Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Pháp luật về thừa phát lại từ thực tiễn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.73 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔ ĐÌNH TỈNH

PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔ ĐÌNH TỈNH

PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH BÌNH

Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,


dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình. Các kết quả được
trình bày trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
khoa học nào khác. Các số liệu trích dẫn trong Luận văn được trích từ các nguồn
thông tin hợp pháp, chính xác và trung thực.
Tôi đã hoàn thành các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Học viện Khoa học xã hội – Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam.
Tôi xin cam đoan và chịu hoàn toàn trách nhiệm với nội dung cam đoan trên.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TÔ ĐÌNH TỈNH


LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Pháp luật về Thừa phát lại từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” đã được
hoàn thành là kết quả học tập, tổng hợp, tìm hiểu, nghiên cứu trong hai năm học cao
học tại Học viện Khoa học Xã hội và sự hướng dẫn, hỗ trợ của người hướng dẫn
khoa học.
Tôi xin được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy, các cô là các giáo
sư, phó giáo sư, tiến sĩ đã tham gia giảng dạy lớp cao học khoá 2017 - 2018, đặc
biệt xin cảm ơn TS. Nguyễn Thanh Bình - Cục trưởng Cục Công tác phía Nam - Bộ
Tư pháp. Thầy đã nhiệt tình, tâm huyết, trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi
hoàn thành Luận văn này.
Nhân dịp này tôi xin được chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Hội
đồng chấm luận văn; cảm ơn Học viện khoa học xã hội đã giúp đỡ tôi hoàn thành
Lận văn này.
Học viên

TÔ ĐÌNH TỈNH



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.…………………………………………………………………...1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI…..…..7
1.1. Quá trình hình thành, phát triển của chế định Thừa phát lại................................................. 7

1.2. Khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn, đặc điểm, mối quan hệ của Thừa phát lại......20
1.3. Pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay ……………………………..30

Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA
PHÁT LẠI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI......................................................................36
2.1. Tổng quan về tỉnh Đồng Nai.......................................................................... ..36
2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại tại tỉnh Đồng Nai từ khi
thí điểm đến nay.................................................................................................................................. 37
2.3. Nhận xét, đánh giá về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại tại tỉnh Đồng Nai
từ khi thí điểm đến nay…..………………..…………………………….....................52
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG
CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC, TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI …………….62
3.1. Quan điểm phát triển, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Thừa
phát lại................................................................................................................................. 62

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả về tổ chức và hoạt
động của Thừa phát lại..............................................................................................65
KẾT LUẬN............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THADS: Thi hành án dân sự.

TPL: Thừa phát lại.


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
2.1. Bảng tổng hợp kết quả hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 - 2019.
2.2. Biểu đồ tỉ trọng doanh thu giữa các loại hoạt động của các Văn phòng Thừa
phát lại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
2.3. Biểu đồ về tình hình hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định Thừa phát lại (TPL) xuất hiện trên thế giới hơn 100 năm, ở khu vực
Châu Âu, bắt nguồn từ nước Pháp và hiện đang phát triển ở nhiều quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, TPL được xuất hiện cùng với việc Vua Tự
Đức ký Hòa ước ngày 05/6/1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ. Từ đó, Pháp đã
trực tiếp áp đặt chế độ cai trị thực dân, áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ và coi
6 tỉnh Nam kỳ như một hạt của Pháp quốc. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
chế định TPL tiếp tục được duy trì cho đến năm 1950. Ở miền Nam Việt Nam, chế
định TPL cũng tồn tại cho tới năm 1975, khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước.
Để thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 có chủ trương “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa hành viên),
trước mắt có thể thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết,
đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 14/11/2008 Quốc hội tiếp tục ban hành Nghị

quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong đó giao Chính
phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định TPL tại một số địa phương.
Tiếp đó Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009
để thực hiện thí điểm về TPL lại thành phố Hồ Chí Minh từ 01/7/2009 đến ngày
01/7/2012. Sau thời gian triển khai thí điểm, ngày 23/11/2012, Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định TPL
và giao Chính phủ tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế định TPL tại một số tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đến năm 2015.
Tính đến ngày 31/12/2015, sau 6 năm thí điểm, chế định TPL đã chứng tỏ được
tính đúng đắn và được xã hội chấp nhận, đặc biệt là ở các địa bàn kinh tế - xã hội phát
triển, cả nước có 13 địa phương được giao thực hiện thí điểm và đã thành lập

