Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết đôi bạn của nhất linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THẢO MY

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT ĐÔI BẠN
CỦA NHẤT LINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THẢO MY

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT ĐÔI BẠN
CỦA NHẤT LINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
TS. THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG



HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2, khoa Ngữ Văn, tổ Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện trong
suốt thời gian em học tập và nghiên cứu tại trường. Đặc biệt em xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo - TS. Thành Đức Bảo Thắng, người đã
hướng dẫn, động viên và tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thảo My


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan:
Khóa luận “Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Đôi bạn
của Nhất Linh” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có sự tham khảo ý kiến
của những người đi trước, dưới sự giúp đỡ khoa học của TS. Thành Đức Bảo
Thắng.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, công trình có sẵn nào.
Hà Nội ngày 1 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thảo My



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6
4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 6
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7
7. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 7
8. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 8
1.1. Tác giả Nhất Linh và vị trí của tiểu thuyết Đôi bạn .................................. 8
1.1.1. Tác giả Nhất Linh ................................................................................... 8
1.1.2. Vị trí của tiểu thuyết Đôi bạn ............................................................... 11
1.2. Thời gian và không gian nghệ thuật......................................................... 13
1.2.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................. 13
1.2.2. Không gian nghệ thuật. ......................................................................... 20
1.3. Vai trò của thời gian và không gian nghệ thuật ....................................... 29
CHƯƠNG 2. BIỂU HIỆN CỦA THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ
THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT ĐÔI BẠN CỦA NHẤT LINH ................ 30
2.1. Biểu hiện của thời gian nghệ thuật........................................................... 30
2.1.1. Thời gian hiện thực hàng ngày.............................................................. 30
2.1.2. Thời gian hồi tưởng ............................................................................... 34
2.1.3. Thời gian tương lai ................................................................................ 37


2.2. Biểu hiện của không gian nghệ thuật ....................................................... 40
2.2.1. Không gian đời thường ......................................................................... 40

2.2.2. Không gian thiên nhiên ......................................................................... 44
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 chịu sự tác động mạnh mẽ
của hoàn cảnh xã hội, đã thay đổi nhanh chóng, toàn diện và hòa nhập được
văn học hiện đại thế giới. Đây là giai đoạn đánh dấu bước ngoặt của lịch sử
văn học với sự ra đời của nhiều trào lưu, khuynh hướng, đa dạng và phong
phú. Tự lực văn đoàn là tổ chức văn học, đồng thời cũng là tổ chức văn hóa
xã hội ra đời trong bối cảnh này. Với chủ trương, ý thức và khát vọng đổi mới
(quan niệm nhân sinh, quan niệm xã hội, quan điểm thẩm mĩ), các nhà văn
trong văn đoàn đã đẩy nhanh quá trình phát triển của văn học trên con đường
hiện đại hóa. Khẳng định vai trò quan trọng của văn học lãng mạn nói chung
và Tự lực văn đoàn nói riêng, trên Tạp chí Sông Hương số 37 (tháng 4 năm
1989) nhà nghiên cứu Hoàng Xuân Hãn đã viết: “Nhóm Tự lực văn đoàn
không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải
cách đầu tiên của văn học hiện đại”. [12, tr.74.]. Nghiên cứu về nghệ thuật
tiểu thuyết hiện đại với các yếu tố cấu thành, không thể không chú ý tới
những thành tựu nghệ thuật quan trọng của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.
Hơn nữa, mỗi nhà văn trong văn phái lại có một giọng điệu riêng tạo
nên một phong cách khác nhau. Các cây bút trong văn đoàn góp phần làm
phong phú, đa dạng và phát triển nhanh chóng các thể loại văn xuôi nghệ
thuật trong những năm 30 của thế kỉ XX. Chủ bút Nhất Linh là người có con
mắt tinh đời, đã nhìn nhận và hướng mỗi tác giả trong văn đoàn trở thành một
cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại. Khái Hưng, chuyển từ lối viết
luận thuyết sang viết tiểu thuyết. Tú Mỡ chuyển sang làm thơ trào phúng.
Trọng Lang phải là tác giả tiêu biểu cho phóng sự còn Thế Lữ phải là người

mở đầu cho “thơ mới” … Các tác phẩm của Nhất Linh đã thể hiện toàn diện
đường lối cũng như tôn chỉ của văn phái, nhằm đổi mới văn chương và cải

1


cách xã hội. Lựa chọn nghiên cứu tiểu thuyết của Nhất Linh là hướng đi đúng
đắn để hiểu hơn về tác phẩm, tác giả và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.
1.2 Như chúng ta đã biết, tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XX mang hơi
thở của thời đại mới. Để đạt được thành tựu đó chính là nhờ có sự giao lưu
văn hóa phương Tây, phương Đông và sự kết tinh của hơn mười thế kỉ văn
học dân tộc. Sau 1932, tiểu thuyết ở Việt Nam phát triển mạnh. Các nhà văn
tiến bộ chủ trương cải cách xã hội, hạ bệ chế độ đại gia đình, mê tín dị đoan,
đạp tan luân lí Khổng Mạnh. Nhất Linh cũng từng du học ở phương Tây nên
sự ảnh hưởng này rất rõ ràng. Qua các nhân vật, nhà văn đã thể hiện khát
vọng tự do cá nhân của mình, vì vậy cuộc đấu tranh cũ - mới diễn ra rất quyết
liệt. Đôi bạn đặt một cột mốc quan trọng trong tiến trình tư tưởng và nghệ
thuật của Nhất Linh. Đôi bạn cùng với Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Bướm trắng…
đã góp phần khẳng định giá trị tiểu thuyết của Nhất Linh. Ngôn ngữ trong tác
phẩm nhẹ nhàng, giản dị, trong sáng, từng được đánh giá cao.
Xuất phát từ thực tế đó, nghiên cứu về đề tài Thời gian và không gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh để thấy rõ tài năng, vị trí,
của ông trên con đường hiện đại hóa văn học. Đồng thời cho thấy sự thay đổi
về tư tưởng cũng như nghệ thuật viết tiểu thuyết của ông.
1.3 Tìm hiểu về Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Đôi bạn của Nhất Linh không những thấy được tâm huyết, tài năng của tác
giả mà giúp cho người viết rèn luyện ý thức tự chủ, khả năng nghiên cứu văn
học và xử lí kiến thức… trong bước đầu nghiên cứu khoa học. Đây là một
công việc cần thiết với một người học văn và một giáo viên tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu

