu thuyết Thời xa vắng trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới ................................................................................................................... 10
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN VẤN
ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA
VẮNG CỦA LÊ LỰU .................................................................................... 12
2.1 Vấn đề hôn nhân........................................................................................ 12
2.1.1 Sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân ......................................................... 12
2.1.2 Sự vênh lệch, khập khiễng trong hôn nhân ............................................ 16
2.2 Vấn đề gia đình ......................................................................................... 18
2.2.1. Gia đình với những hệ lụy, tàn dư xã hội phong kiến .......................... 19



2.2.2 Gia đình với những khao khát hạnh phúc đích thực .............................. 21
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI
XA VẮNG CỦA LÊ LỰU.............................................................................. 25
3.1 Ngôn ngữ ................................................................................................... 26
3.1.1 Ngôn ngữ đối thoại................................................................................. 26
3.1.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ................................................................... 29
3.2 Giọng điệu ................................................................................................ 32
3.2.1 Giọng điệu thương cảm, xót xa .............................................................. 32
3.2.2 Giọng điệu khắc khoải, da diết............................................................... 34
3.3 Không gian, thời gian nghệ thuật .............................................................. 36
3.3.1 Không gian nghệ thuật ........................................................................... 36
3.3.2 Thời gian nghệ thuật .............................................................................. 39
KẾT LUẬN .................................................................................................... 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền văn học Việt Nam phát triển qua từng thời kì, mỗi giai đoạn mang
những đặc trưng riêng. Hòa vào công cuộc đổi mới xây dựng xã hội chủ
nghĩa, văn học có sự thay đổi về đề tài, chủ đề, tư tưởng và quan niệm nghệ
thuật... Tiêu biểu cho công cuộc đổi mới ấy phải kể đến hàng loạt các tác
phẩm tiêu biểu như: Dấu chân người lính, Miền cháy (Nguyễn Minh Châu),
Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn
Kháng)…Đặc biệt, với thành công và để lại nhiều dấu ấn trong văn học giai
đoạn này, chúng ta không thể không nhắc đến tác giả Lê Lựu với hàng loạt
các tiểu thuyết như: Thời xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1991), Hai nhà
(2000), Sóng ở đáy sông (2010)…đã tạo nên chỗ đứng và vị thế của nhà văn

Lê Lựu trong nền văn học Việt Nam sau 1975.
Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành trong kháng
chiến chống Mĩ. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, ông đã nhanh chóng khẳng
định được tên tuổi của mình với độc giả và cả những nhà phê bình nghiên cứu
văn học. Lê Lựu được coi là “người lính xung kích” trong trận đánh mở
đường ngoạn mục đổi mới văn chương đương đại Việt Nam (Bùi Việt
Thắng). Ngòi bút của Lê Lựu hướng đến số phận, vấn đề hôn nhân và gia
đình, hạnh phúc của con người từ đó thấy được những đau khổ, mất mát mà
nhân vật phải gánh chịu.
Nếu coi gia đình là yếu tố cơ bản của mọi hình thái xã hội, thì hôn
nhân, gia đình là vấn đề thiết yếu trong văn học. Vấn đề hôn nhân, gia đình
trong văn học đã sớm được giới nghiên cứu phê bình quan tâm. Tuy nhiên
cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình mang cái nhìn bao quát về vấn đề
này. Nhận thức được tầm quan trọng và sức hấp dẫn của các tác phẩm đó,
chúng tôi quết định lựa chọn đề tài: Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu

1


thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu để hiểu rõ hơn về những mặt trái, những
mối quan hệ phức tạp trong cuộc sống hôn nhân, gia đình. Qua đó khẳng định
tài năng và vị trí của Lê Lựu trong dòng chảy văn học Việt Nam sau 1975.
2. Lịch sử vấn đề
Nằm trong xu hướng vận động và phát triển của thể loại, tiểu thuyết
Thời xa vắng ra đời đã tạo nên một tiếng vang lớn với công chúng. Tác phẩm
được khẳng định và đánh giá trên nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật.
Vì thế có không ít độc giả, nhà nghiên cứu quan tâm đến.
Tìm hiểu về giá trị nghệ thuật tác giả Đinh Quang Tốn trong công
trình Lê Lựu tạp văn nhận xét: “Văn Lê Lựu có giọng điệu riêng, có duyên
riêng, không rành rẽ, không mạch lạc, nó có một chất nhựa gì đấy bên

trong”. Ông cho rằng: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt
Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong số
sáu mươi nhà văn ấy” [16].
Đánh giá về sức hấp dẫn trong sáng tác của Lê Lựu, nhà thơ Trần Đăng
Khoa cho rằng: “Lê Lựu biết cuốn hút người đọc bằng một thứ văn đọc không
nhạt. Ngay ở những chuyện xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượm được một
cái gì đó…nghĩa là đọc anh không bị lỗ trắng. Cũng bởi Lê Lựu không chấp
nhận sự nhạt nhẽo, tầm thường. Ở bất kì tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ Lê
Lựu cũng có vấn đề gì đấy gửi gắm” [6, 669].
Gần đây, trong một số luận văn thạc sĩ đã tìm hiểu về tiểu thuyết Thời
xa vắng nói riêng và vấn đề hôn nhân và gia đình nói chung. Có thể kể đến
luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thu Hà với tên gọi: Bi kịch tình yêu và hôn
nhân trong tiểu thuyết Lê Lựu (Trường Đại học Quốc gia Hà Nội) đã nghiên
cứu bi kịch tình yêu hôn nhân ở các khía cạnh: Bi kịch yêu nhầm, bi kịch tình
yêu thực dụng, toan tính, bi kịch hôn nhân không có tình yêu, bi kịch hôn
nhân “cọc cạch” để làm nổi bật lên những bất hạnh mà con người phải gánh