1


được 53 Văn phòng TPL và đã bổ nhiệm được 245 TPL.
Từ những kết quả đạt được trong thời gian thực hiện thí điểm đã chứng tỏ
việc thực hiện chủ trương phát triển chế định TPL ở Việt Nam là cần thiết, đúng
đắn, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, ngày 26/11/2015, Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 107/2015/QH13 để thực hiện chính thức TPL trên cả nước kể từ
ngày 01/01/2016. Các tổ chức TPL được thành lập theo Nghị quyết số
24/2008/QH12 và Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội được tiếp tục hoạt
động theo quy định của Nghị quyết này cho đến khi Quốc hội ban hành Luật TPL.
Tính đến ngày 31/12/2018, cả nước đã thành lập 82 Văn phòng TPL. Tại tỉnh Đồng
Nai, đến ngày 31/7/2019 có 05 Văn phòng TPL đã thành lập và đang hoạt động.
Mới đây, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày
08/01/2020 về tổ chức và hoạt động của TPL (có hiệu lực từ ngày 24/02/2020) đã
tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho TPL phát triển.
Như vậy, từ chủ trương của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực
xây dựng, hoàn thiện pháp luật để tạo hành lang pháp lý cho TPL ở Việt Nam phát

triển. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực mới, trong quá trình địa phương tổ chức thực hiện
cũng còn gặp nhiều khó khăn, các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt
động của TPL còn nhiều vướng mắc, bất cập, chưa thống nhất, đồng bộ, chưa phù
hợp với thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện pháp luật.
Với mong muốn được góp phần vận dụng kiến thức pháp luật và hiểu biết
thực tiễn của mình vào nghiên cứu khoa học pháp lý, thông qua nghiên cứu lý luận
và hoạt động thực tiễn về TPL ở Việt Nam nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng
nhằm hoàn thiện pháp luật về TPL, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của TPL
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã thôi thúc tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật
về TPL từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trên tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, chế định TPL đã được thí điểm và chính thức cho thực
hiện trong phạm vi cả nước từ 01/01/2016; trước và trong thời gian trên đã có một số

2


công trình nghiên cứu liên quan đến chế định TPL, tiêu biểu như:
- Tổ chức Thừa phát lại, Nguyễn Đức Chính (chủ biên), NXB. Tư pháp, Hà
Nội, 2006; đây là kết quả của công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước được
Bộ Tư pháp giao cho Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu thực hiện.
Công trình nghiên cứu đã khái quát lại lịch sử chế định TPL ở Việt Nam và phân
tích một số mô hình về TPL ở một số nước trên thế giới.
- Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, luận văn thạc sĩ luật học, Phạm Phúc
Thịnh, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; nội dung chính của đề tài nghiên cứu về lịch
sử pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa
hoạt động THADS, vị trí, vai trò, nhiệm vụ của TPL trong họa động tổ chức
thi hành án.
- Thừa phát lại - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học,

Nguyễn Anh Thư, Đại học Luật Hà Nội, 2014; Luận văn đi sâu nghiên cứu về lý
luận và một số vấn đề liên quan đến TPL phát sinh từ thực tiễn thực hiện thí điểm
TPL ở Việt Nam.
- Số chuyên đề tháng 11/2011, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp;
- Số chuyên đề chế định TPL năm 2014, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ
Tư pháp;
- Thí điểm mô hình TPL thành phố Hồ Chí Minh - Những vấn đề đặt ra/Bùi
Thị Huyền/Tạp chí Luật học, số 7/2011;
- TPL bước đầu đã đi vào lòng dân và xã hội, là người trợ thủ đắc lực cho
công tác thi hành án dân sự (THADS) và công tác tư pháp/Hà Hùng Cường/Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số 10/2012;
- Quản lý nhà nước về TPL - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn
thạc sĩ luật học, Nguyễn Đức Biên, Học viện Khoa học Xã hội, 2016; Luận văn đi
sâu, tập trung nghiên cứu pháp luật về quản lý nhà nước đối với TPL và phân tích,
đánh giá thực tiễn, tình hình thực hiện công tác quản lý nhà nước về TPL để đưa ra
các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với TPL.
- Xu hướng xã hội hóa THADS từ việc thí điểm hoạt động TPL tại TP. Hồ