2.1. Tình hình nghiên cứu về thời gian và không gian nghệ thuật
Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng, thời gian và không gian bên cạnh
việc cho thấy cách nhìn, cách đánh giá của tác giả về vũ trụ, về con người
đồng thời còn được xử lí “như một hình thức để kiến tạo nên tác phẩm cụ thể”

2


[34, tr.87]. Lí thuyết thi pháp học hiện đại cho rằng “Thời gian nghệ thuật là
hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật” [6, tr.322]. Và không gian nghệ
thuật là bối cảnh để các nhân vật trong tác phẩm xuất hiện. Thời gian và
không gian nghệ thuật tựu chung lại trong tác phẩm ngôn từ, qua đó cho thấy
điểm nhìn mà tác giả lựa chọn để sáng tác đồng thời hé mở tư duy cá nhân
của tác giả.
Pospelov khẳng định: “Văn học nghệ thuật thì trái lại … chủ yếu thể
hiện các quá trình đời sống diễn ra trong thời gian, tức là hoạt động sống của
con người gắn liền với chuỗi cảm thụ, suy nghĩ, ý định, hành vi, sự kiện”.
Quan niệm của Pospelov đã cho rằng thời gian trong văn học là một hiện
tượng khách quan mà con người sống, hành động, thể hiện tâm trạng, suy
nghĩ trong khoảng thời gian đó.
Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu đã mở ra hướng nghiên cứu mới
cho thi pháp học. Trong công trình Thi pháp thơ Tố Hữu (1987), Trần Đình
Sử đã nói đến thời gian và không gian nghệ thuật như sau:
- “Khó mà hiểu được con người nếu không hiểu được không gian tổn
tại của nó” [27, tr.178].
- “… ý thức về thời gian là ý thức về sự tồn tại của con người, phát hiện
về thời gian giúp người ta nhận thức sâu hơn về cuộc sống” [27, tr.208].
Trong thời buổi hiện đại, thời gian và không gian nghệ thuật tiếp tục
được quan tâm, nghiên cứu nó như một hướng đi mở ra cách tiếp cận tác
phẩm từ góc độ thi pháp học, giúp độc giả đón nhận tác phẩm đa chiều hơn.

2.2. Một số ý kiến về tiểu thuyết Nhất Linh
Mấy năm qua trong trào lưu đổi mới, một số vấn đề tác giả trong giai
đoạn 1932 - 1945 cũng được bàn nhiều trong đó có nhóm Tự lực văn đoàn và
Nhất Linh. Song mới chỉ nghiên cứu phần lớn ở vấn đề tác giả và hình tượng
nhân vật. Với tiểu thuyết Đôi bạn, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tác

3


phẩm, thời gian và không gian nghệ thuật trong tác phẩm này vẫn chưa được
phân tích, đánh giá cụ thể. Ở bài nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra đưa ra
những đánh giá nổi bật về tiểu thuyết của Nhất Linh.
Trước năm 1945 Nhất Linh được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến với tư
cách là một nhà cải cách xã hội theo xu hướng dân chủ tư sản, hoạt động trên
lĩnh vực văn hóa, chính trị, văn học. Tiêu biểu như các bài nghiên Dưới mắt
tôi (1939) (Trương Chính), Việt Nam văn học sử yếu (1942) (Dương Quảng
Hàm), Nhà văn hiện đại, tập 2 (1942) (Vũ Ngọc Phan), ... Thời kì này giới
nghiên cứu đề cao sáng tác của Nhất Linh. Các tác phẩm của Nhất Linh với tư
tưởng chống lễ giáo phong kiến, chống hủ tục lạc hậu, đòi giải phóng cá nhân.
Vì vậy tiểu thuyết của ông được đánh giá là tiến bộ về tư tưởng, đổi mới ở
ngôn từ, lời văn. Trần Thanh Mại đã dành lời khen cho Nhất Linh: "Văn tài
uyển chuyển, mạnh mẽ, không có chỗ nào đáng bỏ, không có chỗ nào phải
thêm" trên tạp chí Sông hương (1937). Khẳng định về những giá trị nghệ thuật
trong các tác phẩm của Nhất Linh, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã phát
biểu: "Nếu đọc Nhất Linh từ Nho phong cho đến những tiểu thuyết gần đây
nhất của ông người ta thấy tiểu thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ
tiểu thuyết tình ái, tiểu thuyết tình cảm, qua đến tiểu thuyết luận đề, đến tiểu
thuyết tâm lí, sự tiến hóa đấy chứng tỏ rằng mỗi ngày ông muốn đi sâu vào
tâm hồn con người ta" [23, tr. 234]. Với tác phẩm Đoạn tuyệt của Nhất Linh,
Nguyễn Lương Ngọc khẳng định: "Cũng như phần nhiều tác phẩm của ông,

cái tiểu thuyết mới này cũng là một luận đề tiểu thuyết. Nghĩa là nó vẫn đề
xướng một vấn đề triết lí, xã hội, vẫn muốn đánh đổ một quan niệm mà hoài
bão một quan niệm khác. Ông Nhất Linh đã tự gánh vác cái trọng trách của
một nhà cải tạo xã hội, và sao ta lại chẳng dám nói đứt đi cho rồi – ông đã là
một nhà cách mệnh" [11, tr.50].