2


chịu. Công trình nghiên cứu này sẽ giúp chúng tôi hoàn thiện thêm đề tài khóa
luận của mình.
Tóm lại, nhìn một cách khái quát, hầu hết chưa có nhiều công trình
nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa
vắng của Lê Lựu. Các bài viết, công trình nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở mức
độ khái quát. Vì vậy, lựa chọn đề tài Vấn đề hôn nhân và gia đình trong
tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm một
cái nhìn, hướng tiếp cận khác về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết
Thời xa vắng của Lê Lựu. Qua đó, khẳng định tài năng, vị thế của Lê Lựu
trong dòng chảy văn học sau 1975.

3. Mục đích nghiên cứu
Từ tên gọi của đề tài, chúng tôi hướng tới những mục đích sau:
- Tìm hiểu và lí giải những đổ vỡ, mất mát và bi kịch trong vấn đề hôn
nhân và gia đình qua tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu.
- Qua đó khẳng định tài năng, phong cách và những đóng góp to lớn của
Lê Lựu với nền văn học Việt Nam đương đại
4. Nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu
Khoá luận này hướng đến những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng
của Lê Lựu ở một số phương diện nội dung: Sự đổ vỡ, mất mát trong
hôn nhân; sự vênh lệch, khập khiễng trong hôn nhân, gia đình.
- Tìm hiểu vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắngở
một số phương diện nghệ thuật: Ngôn ngữ, giọng điệu, không gian, thời
gian nghệ thuật.
- Đóng góp thêm cái nhìn mới mẻ về đề tài hôn nhân và gia đình cho văn
học Việt Nam sau 1975.
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

3


5.1 Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề hôn và gia đình trong tiểu thuyết
Thời xa vắng của Lê Lựu
5.2 Phạm vi nghiên cứu: Thời xa vắng, Lê Lựu (1998), Nxb Hội nhà văn.
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi có thể so sánh với các tác phẩm
viết về vấn đề hôn nhân và gia đình như: tiểu thuyết Hai nhà (Lê Lựu)
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp so sánh, tổng hợp

- Phương pháp phân tích, bình giảng
- Phương pháp liên ngành
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy Văn học Việt Nam thời kì đổi
mới
Chương 2: Một số phương diện nội dung thể hiện vấn đề hôn nhân và gia đình
trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện vấn đề hôn nhân và gia
đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu.

4


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG VĂN HỌC
VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1 Khái quát về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Việt
Nam thời kì đổi mới
1.1.1 Thời kì trước 1975
Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người. Chính vì thế đề tài hôn
nhân và gia đình được rất nhiều nhà văn quan tâm, đề cập tới. Do mỗi thời kì
có bối cảnh lịch sử khác nhau nên vấn đề hôn nhân và gia đình cũng được
nhìn nhận, đánh giá ở các mức độ khác nhau.
Từ những năm 30 của thế kỉ XX, các nhà văn thuộc nhóm Tự lực văn đoàn
đã khai thác thành công mảng đề tài này. Có thể kể đến Nhất Linh, Khái
Hưng với các tác phẩm thuộc thể loại văn học lãng mạn như: Lạnh lùng, Đời
mưa gió, Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân…Các tác phẩm đã thể hiện xung đột
giữa cái cũ và cái mới, sự đấu tranh giải phóng cá nhân, hôn nhân tự do,

quyền sống của người phụ nữ chống lại những ràng buộc, khắt khe của lễ giáo
phong kiến. Ở Lạnh lùng, Nhất Linh viết về những khổ đau, bất hạnh của
Nhung- một người phụ nữ bất hạnh, lấy chồng nhưng không nhận được tình
yêu thương từ chồng, bị giam hãm tuổi trẻ của mình ở nhà chồng do những
định kiến xã hội. Hay trong tiểu thuyết Đời mưa gió, Nhất Linh và Khái Hưng
lại lên án quan điểm phong kiến cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, xinh đẹp, đảm
đang, hiền lành nhưng Tuyết lại bị cha mẹ ép lấy một ông chồng dốt nát, ngờ
nghệch.
Bên cạnh các sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn, vấn đề hôn nhân và gia
đình còn được các nhà văn hiện thực phê phán đề cập tới. Có thể kể đến các
tác phẩm như Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng đã lên án những mặt tiêu
cực của gia đình tư sản. Ở đó mọi giá trị thang bậc trong gia đình đều bị đảo

5


lộn: bố cướp vợ của con, phụ nữ có gia đình nhưng vẫn ngang nhiên đi ngoại
tình, chồng bị vợ lừa dối, anh em con cháu chỉ mong bố chết, ông chết để
chiếm lấy gia tài, tiểu thuyết Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan cũng
khai thác những bi kịch gia đình, với những phép tắc, hủ tục lạc hậu ép duyên
con cái để rồi gây ra những bi kịch xót thương. Viết về đề tài hôn nhân và gia
đình chắc hẳn người đọc không thể không nhắc đến truyện ngắn Vợ nhặt của
nhà văn Kim Lân. Giữa lúc người chết như ngả rạ, nạn đói bủa vây khắp xóm
làng thì nhân vật Tràng lại đưa được một người phụ nữ về làm vợ chỉ bằng
vài câu nói bông đùa và một chầu bánh đúc. Hóa ra giữa lúc đói khổ ấy con
người vẫn ánh lên thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước vừa trải qua cuộc kháng chiến chống
Pháp. Các nhà văn lúc này trở thành những người chiến sĩ tiên phong trên mặt
trận văn học họ hướng ngòi bút của mình đến cách mạng, ca ngợi nhân dân,
ca ngợi những người anh hùng với chiến công vang dội. Vì thế đề tài hôn