3


Chí Minh/Nguyễn Công Bình/Tạp chí Luật học, số 6/2012…
Như vậy, hiện nay đã có những công trình, đề tài, số chuyên đề, bài viết về
chế định TPL ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động TPL trong
bối cảnh thực hiện thí điểm, mới thực hiện chính thức chế định này trên cơ sở pháp
luật hiện hành (chủ yếu là trong giai đoạn thí điểm – trước ngày 1/1/2016), về giá trị
lịch sử, quan điểm chính trị - pháp lý về chế định TPL; nhận diện pháp lý về TPL,
mô hình tổ chức và hoạt động của TPL; những đặc trưng của nghề TPL; về quản lý
nhà nước đối với TPL. Tuy nhiên, qua nghiên cứu nhận thấy, chưa có các công trình
nào đề cập vừa mang tính tổng thể, vừa mang tính cụ thể liên quan đến tổ chức và

hoạt động của TPL từ thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề
tài “Pháp luật về Thừa phát lại từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ
luật học để nghiên cứu pháp luật, tổng kết tình hình thực tiễn về thực hiện chế định
TPL tại tỉnh Đồng Nai; từ đó cung cấp những luận cứ, luận chứng khoa học cho
việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về TPL nói chung và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả về tổ chức và hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng là cần
thiết và không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về TPL, xác định ro
cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn xây dựng và phát triển pháp luật về TPL ở Việt
Nam nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng; phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt
động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; đánh giá ưu điểm, kết quả đạt được,
những hạn, bất cấp để từ đó đưa ra các khuyến nghị khoa học nhằm góp phần vào
việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật; qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý nhà nước, tổ chức và hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói
riêng và ở Việt Nam nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Với nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu trên, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
các vấn đề về tổ chức và hoạt động của TPL, cụ thể như sau:

4


- Làm ro cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về TPL;
- Phân tích thực trạng thực hiện chế định TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
tổ chức, hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
4.2. Về phạm vi nghiên cứu:
Thứ nhất, về nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật,

những nguyên tắc, quy định về tổ chức và hoạt động của TPL ở Việt Nam nói
chung, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng và những thuận lợi, khó khăn về tổ
chức và hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Thứ hai, về thời gian, địa điểm nghiên cứu, các số liệu, thông tin trình bày
trong luận văn được thu thập trong thời gian từ năm 2013 2015 đến ngày
31/12/2019 và có cập nhật, bổ sung thêm một số thông tin đến tháng 02 năm 2020
tại tỉnh Đồng Nai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng, lịch sử và các phương pháp khác như: Khảo sát, tổng hợp, phân
tích, thống kê pháp luật về tổ chức và hoạt động của TPL trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai. Trong từng điều kiện, từng trường hợp, hoàn cảnh cụ thể, tác giả sử dụng các
phương pháp này chủ yếu như sau:
Một là, kết hợp phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch
sử và phương pháp phân tích: Tác giả sẽ sử dụng tập trung tại chương 1, nhằm mục
đích tìm hiểu về nguồn gốc, vị trí pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, các mối quan hệ
chủ yếu của TPL theo quy định của pháp luật Việt Nam, có tham khảo kinh nghiệm
ở một số quốc gia trên thế giới.
Hai là, phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp này
ở chương 2 để làm ro các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức, hoạt động
của TPL ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng.
Ba là, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng tại chương
2, chương 3 để đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về TPL, nâng cao hiệu lực, hiệu

5


quả về tổ chức và hoạt động của TPL ở Việt Nam và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, làm ro thêm các vấn đề lý luận pháp luật về Thừa phát lại;

phân tích, đánh giá một cách đầy đủ và hệ thống đối với thực trạng pháp luật về
Thừa phát lại ở Việt Nam, qua đó, làm ro cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn của
lĩnh vực pháp luật này.
Về mặt thực tiễn, những đề xuất, kiến nghị được đưa ra trong luận án được
xây dựng trên cơ sở lý luận chặt chẽ và có kiểm chứng thực tế nên có thể được sử
dụng như một nguồn tham khảo tin cậy trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả hoạt động TPL ở Việt Nam nói chung, tỉnh Đồng Nai nói
riêng trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận
văn được chia thành 03 chương gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp luật về tổ chức và hoạt động của TPL.
Chương 2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của TPL tại tỉnh Đồng Nai.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả về quản lý nhà nước, tổ chức và hoạt động của TPL tại tỉnh Đồng Nai.