4


Sau năm 1945, có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm hơn tới các sáng tác
của ông, đặc biệt là tiểu thuyết. Có thể kể đến công trình nghiên cứu: Lược
thảo lịch sử của văn học Việt Nam tập 3 (từ giữa thế kỉ XX đến năm 1945,
1957) (Lê Quý Đôn), Bài giảng về Tự lực văn đoàn (1958) (Nguyễn Văn
Xung), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3 (1960) (Phạm Thế Ngũ),
Văn học Việt Nam 1930 – 1945, tập 1 (1961) (Bạch Năng Thi - Phan Cự Đệ),
Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho văn xuôi Việt Nam hiện đại (1997)
(Trịnh Hồ Khoa) ... đã đánh giá đúng đắn về những đóng góp mới của tiểu
thuyết Nhất Linh cho văn xuôi nước nhà. Tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh
được nghiên cứu, đánh giá chủ yếu ở giai đoạn này.
Nhận xét về đổi mới nghệ thuật của nhóm Tự lực văn đoàn có ý kiến
cho rằng: "Với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, cả một thế giới tâm tình trước kia
hé mở một cách rụt rè, e lệ, bây giờ mới được phơi bày, mổ xẻ tinh vi" [4,
tr.296] mà Nhất Linh là người có công đi đầu. Khi so sánh Nhất Linh với
Khái Hưng, Nguyễn Văn Xung phát biểu: "Nhất Linh không phải tả cảnh như
Khái Hưng nhưng để móc vào đấy những biến đổi uyển chuyển trong nhân
vật" [32, tr.65] (Bình giảng về Tự lực văn đoàn). Nhà nghiên cứu Nguyễn
Hoành Khung đã nhận xét: "Chính vì những cái đó mà nghệ thuật, kĩ thuật
tiểu thuyết Đôi bạn có tính mới mẻ khác hẳn trước, điềm tĩnh mà tinh tế,
nhiều dư vị" (Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945). Với giáo sư Phan
Cự Đệ, khi viết lời giới thiệu cho tiểu thuyết Đôi bạn đã nhận xét: "Ở tiểu

thuyết Đôi bạn luận đề xã hội được trình bày một cách nhuần nhụy, kín đáo
hơn, ngòi bút của Nhất Linh tinh tế đi sâu vào thế giới nội tâm bên trong của
con người. Tuy nhiên cả Đoạn tuyệt và Đôi bạn đều là những cuốn tiểu thuyết
lãng mạn tiến bộ, các tác phẩm trong sáng nhất trong cả quãng đời sáng tác
của Nhất Linh" [15, tr.3].
Hơn nửa thế kỉ qua, việc đánh giá tiểu thuyết Nhất Linh là một quá
trình phức tạp, nhưng ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu mới đi dần

5


đến sự xứng đáng hơn với đóng góp của ông. Các tác phẩm mà Nhất Linh để
lại ngày càng làm giàu thêm cho nền văn học nước nhà. Với tác phẩm Đôi
bạn, Nhất Linh đã mở ra bước ngoặt về việc khắc họa thời gian, không gian
nghệ thuật bằng ngôn từ trong sáng, giản dị, giàu chất thơ. Không – thời gian
đã giúp cho nhân vật thể hiện tâm trạng, cảm xúc của mình chứ không đơn
thuần chỉ là thế giới để nhân vật tồn tại nữa. Kế thừa những thành tựu nghiên
cứu của người đi trước, chúng tôi tiếp tục bổ sung, tiếp tục đi sâu nghiên cứu
để hoàn thành đề tài và khẳng định tiếng nói của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trong thời đại hiện nay, Tự lực văn đoàn cũng như văn học lãng mạn
được nghiên cứu nhiều hơn. Việc nghiên cứu Thời gian và không gian nghệ
thuật trong tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh đã cho thấy được tài năng,
đóng góp của Nhất Linh cho văn học và giá trị trong các tác phẩm của ông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu
+ Cơ sở lí luận cho việc tìm hiểu Thời gian và không gian nghệ thuật
trong tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh.
+ Khảo sát Thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Đôi

bạn của Nhất Linh.
+ Phân tích, đánh giá hiệu quả của Thời gian và không gian nghệ thuật
trong tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là toàn bộ Thời gian và không
gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi tìm hiểu tiểu thuyết Đôi bạn của Nhất Linh.
Song trong quá trình thực hiện để thấy được sự độc đáo, sự vận động có tính

6


qui luật trong tư tưởng, nghệ thuật một cách khách quan, khoa học, chúng tôi
so sánh với các tác phẩm khác của Nhất Linh, một số tác giả cùng trào lưu,
hoặc tác phẩm trong giai đoạn văn học trước…
6. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Phương pháp lịch sử - xã hội
6.2. Phương pháp phân tích
6.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
6.4. Phương pháp tổng hợp
7. Đóng góp của khóa luận
Kế thừa các thành tựu về thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết. Qua đó, tìm hiểu thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Đôi bạn, chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu,
nghiên cứu thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết nêu trên, xem nó như một thành
phần quan trọng của toàn bộ hệ thống tác phẩm của Nhất Linh
+ Kết quả của việc nghiên cứu khóa luận giúp ích cho việc học tập và
giảng dạy về tác phẩm văn học lãng mạn.