nhân và gia đình tạm được gác lại thay vào đó là đề tài gia đình Cách mạng
như: Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi,
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Ở thời kì này các tác giả miêu tả
tình yêu hôn nhân gắn liền với lợi ích cách mạng, những người vợ người
chồng phải hi sinh hạnh phúc cá nhân để làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ với
dân tộc. Vì tiếng gọi của Tổ quốc nhiều người vợ, người chồng phải tạm gác
lại niềm vui gia đình để lên đường đi chiến đấu. Nhưng càng trong khói lửa
đạn bom thì tình yêu thủy chung son sắc càng mãnh liệt. Bom đạn có thể tàn
phá được nhà cửa, ruộng vườn nhưng không thể tàn phá được tình cảm gia
đình, sự gắn kết giữa gia đình và cộng đồng xã hội.
1.1.2 Thời kì sau 1975
Sau 1975 đất nước hòa bình, miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa
kéo theo sự thay đổi trong việc trong việc khám phá, phản ánh và tái hiện hiện

6


thực. Chiến tranh lùi xa, người nghệ sĩ không phải cầm súng ra trận, thay vào
đó họ có điều kiện để suy ngẫm và khám phá mọi mặt của đời sống đặc biệt là
thân phận con người. Hình ảnh những người anh hùng không phải là đối
tượng chủ yếu của các nhà văn nữa mà đối tượng ở đây đã có sự thay đổi con
người được nhìn nhận từ góc độ đa chiều: số phận, tính cách và bi kịch của
nhân vật được các tác giả phản ánh rõ nét.
Năm 1975 với thắng lợi vẻ vang của toàn dân tộc, đây cũng là thời kì mở
ra chặng đường mới cho sáng tác văn học. Cảm hứng chủ đạo của các nhà văn
vẫn mang cảm hứng ngợi ca, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Sau Đại
hội Đảng lần VI, không khí đổi mới - dân chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống
văn học nghệ thuật. Giới văn nghệ sĩ được tự do, thoả sức sáng tác, cảm hứng
lãng mạn lúc này chìm xuống dần nhường chỗ cho cảm hứng thế sự. Đề tài
gia đình một lần nữa trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của đông đảo thế hệ

các nhà văn. Văn học thời kì này xuất hiện với mật độ khá lớn các tác phẩm
viết về đề tài hôn nhân và gia đình. Trong đó có nhiều tác phẩm xuất sắc đạt
giải thưởng cao của Hội Nhà văn và để lại nhiều dư âm trong lòng độc giả
như: Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Nợ đời, Gái có con…(
Ma Văn Kháng), Thời xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông…( Lê Lựu), Tướng
về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Gia đình bé Mọn ( Dạ Ngân)…
Có thể thấy các tác phẩm viết về đề tài hôn nhân và gia đình sau năm 1975
đi sâu vào khai thác mối quan hệ phức tạp, đa chiều của gia đình Việt Nam
thời kì đổi mới. Nhà văn tập trung phản ánh cuộc sống cá nhân trong mối
quan hệ với gia đình và toàn xã hội. Khác với văn học giai đoạn 1945-1975
thường ca ngợi những người anh hùng kháng chiến, ca ngợi cách mạng thì
thời kì sau 1975 các tác giả lại tập trung thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân và
gia đình.
1.2 Tác giả Lê Lựu

7


1.2.1 Cuộc đời
Lê Lựu sinh ngày 12-12-1942, tại một làng ngoại đê sông Hồng thuộc
xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Sinh ra trong một gia đình
nhà Nho nghèo, Lê Lựu sớm gắn bó với đồng đất quê hương, cái đói, cái
nghèo đã ám ảnh cả một tuổi thơ của nhà văn. Lớn lên giữa lúc “Dân có ruộng
dập dìu hợp tác” cho nên mọi niềm vui hay nỗi buồn ở làng quê ông đều
chứng kiến.Với bản chất là một người nông dân áo lính ông luôn hướng về
quê hương chú ý đến những gì về người nông dân và nông thôn.
Rời ghế nhà trường, Lê Lựu bước vào quân đội từ đầu những năm 60lúc phong trào “Ba nhất” đang hừng hực khí thế. Tuổi trẻ háo hức, từ một cậu
bé làng quê xa phủ, xa huyện nay được hòa mình vào không khí thi đua của
công- nông- binh miền Bắc. Đến những năm 70, ông chuyển về tạp chí Văn
nghệ Quân đội và làm nhiều công việc khác nhau như biên tập viên văn xuôi,

thư kí tòa soạn.Hiện nay, Lê Lựu đang giữ chức Giám đốc Trung tâm Văn
hóa Doanh nhân tai Hà Nội. Ngày 25 tháng 2 năm 2014, Ông thành lập Quỹ
văn học Lê Lựu. Đây được coi là quỹ văn học đầu tiên mang tên một nhà văn
còn sống, nhằm khích lệ sáng tác cuả thế hệ nhà văn trẻ, tạo điều kiện cho văn
nghệ sĩ cống hiến những tác phẩm có giá trị.
Trong cuộc sống đời thường Lê Lựu chân thực, hồn nhiên, đôi lúc có
phần lôi thôi, lếch thếch, luộm thuộm nhưng ông sống vô cùng chân thật, cởi
mở. Đó chính là nguồn lực khiến ông không khô khan trong cuộc sống văn
chương.
1.2.2 Sự nghiệp sáng tác
Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành trong
kháng chiến chống Mĩ. Ông sáng tác ở rất nhiều thể loại: truyện ngắn, kí, tiểu
thuyết... Lê Lựu vốn khởi nghiệp từ nghề báo nhưng lại hướng ngòi bút của
mình sang lĩnh vực văn chương. Truyện ngắn đầu tay của ông là Tết làng Mụa