6


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI
1.1. Quá trình hình thành, phát triển của Thừa phát lại ở Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, việc xét xử do các quan lại phụ trách
các địa phương tiến hành và chưa có chức danh TPL; tuy nhiên, thực hiện những
công việc giúp cho các quan lại xử án xét ở góc độ nào đó các công việc này gần
giống với một số công việc mà TPL sau này được làm như: Truyền đạt các khẩu
hiệu, công văn, giấy tờ, chuẩn bị phiên tòa, thông báo việc thi hành án…
TPL xuất hiện ở Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc, bắt đầu từ việc Vua Tự

Đức ký Hòa ước ngày 05/06/1862 nhượng cho Pháp 6 tỉnh Nam kỳ, từ đó, Pháp trực
tiếp áp đặt chế độ cai trị thực dân và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ. Sau
này, triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước ngày 06/6/1884 với Pháp, đưa nước ta trở
thành một nước đặt dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp, chia thành ba vùng là Bắc
kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Ở Bắc kỳ và Trung kỳ, nhà Nguyễn vẫn giữ quyền nội trị,
quyền tư pháp vẫn thuộc về hoàng đế mặc dù nó đã bị hạn chế đi rất nhiều bởi sự
kiểm soát của đại diện chính quyền Pháp [16, tr.9-10]. Mặc dù chưa có chế định
TPL, nhưng những công việc của TPL như trát hầu tòa, truyền phiếu… do các Môn
lại, Môn vệ, Nha lại đảm nhiệm, chứng tỏ đã dần dần hình thành một lực lượng
chuyên làm nhiệm vụ thi hành án. Ở Nam kỳ, tổ chức bộ máy nhà nước và hệ thống
tư pháp được tổ chức giống mô hình ở Pháp và xuất hiện chức danh TPL gần đầy đủ
chức năng như ngày nay.
Tổ chức và hoạt động của TPL được chính thức ghi nhận trong “Bộ Dân sự
tố tụng Nam Việt” ban hành kèm theo Nghị định ngày 16/3/1910 (áp dụng tại khu
vực Nam kỳ); “Bộ Dân luật Trung năm 1936-1939”, ban hành kèm bộ Hộ sự,
Thương sự tố tụng Trung Việt năm 1942 (áp dụng tại khu vực Trung kỳ); “Bộ Dân
luật Bắc năm 1931”, ban hành kèm Bộ Dân sự tố tụng Bắc năm 1917 (áp dụng tại
khu vực Bắc kỳ).

7


Tuy được quy định ở các Bộ luật khác nhau ở ba miền, tên gọi ở mỗi miền
khác nhau như có nơi gọi là Chưởng tòa (miền Bắc), Mo tòa (miền Trung), TPL
(miền Nam) và chúng đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp “Huissier”, dịch ra tiếng Việt
đều có nghĩa là Chưởng tòa [16, tr.10]. Chế định TPL ở các bộ luật nói trên hầu hết
đều theo khuôn mẫu của mô hình TPL tại Pháp được quy định trong Bộ luật Dân sự
Pháp năm 1804 và Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp năm 1807. Công việc của TPL
không được xem như một nghề, không có cơ quan quản lý về tổ chức và hoạt động.
TPL không phải là thành phần của chính quyền mà chỉ là người được nhà nước giao