+ Có thể vận dụng kết quả nghiên cứu vào trong quá trình giảng dạy
các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong các sáng tác của Nhất Linh nói riêng
và nhóm Tự lực văn đoàn nói chung.
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, khóa luận gồm hai
chương
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CHƯƠNG 2. BIỂU HIỆN CỦA THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN
NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT ĐÔI BẠN CỦA NHẤT LINH

7


NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tác giả Nhất Linh và vị trí của tiểu thuyết Đôi bạn
1.1.1. Tác giả Nhất Linh
Nhất Linh tên khai sinh là Nguyễn Tường Tam, sinh ngày 25/7/1906 tại
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (nguyên quán của ông là làng Cẩm Phô, huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Gia đình ông có bảy anh em (sáu trai, một gái).
“Ông nội Nhất Linh là Nguyễn Tường Tiếp, làm tri huyện Cẩm Giàng, gọi là
Huyện Giám, rồi về hưu tại đây. Cha ông là Nguyễn Tường Chiếu (húy Nhu)
làm Thông phán, nên được gọi là Thông Nhu, hay Phán Nhu. Gia đình
Nguyễn Tường Tam sống ở một huyện lị nhỏ, huyện Cẩm Giàng”. Cha mất
sớm, gia đình Nhất Linh trở nên khó khăn. Do được tiếp xúc với cảnh bùn lầy
nước đọng, nghèo cùng của nông dân, điều đó đã ảnh hưởng lớn đến các sáng
tác của Nhất Linh và Thạch Lam sau này. Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở Cẩm
Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội. Bên cạnh đó, Nhất Linh cũng
từng tham gia hoạt động chính trị. Ngoài năng khiếu về hội họa, là người rất
yêu thích văn chương nên ngay từ năm 16 tuổi, ông đã có thơ đăng trên báo

Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi ông có bài "Bình Luận Văn Chương về
Truyện Kiều" trên Nam Phong tạp chí.
Nguyễn Tường Tam từng làm thư kí tại sở tài chính Hà Nội. Tại thời
điểm này ông đã viết tiểu thuyết Nho phong, tác phẩm Thôn dã, Hai chị em,
Người quay tơ.
Sau khi bỏ làm thư kí, năm 1924, ông quay lại học ngành Y và Mỹ
thuật, nhưng chỉ một năm rồi lại bỏ.
Năm 1927, ông du học Pháp rồi lấy bằng Cử nhân khoa học Giáo khoa.
Ngoài ra, ông còn tìm hiểu nghiên cứu về chính trị, ấn loát, bào chế, hội họa.
Đến năm 1930, ông về nước, cùng với hai người em của mình là Hoàng Đạo

8


và Thạch Lam xin ra tờ báo trào phúng Tiếng cười, nhưng vì chưa có giấy
phép nên bị rút.
Từ năm 1930 đến năm 1932 ông dạy ở các trường tư thục Thăng Long,
Gia Long và cơ hội làm quen với Trần Khánh Dư – Khái Hưng. Năm 1932,
Nhất Linh mua lại tờ tuần báo Phong Hóa, trở thành Giám đốc kể từ số 14.
Bắt đầu từ 22/9/1923 báo Phong hóa ra tám trang lớn, chú trọng về văn
chương, xây dựng nhân vật điển hình: Xã Xê, Lý Toét và Bang Bạch. Nhất
Linh đã chủ trương dùng tiếng cười trào phúng để đả kích các hủ tục phong
kiến, hô hào “Âu hóa”, đề cao chủ nghĩa cá nhân.
Cũng vào năm 1932, nhóm Tự Lực văn đoàn được thành lập trên
nguyên tắc "dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà. Tổ chức không
quá 10 người để không phải xin phép Nhà nước, chỉ nêu ra trong nội bộ mục
đích tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác noi theo". Về sau, tổ chức này tuyên
bố thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1934 (báo Phong Hóa số 87). Trong bài viết
“Nhìn nhận về tiểu thuyết Nhất Linh hơn nửa thế kỉ qua”, Vũ Thị Khánh Dần
khẳng định vai trò của Nhất Linh: “Nhất Linh là người khởi xướng và lãnh

đạo Tự lực văn đoàn. Sáng tác của ông thể hiện rõ rệt đường lối văn đoàn,
nhằm đổi mới văn chương và góp phần cải cách xã hội” [3, tr.1].
Với loạt bài Đi xem mũ cánh chuồn châm biếm Tổng đốc Hà Đông
Hoàng Trọng Phu, tháng 6 năm 1935, báo Phong Hóa bị đóng cửa ba tháng.
Phong Hóa tiếp tục cho in ấn các bài báo trong hơn một năm nữa, nhưng rồi
sau cũng đóng cửa vĩnh viễn. Tờ tuần báo Ngày nay kế tiếp tờ báo Phong hóa.
Tuy vậy, Nhất Linh cùng nhóm Tự Lực văn đoàn vẫn phát động phong trào
Ánh Sáng, chống lại các nhà ổ chuột ở khu lao động.
Ngoài văn chương, Nhất Linh còn hoạt động trong lĩnh vực chính trị.
Năm 1939, ông thành lập Đảng Hưng Việt, sau đổi tên là Đại Việt Dân chính
Đảng. Nhóm Tự Lực văn đoàn hoạt động chống Pháp công khai. Đến tháng 9

9


năm 1941, sau khi ra số 224, báo Ngày nay bị đóng cửa. Năm 1942, Nhất
Linh chạy sang Quảng Châu bị đi tù mấy tháng. Từ năm 1945 – 1948, ông
tiếp tục hoạt động chính trị, sau đó trong nước xảy ra một vài biến cố nên tờ
báo Ngày nay bị phân tán, ông bỏ sang Trung Quốc 4 năm.
Năm 1951, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội và tuyên bố không thuộc
đảng phái nào, cũng không hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, ông về Đà Lạt
ở ẩn. Năm 1958, ông về Sài Gòn cho ra mắt tờ báo Văn hóa ngày nay, nhưng
chỉ phát hành được 11 số thì bị đình chỉ. Ngày 11/11/1960, Nhất Linh bị
chính quyền Ngô Đình Diêm gọi ra xử vì dính líu tới cuộc đảo chính của Đại
tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Trước ngày bị xử
(8/7/1963), ông đã phản ứng bằng cách tự tử ngày 7/7/1963 để lại di chúc như
sau: "Ðời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả .... Tôi tự hủy mình
cũng như Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người
chà đạp mọi thứ tự do.” (7.7.1963 Nhất Linh, Nguyễn Tường Tam).
Nhất Linh - một con người có nhân cách, ông rất giản dị và khiêm tốn.