8


(1964) sáng tác khi mới 21 tuổi. Tiếp theo đó là hàng loạt tác phẩm khác ra
đời: Trong làng nho và Người cầm súng (1967). Đặc biệt với truyện ngắn
Người cầm súng đã giúp Lê Lựu giành giải nhì trên báo văn nghệ năm 1968,
đánh dấu tên tuổi Lê Lựu trong sự nghiệp sáng tác văn học.
Thành công và để lại dấu ấn với độc giả phải kể đến lĩnh vực tiểu
thuyết. Với cuốn tiểu thuyết đầu tiên Mở rừng (1973) đã đánh dấu sự xuất
hiện của Lê Lựu trong làng tiểu thuyết Việt Nam, được nhà thơ Trần Đăng
Khoa đánh giá cao: “Theo tôi, đây là cuốn tiếu thuyết vào loại khá của văn
học Việt Nam những năm 70”. Năm 1984, tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời đã
gây xôn xao dư luận và tạo được tiếng vang lớn với bốn lần xuất bản và
80.000 bản in. Với tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu đã vinh dự nhận về giải A
Hội nhà văn Việt Nam (1986). Năm 1990, Lê Lựu viết tác phẩm Đại tá không

biết đùa tác phẩm ra đời đã khẳng định ngòi bút tài năng của ông trên văn
đàn. Ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các tiểu thuyết khác của Lê Lựu như:
Chuyện làng Cuội (1991); Sóng ở đáy sông (1994); Hai nhà (2000); Thời loạn
(2009). Cảm hứng chủ đạo ở các cuốn tiểu thuyết này là cảm hứng bi kịch,
trong đó tác giả tập trung khai thác những góc khuất trong tâm hồn con người.
Ngoài hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Lê Lựu còn có sáng tác
kí với hai tác phẩm gây tiếng vang trên văn đàn: Một thời lầm lỗi (1988), Trở
lại nước Mĩ (1989). Tóm lại, với gần nửa thế kỉ cầm bút, Lê Lựu đã có một
khối lượng tác phẩm tuy không nhiều nhưng đã để lại dấu ấn đối với độc giả.
Từ những tác phẩm đầu tay đến những tác phẩm để lại dấu ấn trong văn
chương. Lê Lựu đã cho chúng ta thấy một hành trình lao động miệt mài,
không ngừng nghỉ, một cây bút quân đội xông xáo, một người nghệ sĩ luôn
trăn trở với nghề. Ông từng tâm sự về nghề văn: “Tôi là người ít học, ít đọc vì
lười nghĩ ngợi. Toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc
là thật. Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật. Tôi chỉ là người

9


chép chuyện, có gì viết nấy”. Lê Lựu là nhà văn đã khẳng định được vị trí của
mình trong dòng chảy văn học Việt Nam thời kì đổi mới, nhất là từ khi cuốn
tiểu thuyết Thời xa vắng chính thức ra mắt độc giả.
1.2.3 Vị trí tiểu thuyết Thời xa vắng trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới
Tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời đã chiếm một vị trí quan trọng trong
dòng chảy văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Tác phẩm đã tốn không ít giấy
mực của giới nghiên cứu, phê bình, mang ý nghĩa bước ngoặt trong sự nghiệp
của Lê Lựu, giúp nhà văn khẳng định vị thế của mình trong hàng ngũ thế hệ
nhà văn sau 1975. Tiểu thuyết đã giúp Lê Lựu nhận giải A hội nhà văn Việt
Nam (1986). Đạo diễn Hồ Quang Minh của hãng phim Giải phóng đã chuyển

thể thành phim truyện nhựa, ra mắt công chúng vào năm 2004, được đông đảo
công chúng đóng nhận.
Tiểu thuyết Thời xa vắng gồm mười ba chương, được chia làm hai phần.
Lê Lựu đã tập trung khắc họa nhân vật Giang Minh Sài tài năng, giỏi giang
nhưng phải sống một cuộc sống đầy o ép, chật chội. Sài bị ép lấy vợ từ rất
sớm khi anh mới hơn mười tuổi, anh sợ phải giáp mặt với Tuyết, thậm chí từ
lúc kết hôn đến khi đi bộ đội Sài chưa từng ngủ chung giường với vợ mình
một ngày nào. Chính sự kiện làng Hạ Vị mênh mông nước lũ đã gắn kết cuộc
đời Sài với Hương- một cô gái xinh đẹp, tài năng. Để trở thành đảng viên, Sài
buộc phải yêu thương Tuyết theo sự chỉ đạo của cấp trên. Để chạy trốn khỏi
Tuyết, Sài đã lên đường đi bộ đội, những lúc rảnh rỗi trong quân ngũ anh
thường ghi lại cảm xúc của mình và tưởng tượng ra khung cảnh tươi đẹp cùng
Hương. Hòa bình lập lại, Sài đã giải phóng cho cuộc đời mình và Tuyết.
Tưởng cuộc đời bước sang trang mới nhưng Sài lại tiếp tục vướng vào bi kịch
đó là cuộc hôn nhân với Châu- cô gái Hà Nội xinh đẹp, sắc sảo, đám cưới rình
rang được tổ chức. Từ lúc lấy vợ, Sài từ bỏ ước mơ học tập của mình, anh