thực hiện một số công việc mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động xét xử của cơ quan
tư pháp.
Từ khi được ghi nhận chính thức trong văn bản pháp lý, chức danh TPL do
Tổng trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm bằng nghị định, có định ro trụ sở của TPL và
TPL chỉ được thi hành chức trách trong phạm vi quản hạt của Tòa sơ thẩm dân sự.
Ở những nơi chưa có TPL thì nhân viên hành chính hoặc cán bộ Tòa án được kiêm
nhiệm công việc của TPL. Trong quá trình hoạt động, TPL chịu sự kiểm soát của
Hội đồng TPL trong phạm vi quản hạt và chịu sự giám sát của Chưởng lý Tòa
thượng thẩm. Ngoài ra, trên bình diện cả nước, hoạt động của TPL còn chịu sự kiểm
tra, giám sát của Tổng trưởng Bộ Tư pháp. Tùy từng mức độ vi phạm có thể bị xử
phạt cảnh cáo, khiển trách nhẹ, khiển trách nặng, huyền chức, thay thế, triệu hồi. Để
trợ giúp cho công việc của mình, TPL có quyền nhận một thư ký. Thư ký TPL cũng
phải đáp ứng những yêu cầu hết sức nghiêm ngặt như: Đủ tuổi quy định (thường là
25 tuổi trở lên), có thời gian thực tập hai năm ở một văn phòng chưởng khế, luật sư
hay TPL, đặc biệt phải trải qua kỳ thi do Bộ Tư pháp tổ chức. Nhiệm vụ của TPL
gồm các công việc chính sau đây:
Một là, làm các truyền phiếu (tống đạt các giấy tờ của tòa án): Tất cả các
thông báo của toà án cho các đương sự và người có liên quan đến một vụ tranh chấp
trước toà án đều giao cho TPL tống đạt. Các truyền phiếu phổ biến nhất mà TPL
tống đạt là các trát đòi (giấy mời, giấy triệu tập) bị đơn, nguyên đơn, bị cáo dân sự
ra hầu toà (có mặt tại toà vào ngày xét xử vụ án). Các giấy này do phòng lục sự

8


(tương tự như thư ký tòa) Toà án lập và giao cho TPL tống đạt tận tay đương sự
hoặc nơi cư trú đương sự, lấy chữ ký rồi hoàn lại để lưu hồ sơ và bản sao thì giao
cho đương sự. Việc tống đạt này phải được làm theo thủ tục quy định trong các bộ
luật tố tụng và kết quả tống đạt phải ghi nhận đầy đủ để xác nhận đương sự có nhận
được hay không để làm cơ sở cho việc toà án có xét xử vắng mặt hay không.

Ngoài các truyền phiếu phổ biến này, TPL còn tống đạt các loại truyền phiếu
khác như:
- Trát đòi nhân chứng (giấy mời, giấy triệu tập).
- Trát đòi trách nhiệm dân sự (người có liên quan trách nhiệm dân sự)
- Trát đòi giám định viên.
- Tống đạt các quyết định tư pháp .
Ngoài các trát đòi của toà án,TPL còn truyền các lệnh khác liên quan đến
việc giải quyết các vụ tranh tụng như:
- Sai áp bảo toàn (kê biên tài sản) tức là sai áp tài sản của một toà án để đảm
bảo số nợ mà đương sự có trách nhiệm thanh toán.
- Sai áp chế chỉ, hay còn gọi là sai áp chi phó, tức là kê biên một tài vật, một
số tiền của con nợ do một người thứ ba nắm giữ nhằm ngăn cản người thứ 3 trao tài
vật hoặc số tiền cho con nợ, để bảo đảm số nợ mà con nợ phải trả cho chủ`nợ về sau
này không bị tẩu tán.
- Giải trừ sự sai áp này (hủy bỏ việc kê biên) khi hai bên đã tự giải quyết với
nhau hoặc do lệnh của toà án.
Hai là, làm các công việc lục tống (lập các vi bằng, chứng thư về các sự kiện
hành vi nhằm làm chứng cứ): Đây là công việc mà TPL làm theo yêu cầu của toà án
(lục tống về tư pháp) hoặc theo yêu cầu của cá nhân, của tổ chức xã hội, công ty
hoặc đơn vị hành chính (lục tống không thuộc tư pháp) nhằm thông báo, đốc thúc,
sưu tầm, lập vi bằng, công chứng các hành vi xâm phạm đến quyền lợi để xác định

9


các sự kiện thực tế, các sự biểu lộ ý chí của đương tụng (các đương sự và những
người liên quan khác trong một vụ án) hoặc cá nhân trong các mối quan hệ xã hội
để xác lập các chứng cứ dùng làm cơ sở để giải quyết các tranh chấp... Các công
việc này rất đa dạng và có tầm quan trọng đặc biệt trong việc cung cấp chứng cứ.
Các công việc này có thể phân làm 3 loại:

- Thứ nhất, là cáo tri (thông cáo) các ý định và các hành vi đã được thực
hiện đối với một đối tượng như thông báo cho người thuê nhà biết ý định chấm dứt
hợp đồng khi hết hạn, thông báo cho người thuê biết ý định của chủ nhà để người
thuê sử dụng quyền tiên mãi (ưu tiên) hoặc sai áp chi phó cho con nợ, đốc thúc con
nợ phải trả nợ.
- Thứ hai, là sưu tầm xác định các sự kiện, bằng chứng để đối chứng trước
toà, như sưu tầm tài liệu tại các cơ quan, chất vấn lấy lời khai của nhân chứng ...
- Thứ ba, là vi chứng các sự kiện thực tế như làm vi bằng công chứng (lập vi
bằng để ghi nhận - cách hiểu khác với công chứng hiện nay) về các thiệt hại về tài
sản, vi bằng công chứng về việc lấn chiếm đất đai... Luật pháp công nhận cho các
chứng thư của TPL có giá trị của công chứng thư có nghĩa là các chứng thư do TPL
lập đương nhiên được Toà án tin tưởng, sử dụng làm chứng cứ trong việc giải quyết
các vụ án và các chứng thư này không thể bị phủ nhận bởi bất cứ chứng cứ nào
khác.
Chứng thư do TPL lập chỉ có thể không có hiệu lực khi có người muốn phủ
nhận giá trị của chứng thư bằng cách kiện TPL về tội giả mạo chứng thư. Trong
trường hợp này, Toà án sẽ cho tiến hành điều tra, và chỉ khi nào cuộc điều tra xác
định chứng thư có giả mạo thì TPL sẽ bị truy tố và chứng thư này sẽ vô hiệu. Ngược
lại, nếu cuộc điều tra cho thấy là không có giả mạo thì chứng thư vẫn có hiệu lực và
người kiện về việc chứng thư giả mạo sẽ bị truy tố tội vu khống TPL.

10


Ba là, phát mại tài sản, trực tiếp thi hành các bản án, quyết định của tòa án.
Đây là công tác thi hành án mà hiện nay ở nước ta đang do các Chấp hành viên thực
hiện.
Bốn là, thực hiện một số công việc nội bộ trong toà án: Bao gồm thông báo
khai mạc, bế mạc phiên tòa, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự
trong quá trình xét xử của tòa án. Khi toà án xét xử các vụ án, TPL bắt buộc phải có

mặt vào ngày giờ phiên toà xét xử để làm các nghi thức nêu trên. Hiện nay, các công
việc này trong các phiên tòa do Thư ký phiên tòa, cảnh sát tư pháp đảm nhiệm.
Về tổ chức, TPL là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý
hành nghề theo các quy định của pháp luật được hưởng thù lao khách hàng trả theo
biểu giá quy định. TPL không phải là công chức. Để được bổ nhiệm, TPL phải hội
đủ một số điều kiện về chuyên môn và đạo đức đảm bảo cho sự trung thực trong
thực hiện công tác và phải tuyên thệ trước toà án “Thi hành nhiệm vụ một cách
ngay thẳng và chính trực”. Cụ thể là:
- Phải là người lương thiện.
- Phải qua một kỳ thi chuyên nghiệp hoặc đã từng nắm giữ một số chức vụ
trong các cơ quan tư pháp, đảm bảo trình độ chuyên môn và đạo đức.
- Phải tuyên thệ trước toà án.
- Phải ký quỹ một số tiền để đảm bảo các khoản tiền phạt mà họ có thể bị toà
án bắt buộc phải nộp vi phạm do lỗi trong khi thừa hành nhiệm vụ được giao.
TPL không được từ chối thực hiện nhiệm vụ nếu không có lý do chính đáng.
Trong quá trình hoạt động, TPL chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những công chức như:
Chưởng lý, Biện lý, Thẩm phán, Lục sự. Hoạt động của TPL được tổ chức dưới
dạng văn phòng. Đây không chỉ là quy định pháp lý bắt buộc mà còn mang tính đạo
đức, lương tâm nghề nghiệp của TPL khi thực hiện các công việc được giao. Thêm
vào đó, các mức phí cho hoạt động của TPL cũng được quy định chi tiết, có ý nghĩa