Ông sống rất nhiệt thành và là một con người đa năng, đa tài. Cuộc đời ông có
năm cái “sĩ” (văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nhàn sĩ) và một cái “sĩ” mà có lẽ ông hãnh
diện nhất là hàn sĩ! Ông sống nghèo, trong sạch, và rất kiêu hãnh về điều này.
Là một trong những cây bút nòng cốt của nhóm Tự Lực Văn đoàn, văn
chương của Nhất Linh là sự pha trộn hài hoà giữa văn phong lãng mạn với
những đề tài đậm màu sắc hiện thực và mang tính thời đại. Điều này thể hiện
rất rõ qua tiểu thuyết Đôi bạn.
Trong suốt mười bốn năm sáng tác, các tác phẩm mà Nhất Linh để lại
cho nền văn học Việt Nam khá lớn và nổi bật: Nho phong (1924), Người quay
tơ (1926), Gánh hàng hoa (1934 – viết cùng Khái Hưng), Đời mưa gió (1934
– viết cùng Khái Hưng), Nắng thu (1934), Đoạn tuyệt (1934 – 1935), Đi Tây
(1934 -1935), Lạnh lùng (1935 – 1936), Hai buổi chiều vàng (1934 – 1937),

10


Đôi bạn (1936 – 1937), Bướm trắng (1938 – 1939), Xóm cầu mới (1949 –
1957), Viết và đọc tiểu thuyết (1952 – 1961), Giòng song Thanh Thủy (1960 –
1961)…
Trong cuộc đời mình, Nguyễn Tường Tam say mê hoạt động chính trị
cũng như say mê sáng tác văn chương nghệ thuât. Tuy nhiên, đúng như di
chúc Nhất Linh để lại, đời ông lịch sử đã phán xét. Thế nhưng ông đã nhận ra
rằng: trong cuộc đời của mình, Nguyễn Tường Tam đã thất bại khi làm chính
trị, chỉ còn một nhà văn Nhất Linh sống mãi trên văn đàn Việt Nam. Cuộc đời
Nguyễn Tường Tam trải qua nhiều thăng trầm song ông đã đạt được những
thành công nhất định. Đặc biệt ông là người thành lập ra nhóm Tự lực văn
đoàn. Những đóng góp của ông và văn đoàn có ý nghĩa quan trọng không chỉ
đối với xã hội mà còn với văn học. Đó là những đóng góp vào việc cải tạo xã
hội, xóa bỏ những cái cũ, lạc hậu, giải phóng phụ nữ, … và phát triển phong
trào thơ mới, đổi mới văn học. “Qua Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du,

chúng ta hãnh diện thấy tiếng Việt có đủ khả năng diễn tả thơ ca (văn vần)
đến chỗ trác tuyệt, thì qua các tác phẩm của Tự lực văn đoàn mà công đầu là
Nhất Linh đã chứng tỏ rằng tiếng Việt cũng có đủ khả năng diễn đạt văn xuôi
đến chỗ hoàn mĩ.”
1.1.2. Vị trí của tiểu thuyết Đôi bạn
Đôi bạn đã đặt một cột mốc quan trọng trong tiến trình tư tưởng và
nghệ thuật của Nhất Linh. Mở ra từ tác phẩm, không phải ý hướng xã hội
nhiều tham vọng và hứa hẹn, văn chương Nhất Linh đã dấn sâu hơn vào con
đường hiện đại hóa, khi đào sâu vào ngõ ngách tâm hồn con người, mẫu
người cá nhân cá thể đang tự định vị trong xã hội thị dân hiện đại. Đôi bạn là
một truyện tình được viết với một nghệ thuật rất cao. Tác phẩm không trông
cậy vào cốt truyện li kì, tình tiết lâm li để lôi cuốn người đọc như loại tiểu
thuyết tình trước đó kiểu Tuyết hồng lệ sử, Vân lan nhật ký (Từ Trẩm Á), Lan

11


và Hữu (Nhượng Tống). Nhất Linh cũng không hề triết lí về ái tình như Lê
Văn Trương, mà ông đã tốn nhiều bút mực tả những cảm xúc, những diễn
biến tâm lí một cách tinh tế của đôi lứa trong một cuộc tình đơn sơ, câm nín
nhưng chân thật. Có thể nói tác phẩm là một thiên tâm lí ái tình xuất sắc nhất
trong văn học Việt Nam hiện đại. Đọc Đôi bạn độc giả ít nhiều bắt gặp cảm
xúc của chính mình khi dấn thân vào mối tình đầu. Nhất Linh đã tận dụng
thuật dùng cảnh để tả tình. Những cảnh rất đơn sơ nhưng khắc họa tình cảm
của nhân vật. Đôi bạn còn là một tác phẩm ghi dấu đỉnh cao đổi mới của văn
học lãng mạn Việt Nam trước 1945, giúp cho Tự lực văn đoàn từ một nhóm
phái văn nghệ trở thành diễn đàn trung tâm của cải biến văn hóa một thời
nhưng rồi từng bước, văn chương trở thành đích đến của họ và nơi chốn mà
họ thuộc về. Như là cách thức kiến tạo căn cước, và như là ký ức văn hóa về
thế hệ trí thức Tây học đầu tiên tìm lẽ hành tàng giữa giao thời Á – Âu của