10


phải quay cuồng trong cuộc sống thường ngày. Cuộc hôn nhân đó nhanh
chóng đi vào ngõ cụt và tan vỡ bởi sự lệch pha trong tâm hồn hai con người.
Sài để hết tài sản cho Châu và nhận nuôi cu Thùy nhưng đau đớn thay cu
Thùy lại không phải là con trai của anh. Kết thúc câu chuyện là sự bế tắc của
Sài. Anh bỏ công tác ở thành phố trở về quê hương làm chủ nhiệm hợp tác xã.
Qua tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu đã tập trung khai thác vấn đề hôn
nhân và gia đình, đó là bi kịch hôn nhân, bi kịch gia đình, con người luôn bị
cuốn vào vòng bi kịch luẩn quẩn mà họ cố vùng vẫy nhưng không thể thoát ra
được.


11


CHƢƠNG 2. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ
HIỆN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU
THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU
2.1 Vấn đề hôn nhân
Trong các tiểu thuyết của Lê Lựu, nhân vật thường rơi vào những bi
kịch hôn nhân: hôn nhân không có tình yêu hạnh phúc, hôn nhân vênh lệch, bi
kịch cô đơn của mỗi cá nhân trong gia đình, bi kịch ngoại tình trong hôn
nhân… Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu đã khắc họa thành công đề tài
này.
2.1.1 Sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân
Ở phần đầu câu chuyện, tác giả xây dựng nhân vật Sài trong bối cảnh
chiến tranh. Là con út của một thầy đồ, sống trong gia đình mang nặng tư
tưởng nho giáo phong kiến, từ nhỏ Giang Minh Sài đã phải chịu sức ép của
những hủ tục lạc hậu. Do vậy, dù ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, Sài chỉ biết
có chơi và học mà đã bị ép lấy vợ, phải chịu nỗi uất ức “tự nhiên có một con
bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi
nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn ngụp xuống cái ao đầy bùn của
nhà chú Hà lúc nào…” [10, 6]. Sài ghét Tuyết, anh có suy nghĩ bỏ vợ nhưng ý
định này vừa mới lóe lên thì đã bị vùi dập bởi sự áp đặt của người cha: “chưa
có khi nào con cái lại trái ý cha mẹ cả” [10, 20]. Chính vì vậy mà Sài phải
dằn lòng sống theo ý muốn của gia đình, dòng họ. Tuy sống cùng nhà với
Tuyết nhưng anh tìm đủ mọi cách để lẩn tránh, để chống đối: không ngủ
chung giường, không ăn cùng mâm, không chấm cùng bát…Dù Tuyết được
người ta khen là khỏe mạnh, chắc chắn, làm ăn đâu ra đấy nhưng trong mắt
của Sài thì cô vẫn hiện lên là một con người thô kệch, ngu dốt: “Sài nghĩ
bụng có khác gì cái chĩnh đựng đỗ giống, người ngợm, mỗi khi chạy trông cứ
như lăn. Người ngoài bình phẩm hiếm thấy người hiền lành như cô Tuyết, Sài


12


cho đấy là loại người ngu, cả ngày không mở mồm nói nổi một câu” [10, 47].
Sài chính là nạn nhân của tục tảo hôn- một hủ tục lạc hậu của xã hội trước kia
đã đẩy nhiều cuộc đời vào bất hạnh.
Ngược lại ở cuộc hôn nhân này, Tuyết là người con gái thôn quê hiền
lành, chân chất được ông đồ Khang cưới hỏi đàng hoàng. Bị gả chồng do sự
áp đặt gia đình, Tuyết chưa bao giờ được đón nhận tình yêu thương từ chồng.
Lấy nhau từ khi mười ba tuổi nhưng chưa bao giờ Sài coi cô là vợ, chính điều
này càng nhen nhóm khát vọng được yêu thương của cô. Khát vọng ấy cứ
theo thời gian mà lớn dần, lúc mới đầu khi Sài mười tuổi tình yêu ấy chỉ là
giúp Sài quét sân, quét ngõ, giã ngô để anh có thời gian học. Thời gian trôi,
tình yêu cũng lớn dần lên, cô thèm một cái nhìn từ chồng, thèm sự quan tâm,
thậm chí những câu chửi mắng của Sài cho bớt đơn độc. Lê Lựu đã thấu hiểu
và cảm thông với những khao khát của Tuyết: “Tuyết lúc nào cũng thấy hao
háo thèm thuồng, thèm cả từ câu quát mắng, thèm một quả đấm, một cái
tát…Những cái đấy là tục tằn, thô lỗ vẫn là được tiếng là cô có chồng, chồng
đánh, chồng chửi chồng giận hờn, hắt nhủi…” [10, 169]. Điểm nhìn bên trong
đã giúp Lê Lựu hiểu được những bất hạnh của Tuyết, một người con gái mới
lớn khao khát tình yêu, một người phụ nữ cả đời không được chồng nhòm
ngó: “Cái tuổi dậy thì của người con gái mỗi ngày như trông thấy cái cơ thể
dồi dào sức lực của mình cứ mát mẻ và êm ái căng đầy lên, đã thấy khao khát
cháy khô đôi môi mọng đỏ trước cái nhìn đăm đắm của bọn con trai, đã thấy
phập phồng mỗi đêm nghe tiếng chồng chạy về” [10, 44]. Phải chăng, trong
cuộc hôn nhân này, cả Sài và Tuyết đều là những người đáng thương. Tuyết
muốn chăm sóc chồng, muốn đòi hỏi bất cứ điều gì từ chồng, đó là lẽ hoàn
toàn bình thường. Cắn răng chịu đựng với mọi việc nhà chồng để đổi lấy duy
nhất một lần ơn huệ là có được đứa con với Sài, dù biết rằng đó không phải là

kết quả của tình yêu nhưng cô đã sung sướng vồ vập lấy cái hạnh phúc ấy.