11


quan trọng giúp cho người dân nào cũng có thể dễ dàng biết, tự mình yêu cầu TPL
thực hiện công việc cho mình một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả cao.
Về thù lao, TPL, thư ký TPL không hưởng lương từ ngân sách nhà nước mà
được hưởng tiền thù lao theo mức phí được Tổng trưởng Bộ Tư pháp quy định bằng
văn bản pháp luật. Họ cũng không được kiêm nhiệm chức vụ công nào được hưởng
lương từ nhà nước. TPL không có quyền đòi hỏi tiền nhiều hơn số tiền đã định trong

biểu giá hoặc đòi thêm bất cứ một phí tổn nào khác ngoài số tiền công đã quy định.
Nếu vi phạm, TPL có thể bị triệu hồi hoặc có thể bị khép vào khoản trừng phạt
khác. Việc thu phí của TPL được kiểm tra rất chặt chẽ bởi Sở Trước bạ.
Như vậy, dù chỉ mới manh nha xuất hiện trong nhà nước phong kiến, TPL đã
thực hiện nhiều công việc mang tính chất hành chính, sự vụ đạt hiệu quả cao, như là
tống đạt giấy tờ của các cơ quan nhà nước, thực hiện một số công việc phục vụ hoạt
động xét xử…
1.1.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1950 Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa không chỉ là bước ngoặt lịch sử to lớn của dân tộc ta, mà còn là
dấu mốc quan trọng đánh dấu giai đoạn xây dựng một nhà nước độc lập. Tuy nhiên,
do mới giành được độc lập nên Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
ban hành Sắc lệnh ngày 10/10/1945, giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở 03 miền
Bắc, Trung và Nam bộ cho đến khi ban hành các bộ luật mới áp dụng cho toàn quốc
với điều kiện “những điều khoản trong các luật lệ cũ được tạm giữ lại do Sắc lệnh
này, chỉ thi hành khi nào không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể
dân chủ cộng hòa”; trong đó có việc tạm giữ lại chế định TPL và tiếp tục hoạt động
với đầy đủ các chức năng theo quy định.
Đến ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ký ban hành Sắc lệnh số 13 về việc tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm
phán; theo đó, tại khoản 3 của Sắc lệnh này quy định Ủy ban hành chính cấp xã
kiêm cả việc tư pháp và Ban tư pháp cấp xã có quyền “thi hành những mệnh lệnh
của Tòa án cấp trên”. Sau đó, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng

12


hòa tiếp tục ban hành Sắc lệnh số 130/SL về việc ấn định thể thức thi hành phải ghi
trên các bản toàn sao hay trích sao bản án hoặc mệnh lệnh được ban hành ngày
19/7/1946, trong đó quy định: “Trong các xã, thị xã và khu phố, Chủ tịch, Phó Chủ

tịch và thư ký đều chịu trách nhiệm thi hành những lệnh, mệnh lệnh hoặc bản án của
các Tòa án. Bản án ấy sẽ tùy từng việc, chỉ định một nhân viên để giao cho việc thi
hành lệnh, mệnh lệnh hoặc án, ở những nơi nào đã có TPL riêng thì đương sự có
quyền nhờ TPL riêng thi hành mệnh lệnh”. Nhiệm vụ quản lý tổ chức và hoạt động
của TPL được giao cho Ban Công lại theo quy định của Nghị định số 37 ngày
01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp.
Như vậy, những năm đầu của chính quyền cách mạng, tổ chức THADS ở
Việt Nam do hai lực lượng đảm nhiệm là TPL và Ban Tư pháp xã, phường. Các lực
lượng này trong quá trình thực thi nhiệm vụ được sử dụng quyền lực nhà nước và
được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Điều 1 Sắc lệnh số 130
ngày 19/7/1946 quy định: “Các bản toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh
do các phòng lục sự phát cho người đương sự để thi hành các án hoặc mệnh lệnh
của các Tòa án hộ, đều phải có thể tổ chức thi hành, ấn định như sau: Vậy, Chủ tịch
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truyền cho các TPL theo yêu cầu của đương
sự thi hành bản án này, các ông Chưởng lý và biện lý kiểm soát việc thi hành án, các
vị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu”. Tuy tồn tại hai
lực lượng thi hành án nhưng việc thi hành án dù cho TPL hay Ban Tư pháp tiến
hành đều thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế
của nhà nước.
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1975
Ở miền Bắc, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 85/SL
về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng; trong đó, tại Điều 19 Sắc lệnh số 85/SL
quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp
hành các bản án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ mà chính Tòa
án huyện hay Tòa án trên đã tuyên. Việc phát mãi bất động sản và phân phối tiền
bán được cũng do Tòa án huyện phụ trách…”. Sắc lệnh số 85/SL đã bãi bỏ nhiệm