dân tộc chứng nghiệm rõ rệt quá trình thuộc địa hóa đồng thời với quốc tế
hóa. Tác phẩm được Nhất Linh viết năm 1938 và hoàn thành vào năm 1939,
đây là thời điểm mà văn học lãng mạn đã thoái trào, nhường chỗ cho nền văn
học hiện thực phê phán phát triển. Tìm thấy và khẳng định cảm quan thế giới
trong văn học, bước ngoặt mà Đôi bạn tạo cho Tự lực văn đoàn và văn học
hiện đại Việt Nam là hết sức ấn tượng. Ở Đôi bạn đã mở ra khát vọng ra đi,
vươn tới thế giới hoàn toàn tự do của con người. Tác phẩm không chỉ là bức
tranh xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến những năm đầu thế kỷ qua góc
nhìn của một người trẻ. Đó còn là hành trình đoạn tuyệt với cái cũ để đến với
cái mới của tầng lớp thanh niên tiến bộ, mà tiêu biểu ở đây là Dũng. Những tư
tưởng tiến bộ ấy của Dũng còn được thể hiện rất rõ trong tình yêu (được gia
đình mai mối với Khánh – cô tiểu thư danh giá nhưng Dũng lại một mực
muốn theo đuổi Loan, người con gái đã làm trái tim chàng rung động). Đó là
khát khao tự do yêu đương, tự do mưu cầu hạnh phúc cá nhân cũng là một

12


trong những tư tưởng mà Nhất Linh muốn đề đạt. Vì lí tưởng và khát khao tự
do, Dũng đã từ bỏ tất cả, bỏ Loan ở lại. Sự ra đi không chỉ là hành động thể
hiện tư duy tiến bộ của tầng lớp thanh niên thời đại mới mà nó còn thể hiện
tính đột phá trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của Nhất Linh. Nhân vật của ông
coi trọng tình yêu nhưng không coi tình yêu là tất cả như những nhân vật
trong dòng tiểu thuyết lãng những năm 1930. Đôi bạn là sự tiếp nối hoàn hảo
của Đoạn tuyệt về mặt tư tưởng. Nhân vật Loan (Đoạn tuyệt) hay nhân vật
Dũng (Đôi bạn) đều đại diện cho tầng lớp thanh niên thế hệ mới với nhiều tư
tưởng tiến bộ mang tính cách tân. Ở cả hai tác phẩm đều thể hiện rõ nét sự
xung đột tư duy cũ - mới và quyết tâm đứng về phía cái mới của tác giả. Bản
thân Nhất Linh cũng là cử nhân được đào tạo ở Pháp, được tiếp xúc nhiều với
nền văn minh dân chủ phương Tây nên ông dùng văn chương để cổ vũ những

cách tân tư tưởng quan trọng này. Cuộc xung đột này không chỉ xảy ra trong
thời điểm mà Nhất Linh đang sống mà dường như nó là vấn đề của mọi thời
đại. Bởi vì thế, câu chuyện về các tác giả trong Tự lực văn đoàn và các sáng
tác của họ dường như luôn còn mới mẻ.
1.2. Thời gian và không gian nghệ thuật
1.2.1. Thời gian nghệ thuật
1.2.1.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật
Trong một tác phẩm nghệ thuật con người luôn tồn tại, vận động trong
không gian và thời gian. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thời gian nghệ
thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của
nó. Cũng như không gian nghệ thuật sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ
thuật bao giờ cũng có một điểm nhìn nhất định. Và cái được trần thuật bao giờ
cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp
của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng
ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật.” [6, tr.322]. “Khác với thời gian khách

13


quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược,
quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một
khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát lại vô tận.
Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp đi
lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết,
gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác... tạo nên nhịp điệu tác phẩm” [6,
tr.322]. Như vậy, thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong của hình
tượng nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật có thể nhanh (khi nhà văn miêu tả
diễn biến các sự kiện) hoặc chậm (khi nhà văn miêu tả chi tiết thiên nhiên, tạo
vật, …), thậm chí có lúc thời gian như ngưng đọng.
Thông qua thời gian nghệ thuật, con người có những cảm nhận khác

nhau về thế giới. Có những tác phẩm thời gian gắn liền với các sự kiện, biến
cố như cổ tích; có thể dựa theo dòng tâm lí nhân vật (tiểu thuyết). Có tác
phẩm chỉ nói đến thời gian quá khứ, tương lai, có tác phẩm thời gian lại trải
đều trong các sự kiện, hoặc gắn với sự vận động của thời đại, lịch sử. Ở mỗi
thời kì con người lại có sự cảm thụ khác nhau về thời gian, đồng thời cho thấy
sự cảm thụ của tác giả về sự tồn tại của con người trong thế giới. Trong văn
học, thời gian là một chi tiết nghệ thuật để nhà văn miêu tả đời sống, con
người, thông qua đó cho thấy cách thức tư duy của tác giả. Bằng những cách
thức khác nhau văn học lại có những kiểu thời gian nghệ thuật khác nhau.
Trong công trình Thi pháp thơ Tố Hữu, Giáo sư Trần Đình Sử đã khẳng
định: “thế giới nghệ thuật trong văn học không phải giản đơn chỉ là quan điểm
của tác giả về thời gian mà là một hình tượng thời gian sinh động, gợi cảm, là
sự cảm thụ, ý thức về thời gian được dùng làm hình thức nghệ thuật để phản
ánh hiện thực, tổ chức tác phẩm” [27, tr.190]. Thời gian nghệ thuật là phạm
trù của hình thức nghệ thuật, có thể coi nó là cơ sở thuận tiện cho việc nghiên
cứu, phân tích tác phẩm văn học, đặc biệt cho thấy tài năng miêu tả diễn biến
tâm lí nhân vật của nhà văn.