13


Tuyết sống trong sự chờ đợi, trông ngóng hi vọng đứa con sẽ là cầu nối tình
thương xây dựng tổ ấm gia đình, nhưng niềm khao khát ấy quá xa vời khiến
cô không thể nào nắm bắt được. Có thể thấy cuộc hôn nhân của Sài và Tuyết
không được xây dựng dựa trên cơ sở tình yêu đích thực của hai người mà xây
dựng dựa trên sự sắp đặt của cha mẹ nên nhanh chóng đi vào ngõ cụt để rồi
dẫn đến đổ vỡ, mất mát. Lê Lựu đã đi đâu khám phá thế giới nội tâm nhân vật
để thấu hiểu, cảm thông cho số phận của nhân vật.
Chia tay với Tuyết, Sài tự do làm chủ chính mình, ngỡ rằng nỗi đau sẽ
qua đi hạnh phúc sẽ đến với anh nhưng Sài lại tiếp tục rơi vào bi kịch đổ vỡ.
Ngay từ lần đầu gặp Châu- một cô gái Hà Thành xinh đẹp, có học vấn anh đã
đắm chìm trong tình yêu mặc sức trước sự can ngăn của mọi người: “Bất chấp
sự gièm pha can ngăn của Hương và những người thân, Sài quyết chí yêu
Châu” [10, 250] mà không hề hay biết đó là cô gái khôn ngoan, sắc sảo. Cô
yêu và cưới anh không phải vì một tình yêu đích thực, chân chính mà Châu
lấy anh như một tấm bệ đỡ cho bản thân mình.
Những ngày tháng chung sống với Châu, Sài trở thành một con rô bốt,
một cái máy đã được lập trình sẵn. Mỗi ngày anh đều đầu tắp mặt tối từ bốn
giờ sáng để nấu cơm, rửa bát, giặt giũ, cho con ăn và nhiều thứ việc khác nữa.
Ở cuộc hôn nhân với Châu, Sài là người được lựa chọn sống theo ý mình,
nhưng cách sống của anh vẫn là hệ quả của những ngày tháng sống áp đặt
theo suy nghĩ của người khác. Sài tự do, được sống là chính mình và được lựa
chọn hạnh phúc cho chính bản thân mình nhưng đây lại là căn nguyên của sai
lầm thứ hai dẫn đến bi kịch cho Sài. Sài lấy một người không thuộc về thế
giới của anh mà chỉ mượn anh để che đậy lối sống lăng loàn của mình, để hợp
thức hóa đứa con trong bụng cô. Đứa con ấy chính là hậu quả của những ngày

tháng yêu đương tự do của Châu. Sự khôn ngoan, lọc lõi của Châu đã khiến
cho Sài nhanh chóng bị sập bẫy, đổ gục mà anh cứ nghĩ trời ban cho anh diễm

14


phúc “anh thấy như đang bơi mênh mang trong hạnh phúc, trong niềm sung
sướng đến ngạt thở” [10, 251]. Sài yêu vợ thương con nhưng lại quá nhẫn
nhịn, nhu nhược trái ngược hoàn toàn với bản tính của Châu. Cô sống ích kỉ,
coi thường, khinh rẻ người khác, nhanh chóng lấn lướt, áp đặt suy nghĩ của
Sài. Chính những lí do đó đã dẫn đến bi kịch đổ vỡ giữa anh và Châu. Sài mơ
ước hạnh phúc, chăm lo cho tổ ấm gia đình bao nhiêu thì Châu lại hoàn toàn
ngược lại. Tuy sống cùng Sài nhưng cô lại luôn hướng trái tim mình đến tình
yêu với Toàn- một anh công nhân điện đẹp trai, biết đánh đàn ghi ta và hát rất
hay. Cô ngang nhiên vượt mặt chồng ngoại tình với Toàn. Tuy nhiên, nhìn từ
phía của Sài sự nhẫn nhịn ấy một phần anh muốn bảo vệ gia đình, không
muốn đổ vỡ, mất mát khổ cho con cái, một phần vì anh đã quen với cuộc sống
áp đặt, sống theo ý muốn người khác. Sài đã nhận thấy giữa Châu và anh có
quá nhiều điểm trái ngược. Anh cảm thấy chới với, mất phương hướng. Trong
bi kịch của cuộc hôn nhân thứ hai, Châu chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến đổ vỡ, nhưng nguyên nhân sâu xa lại bắt nguồn từ sự nhu nhược luôn
sống áp đặt, sống hộ theo ý người khác của Sài. Có thể dễ dàng nhận thấy
cuộc hôn nhân của Sài và Châu có sự tương đồng với cuộc hôn nhân giữa
Tâm và Linh Anh trong tiểu thuyết Hai nhà của Lê Lựu. Một người vợ lăng
loàn sẵn sàng ngang nhiên ngoại tình khi đã có gia đình. Còn người chồng
nhu nhược. Nếu Sài vẫn là người hạnh phúc khi anh còn có con, có làng Hạ
Vị để trở về thì Tâm trở về chỉ với hai bàn tay trắng không con cái, không đất
đai, tương lai phía trước thì mịt mờ, tăm tối.
Ph. Ăng ghen từng cho rằng “Tình yêu chân chính là tình yêu dẫn đến
hôn nhân. Hôn nhân là điều kiện khởi đầu cho một gia đình”. Có thể hiểu cơ

sở của hôn nhân chính là dựa trên tình yêu chân chính. Trong cả hai cuộc hôn
nhân, giữa Sài và Tuyết ở phần đầu và Sài với Châu ở phần hai đều không
được xây dựng dựa trên tình yêu chân chính ấy, lấy nhau vì cha mẹ sắp đặt,