14


1.2.1.2. Cấu trúc và biểu hiện của thời gian nghệ thuật
a, Thời gian được trần thuật
Thời gian được trần thuật là thời gian của các sự kiện được miêu tả
trong tác phẩm nghệ thuật. Thời gian hiện lên qua sự vận động của tự nhiên
(các buổi trong ngày, các mùa trong năm), lề lối sinh hoạt (các ngày lễ hội,
các phiên chợ…), qua các giai đoạn trong đời người (sinh, lão, bệnh, tử),
trong đời sống chính trị. Những biến đổi gợi ra những viễn cảnh, gây chờ đợi
càng tạo thêm cảm xúc thời gian nhanh chậm. Khi sự kiện xong xuôi, không
có cơ hội phát triển, không gây chờ đợi thì thời gian dừng lại.

Nếu thời gian hiện thực tính bằng lịch, niên đại, … thì thời gian tâm
tưởng được tính bằng các sự kiện, các biến đổi (biến cố). Thời gian nghệ thuật
được cảm nhận bằng con tim, bằng cảm giác, cảm xúc chủ quan của chủ thể,
đối tượng tiếp nhận. Khi vui sướng, hạnh phúc con người cảm thấy thời gian
thật ngắn ngủi:
“Ngày vui ngắn chẳng tày gang
Trông ra ác đã nhậm gương non đoài.”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Hay khi nhớ nhung, chờ đợi, thì thời gian dài đằng đẵng:
“Nhưng rồi người khách tình xuân ấy
Đi biệt không về với bến sông
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi
Mấy lần cô gái mỏi mòn trông.”
(Cô lái đò – Nguyễn Bính)
Vì thế, không ít nhà thơ, nhà văn của chúng ta rất sợ thời gian qua
nhanh mà chưa được tận hưởng trọn vẹn vị ngọt cuộc đời. Tiêu biểu,
Xuân Diệu là người luôn khát khao được yêu, được đắm mình trong tình yêu
nên ông đã từng lo sợ, thảng thốt trước cảm giác ngắn ngủi của thời gian:

15


“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Em vui đi, ráng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi, tình non sắp già rồi…”
(Giục giã)
Đó là trong thơ trữ tình. Trong văn xuôi tự sự thời gian tâm lí hiện lên

qua những cung bậc cảm xúc của con người. Quá khứ hay tương lai đều hiện
lên trong cái thực tại bởi quá khứ là tiền đề để dẫn đến kết quả của ngày hôm
nay và cái hôm nay sẽ dự báo ngày mai. Trong Đôi bạn của Nhất Linh, thời
gian tâm lí hiện lên rất rõ rệt qua các nhân vật Dũng, Loan… Chúng ta thấy
khoảng thời gian Dũng, Loan và các bạn sang nhà Cận chơi, họ vui vẻ biết
chừng nào “Từ sáng, Loan làm những việc lặt vặt ấy giúp cụ Chánh một cách
vui vẻ. Nàng tự nhiên thấy sung sướng vẩn vơ. Đời đối với nàng lúc đó đẹp
quá, nên chưa chi nàng đã thấy cái lo sợ ngày chóng hết.” [17, tr.34]. Có thể
nói, đó là chuỗi ngày êm đềm, vui vẻ, trong sáng đối với Dũng và Loan. Hay
thời gian tương lai tươi đẹp cũng là biểu hiện của thời gian được trần thuật, ở
đó tác giả đã gửi gắm ước mơ, niềm tin vào tương lai phía trước.
Trong Đoạn tuyệt, chi tiết Loan đồng ý lấy Thân là chi tiết nghệ thuật
biểu hiện cho thời gian tương lai, ở đây là một thời gian tương lai bế tắc, sầu
muộn, chán chường của Loan. Bên cạnh đó, thời gian được trần thuật còn có
thể là cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Khi thời gian quá khứ được miêu tả
đan cài với thời hiện tại, đó là thời gian hoài niệm. Chắc hẳn đó là một quá
khứ tươi đẹp nên con người mới nuối tiếc, mới hoài niệm, muốn níu kéo quá
khứ và mong muốn giữ lại nó ở thì hiện tại. Còn ở thời hiện tại, cuộc sống của
con người không như mong muốn vì vậy dự báo cho bạn đọc thấy một tương

16


lai ảm đạm, lu mờ. Tuy nhiên, có những lúc thời gian hồi tưởng lại là những
dĩ vãng đau buồn, bế tắc và thời gian hiện tại lại tươi đẹp. Những đau khổ
trong quá khứ sẽ khiến con người cố gắng hết mình để có được cuộc sống tốt
đẹp hơn trong tương lai. Ngoài ra, thời gian đồng hiện cũng được điểm qua.
Quá khứ, hiện tại, tương lai được miêu tả lồng ghép và cùng hiện lên ở hiện
tại. Loại thời gian nghệ thuật này đã tạo nên tính phức điệu của tác phẩm. Ở
loại thời gian này có mối quan hệ chằng chịt, lộn xộn với nhau làm cho người

đọc khó có thể cảm nhận được nó một cách toàn diện.
Trong văn chương, thời gian có thể hiện lên qua các trạng từ chỉ thời
gian “ngày xửa ngày xưa”, “dạo ấy”, “cách đây không lâu” cùng với những từ
ngữ chỉ các đoạn thời gian, cách tính thời gian hay hiện lên qua các dấu hiệu
chỉ thời gian (đời người, các mùa, …). Đó không chỉ là những cách biểu thị
thời gian, mà còn là cách hiểu thời gian của tác giả, cho thấy khả năng sáng
tạo của nhà văn.
Thời gian nghệ thuật có nhiều màu sắc, cách biểu hiện khác nhau tùy
thuộc vào thể loại, thời kì văn học và quan niệm của tác giả.
b, Thời gian trần thuật
“Thời gian trần thuật là thời gian của người kể, của sự kể… Nó có thể
sắp xếp lại trật tự thời gian của sự việc vào trật tự trước sau của nó. Nó có thể
đem cái xảy ra sau kể trước và ngược lại, đem cái xảy ra trước kể sau” [29,
tr.65]. Thông qua thời gian trần thuật cho thấy khả năng sáng tạo nghệ thuật
của người nghệ sĩ. Thời gian không chỉ là một cái phông nền để nhân vật hiện
lên, chính thời gian đã là một đề tài lớn của văn học để các tác giả thỏa sức
sáng tác. Tác giả có thể miêu tả thời gian dài hay ngắn, hoặc cũng có thể chỉ
tái hiện lại những khoảnh khắc nhất định trong những tháng năm không thể
quên. Các tác giả cảm nhận những sự kiện, những biến cố trong cuộc sống rồi
đưa vào văn học tạo thành thời gian trần thuật. Thời gian được trần thuật là

17


một hiện tượng vô hạn, liên tục, nhưng thời gian trần thuật thì có mở đầu, có
kết thúc. Người ta có thể miêu tả thời gian đúng như tiến trình tự nhiên khách
quan của nó, nhưng người ta cũng có thể miêu tả các đoạn thời gian cách
quãng (bỏ qua những khoảng cách lớn về thời gian giữa các lớp, các màn kịch
hoặc giữa các chương tiểu thuyết). Sự khác nhau giữa thời gian nghệ thuật
trong văn học với thời gian thực tại (vật lí) ở chỗ thời gian nghệ thuật là cảm

nhận của con người, tùy vào tâm trạng con người mà thời gian nhanh hay
chậm. Thời gian nghệ thuật không chỉ được tạo thành bởi các quan hệ các sự
kiện, các đoạn thời gian của sự kiện mà còn được tạo thành bởi sự tương quan
của thời gian trần thuật.
Thời gian trần thuật không có nhịp độ riêng: nhanh, chậm hay ngừng
trôi đó chỉ là cảm giác chủ quan của con người. Theo Lê Thị Tuyết Hạnh:
“Truyện xét về mặt sự kiện bao giờ cũng được xem là kết thúc, là đã thuộc về
quá khứ so với hành vi kể (hành vi trần thuật). Do vậy, truyện bao giờ cũng là
những truyện được kể lại. Rõ ràng phải có một người kể, một thời gian kể tồn
tại để làm nên truyện. Thời gian người kể thực hiện hành vi kể chuyện, kể lại
câu chuyện cho tất cả các thính giả hoặc độc giả của mình (tức là thời gian
nói hoặc viết)” [7; tr.36]. Vì vậy, thời gian trần thuật không đảo ngược chỉ có
một thời gian ở hiện tại, đó là thời gian nhà văn bỏ ra kể một câu chuyện mà
bản thân sự kể chuyện đã là một nghệ thuật. Tuy việc trần thuật là không có
nhịp độ, nhưng trong từng tác phẩm cụ thể, ta cũng dễ dàng nhận ra nhịp độ
thời gian có lúc nhanh lúc chậm, lúc đều đặn, êm đềm hay biến động căng
thẳng. Thời gian trong văn chương không giống với thời gian khách quan
vì nó được chi phối bởi chủ quan của tác giả cho nên nó có thể được ép mỏng
hay kéo căng thời gian ra tuỳ theo dụng ý nghệ thuật của mình. Có thể là một
sự kiện nhỏ xảy ra trong một ngày nhưng nhà văn có thể miêu tả và kéo dài
thời gian của sự kiện đó ra hàng chục trang giấy trong vài ba chương. Và

18


ngược lại, có khi biến cố cả cuộc đời của nhân vật mà tác giả chỉ dồn nén
trong một thời gian ngắn. Việc dồn nén hay kéo căng thời gian sự kiện trong
văn chương tùy theo ý muốn chủ quan của tác giả. Điều đó mang lại một
ý nghĩa thẩm mĩ, tạo cho bạn đọc có những cảm giác thật như chính bản thân
mình cũng đang sống trong tác phẩm.

Nhịp độ thời gian nhân vật thường phù hợp với nhịp điệu thời gian sự
kiện. Khi thời gian sự kiện gấp khúc, dồn dập thì thời gian hành động của
nhân vật luôn hối hả khẩn trương. Chẳng hạn, trong Vợ Nhặt của Kim Lân: sự
kiện nạn đói năm 1945 ào ạt tràn đến đã làm thay đổi tính cách của các nhân
vật. Chỉ với bốn bát bánh đúc và những lời đùa cợt, bông đùa mà Tràng và
người phụ nữ không tên đã trở thành vợ chồng. Qua những chi tiết đó, đã cho
chúng ta thấy một xã hội nghèo nàn, đói rách … Ngược lại, khi sự kiện trì
chậm thì nhịp điệu thời gian cũng thong thả và thư thái. Thời gian nhân vật
trong một tác phẩm là rất quan trọng, nó làm cho người đọc ý thức được sự
tồn tại của nhân vật.
Sự kết hợp giữa thời gian được trần thuật và thời gian trần thuật đã làm
nên chỉnh thể thời gian nghệ thuật trong tác phầm. Thời gian trần thuật chịu
sự chi phối của tác giả, nó chỉ có thể ở hiện tại chứ không thể đảo ngược
được. Thời gian trần thuật thường ngắn hơn thời gian được trần thuật. Tuy
nhiên có lúc thời gian được trần thuật ít hơn thời gian trần thuật. Đó là những
lúc nhà văn dừng lại miêu tả thiên nhiên, tâm trạng con người, thời gian
dường như ngừng trôi nhưng thời gian kể chuyện thì cứ trôi đi. Nó cho thấy
điểm nhìn của tác giả, có hiệu lực thẩm mĩ riêng. Điểm nhìn ở đây là cách lựa
chọn thời gian phù hợp của tác giả khi kể chuyện. Điểm nhìn của tác giả
(người kể) vừa mang tính chủ quan lại vừa mang tính khách quan. Vì vậy,
người kể phải sắp xếp bố cục các sự kiện đó sao cho phù hợp nhưng ít nhiều
có liên quan đến quan điểm lập trường chính trị xã hội của nhà văn, ngay từ

19


×