15


lấy nhau vì hợp thức hóa đứa con rơi nên dẫn đến đổ vỡ, mất mát là điều tất
yếu.
2.1.2 Sự vênh lệch, khập khiễng trong hôn nhân
Ở phần đầu của tiểu thuyết Thời xa vắng, nhân vật Sài bị trói buộc vào
cuộc hôn nhân sắp đặt theo ý muốn của gia đình với Tuyết. Cuộc hôn nhân ấy
đã đẩy anh rơi vào đau khổ, do vệnh lệch, khập khiễng trong hôn nhân.
Trong cuộc hôn nhân với Tuyết, người đọc dễ dàng nhận thấy sự chênh
lệch về tuổi tác giữa hai con người. Khi lấy vợ Sài chỉ mới hơn mười tuổi còn
Tuyết khi ấy hơn Sài ba tuổi: “Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng
là út, mọi việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng nó có vợ, dù
vợ chỉ lớn hơn ba tuổi, nhưng đã làm được việc nặng nhọc của người lớn”
[10, 6]. Cuộc hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ là chuỗi ngày dài những bi, hài
kịch và cả những giọt nước mắt khiến người đọc hình dung ra câu ca dao
châm biếm của nhân dân ta khi xưa: “Bồng bồng cõng chồng đi chơi/ Đi đến
chỗ lội đánh rơi mất chồng”. Sài lấy vợ là do sự sắp đặt của gia đình chứ
trong lòng anh chưa có ý định lấy vợ. Khái niệm vợ với Sài chỉ là có người
quét sân, quét cái ngõ dài thăm thẳm. Ngoài giờ học Sài chỉ biết chơi bắn trận
giả với lũ bạn cùng trang lứa khác. Chính sự chênh lệch về tuổi tác đã đẩy
cuộc hôn nhân của hai con người không có tình yêu đi xa hơn, khi mà họ chưa
ý thức được thế nào là gia đình, thế nào là cuộc sống hôn nhân vợ chồng.
Giữa Sài và Tuyết không chỉ chênh lệch nhau về tuổi tác mà về trình độ
học vấn. Sài là một người thông minh, giỏi giang, luôn xếp thứ hạng nhất nhì
của trường, của thôn. Sài còn vinh dự là một trong năm thiếu niên được tuyên

dương trong sao tháng Tám. Bên cạnh việc học tập của mình anh còn dạy các
bạn làm tính, viết chữ: “Không đêm nào liên đội của Sài không tập trung đi
hô khẩu hiệu rồi về sân nhà ông cần học hát, học múa. Sài còn dạy các bạn
làm tính, học viết chữ” [10, 42]. Sau này đi vào bộ đội, cũng nhờ sự thông mà

16


Sài được cử đi học và trở thành cán bộ. Ngoài giờ huấn luyện Sài luôn tự học
và đỗ vào đại học xuất sắc. Sau này vì cuộc sống quá bế tắc anh xin ra chiến
trường nhưng vì là một cán bộ dạy giỏi nên anh bị giữ lại để tiếp tục dạy.
Ngược lại với Sài, Tuyết là người phụ nữ chỉ biết chăm lo, vun vén cho gia
đình, không được học hành đầy đủ, thậm chí trong mắt của Sài, Tuyết hiện
lên là một con người kém cỏi,nhận thức kém: “Cô học hành bình dân năm
năm mới đánh vần sách in, một giờ đọc được một trang, mà vật vã như người
vật nhau” [10,107].
Cuộc sống hôn nhân không chỉ vênh lệch với Tuyết về tuổi tác, học vấn
mà ngay cảcuộc hôn nhân sau này với Châu, giữa Sài và cô còn có sự vênh
lệch trong đời sống tâm hồn. Châu là một phụ nữ sắc sảo, khôn ngoan, lọc lõi
bao nhiêu thì Sài hiền lành, nhu nhược bấy nhiêu.Sống với Châu, anh luôn rơi
vào những ngày tháng mệt mỏi, cay đắng. Lúc nào Sài cũng đầu tắp mặt tối lo
cho gia đình từ những việc nhỏ nhất như nấu cơm, rửa bát, quét nhà, đỡ đần,
giúp đỡ vợ thì Châu lại vô tâm bấy nhiêu. Cô không hề để ý đến cảm xúc của
Sài, luôn coi thường, mắng chửi chồng: “Tiên sư cái đồ ngu như lợn. Đến bây
giờ còn chết chìm chết ngạt ở đâu” [10, 294]. Châu không muốn cảm thông
với những khuyết điểm của Sài. Cô khinh Sài, khinh cả những người thân yêu
ruột thịt của Sài bởi cô cho rằng họ là những người quê mùa. Trước mặt tất cả
mọi người, cô luôn sắm vai người phụ nữ hết mực lo cho gia đình chiều
chồng, thương con, cô còn dạy đứa cháu gái phải nghiêm túc và đặc biệt lên
án những người phụ nữ lăng loàn. Nhưng đằng sau cái bản chất tốt đẹp ấy

chính là một bộ đạo đức giả, giả tạo. Dường như Châu chưa thỏa mãn với
cuộc sống hiện tại, với một người chồng hết lòng lo cho gia đình như Sài. Sài
luôn cố gắng phá bỏ sự vênh lệch giữa anh và cô nhưng dường như mọi cố
gắng của anh chỉ là vô ích. Anh ra sức xây dựng vun đắp còn Châu lại ra sức
phá hoại. Cũng là một con người có học vấn giống như Hương, lại sinh gia

17


trong một gia đình bề thế có chức có quyền chẳng phải lo lắng điều gì nhưng
Châu lại có cách ứng xử hoàn toàn trái ngược với Hương. Cô luôn nghĩ đến
bản thân mà không hề để ý đến suy nghĩ của người khác. Nếu suốt ngày Sài
đều đầu tắp mặt tối lo cho cuộc sống gia đình, lúc nào anh cũng nghĩ đến việc
chăm lo cho vợ con nhưng khi anh phải làm việc về muộn thì Châu để phần
anh một nồi cơm đóng chóc, một đĩa rau tưởng không về thì đổ cho lợn nó ăn
rồi, đó không phải lần đầu Châu đối xử với chồng như vậy mà đã rất nhiều
lần.Trong tiểu thuyết Hai nhà, Lê Lựu đã xây dựng nhân vật Linh Anh mang
những nét tính cách và hành động có phần giống Châu, Linh Anh cũng là
người phụ nữ xinh đẹp, sắc sảo. Cô kịch liệt phản đối Tâm chồng của mình
giao tiếp với bà Nhân nhưng cô cũng lợi dụng lòng tin của một người đàn ông
thật thà, yêu gia đình để che đậy cái lối sống buông thả, giả dối của mình,
Linh Anh ngang nhiên qua mặt chồng ngoại tình với những người đàn ông
khác.
Các tác phẩm viết về đề tài hôn nhân và gia đình của Lê Lựu thường kết
thúc trong bi kịch. Sự đổ vỡ, mất mát ấy một phần là do sự vênh lệch, khập
khiễng giữa người vợ và người chồng trong cuộc sống, mối quan hệ gia đình.
Trong tiểu thuyết Thời xa vắng, dưới góc độ hôn nhân, gia đình thì vấn đề
tình yêu luôn là cái nhìn đau đáu trong tâm hồn mỗi con người. Cuộc đời Sài
là những chuỗi ngày đắng cay. Sau bao mất mát, bi kịch Sài mới đau khổ
nhận ra: “ Nửa đời người phải yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái

mình không có”.
2.2 Vấn đề gia đình
Theo Từ điển triết học: “Gia đình là một hình thức có tính chất lịch sử
của đời sống chung loài người giữa nam giới và nữ giới. Trong suốt quá trình
lịch sử tất cả những biến đổi diễn ra trong mối quan hệ giữa nam giới và nữ

18


giới, hôn nhân hình thức gia đình đều do sự thay đổi của chế độ kinh tế xã
hội, do tính chất của các quan hệ xã hội nói chung quyết định”.
Gia đình được hình thành từ rất sớm. Trải qua bốn nghìn năm dựng
nước và giữa nước, yêu cầu của hoàn cảnh xã hội khiến con người phải sống
quây quần thành làng xã, thôn, xóm. Chính từ không gian gần gũi, quen thuộc
ấy các thế hệ người Việt đã kế thừa phát, huy những truyền thống tốt đẹp của
ông cha. Bên cạnh những giá trị tốt đẹp của truyền thống gia đình thì vẫn còn
tồn tại những mặt trái như những hệ lụy, tàn dư phong kiến cũng được Lê Lựu
phản ánh trong cuốn tiểu thuyết.
2.2.1. Gia đình với những hệ lụy, tàn dư xã hội phong kiến
Gia đình là nơi trú ngụ, chở che con người trước những vấp ngã lầm
lạc. Cùng với hôn nhân, vấn đề gia đình cũng được Lê Lựu đặc biệt quan tâm
trong tiểu thuyết Thời xa vắng. Ông đã đi sâu phản ánh những hệ lụy, tàn dư
của xã hội phong kiến vẫn ám ảnh, đè nặng lên cuộc sống của con người để từ
đó thấy được những đau khổ, bất hạnh mà họ phải gánh chịu.
Sinh ra giữa một vùng quê nghèo còn nhiều hủ tục lạc hậu, gia đình Sài
chính là hình mẫu tiêu biểu cho truyền thống Nho giáo với những lề lối phong
kiến ngặt nghèo, khắt khe. Với tục tảo hôn và quan niệm “cha mẹ đặt đâu con
cái ngồi đấy” đã khiến cho nhiều cuộc đời, số phận rơi vào đau khổ, dang dở,
bất hạnh mà nạn nhân chính là Giang Minh Sài và Tuyết- vợ của anh. Sài bị
cha mẹ áp đặt lấy vợ từ rất sớm khi anh mới mười tuổi vẫn còn một cậu thiếu

chỉ biết học và đánh trận giả,giống như Sài, Tuyết cũng bị cha mẹ ràng buộc
vào hủ tục này, cô đã từng tâm sự với Hương: “Nhưng bố mẹ chỉ có chém khi
em tự bỏ về. Sống làm người chết làm ma nhà nó, cấm mày được dẫn xác về
đây. Bao giờ thằng Sài đuổi mày đi sẽ hay” [10, 249]. Mặc cho sự can ngăn
của mọi người, của chú Hà nhưng ông đồ vẫn quyết cưới vợ cho con. Sài tìm
đủ mọi cách đề chống đối, cuộc hôn nhân này nhưng tất cả chỉ là vô ích khi

19


×