13



vụ của TPL và Ban Tư pháp xã; thay vào đó, thẩm phán huyện là người được giao
làm nhiệm vụ thi hành án dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án; tổ chức và hoạt
động TPL không còn được duy trì ở miền Bắc.
Ở miền Nam, chế định TPL vẫn tiếp tục được duy trì; tổ chức và hoạt động
của TPL được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự, thương sự tố tụng ngày 20/12/1972 do
chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành và Nghị định số 111/BTP-NĐ ngày
04/02/1950 về ấn định pháp quy TPL do chính quyền Bảo Đại ban hành đã quy định
một cách khá chi tiết về tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của TPL. Đây là giai đoạn
mà các quy định của TPL đã khá hoàn thiện và đầy đủ nhất ở miền Nam nước ta.
Về tổ chức, TPL được tổ chức ở miền Nam có mô hình tương tự như thời
Pháp thuộc về phạm vi hoạt động, điều kiện tổ chức, bổ nhiệm, hình thức tổ chức và
hoạt động của TPL, cơ chế giám sát.
Theo quy định trên nhiệm vụ, quyền hạn của TPL gồm:
Một là, tống đạt các loại giấy tờ của Tòa án: Trong các vụ tranh chấp (vụ án
hình sự và các vụ việc khác), khi cần thông báo cho đương sự, những người có liên
quan về một số giấy tờ liên quan đến giải quyết vụ án thì Tòa án đều giao cho TPL
thực hiện, như: Giấy mời, giấy triệu tập bị đơn, nguyên đơn trong các vụ tranh chấp;
trát đòi trách nhiệm dân sự; trát đòi giám định viên và một số lệnh khác của Tòa án
liên quan đến việc giải quyết các vụ tranh tụng như sai áp bảo toàn (kê biên), sai áp
chỉ (áp dụng biện pháp để bảo đảm số tiền hoặc tài sản của con nợ đang cho người
thứ ba nắm giữ không tẩu tán hoặc trao cho người khác nhằm bảo đảm việc thanh
toán số nợ của chủ nợ sau này)... Các giấy tờ trên thường do Phòng Lục sự của Tòa
án lập và giao cho TPL tống đạt. TPL trực tiếp giao tận tay cho đương sự và những
người nhận được tống đạt hoặc đến nơi đương sự cư trú để lấy chữ ký xác nhận việc
tống đạt đã thực hiện rồi hoàn lại cho Tòa án để lưu hồ sơ và thực hiện xét xử [16,
tr.10, 11].
Hai là, trên cơ sở yêu cầu của Tòa án hoặc đề nghị của tổ chức và cá nhân,
TPL có thể tiến hành lập các vi bằng, chứng thực các hành vi, sưu tầm các sự kiện
thực tế hoặc thông báo, đôn đốc một vấn đề nào đó… làm căn cứ để giải quyết tranh


14


chấp sau này. TPL có thể ra thông báo các ý định hoặc hành vi đã thực hiện đối với
một đối tượng như thay mặt chủ nợ (khi được yêu cầu), thông báo với con nợ việc
chủ nợ sẽ bán tài sản hoặc vật đã thế chấp để thu hồi khoản nợ nếu đến ngày theo
thỏa thuận mà con nợ không trả được nợ; thực hiện một số việc theo yêu cầu của cá
nhân, pháp nhân về thực hiện một số chứng thư hay vi bằng như chứng thư cự tuyệt,
vi bằng công chứng về hiện trạng mức độ hư hại vật chất, hiện trạng xây dựng, lấn
chiếm đất đai, vi bằng chất vấn về việc hỏi đáp các đương sự và nhân chứng để làm
cơ sở cho các yêu cầu tố tụng hoặc hòa giải.
Ba là, về thẩm quyền của TPL trong việc thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án được quy định tại Nghị định số 111/BTP-NĐ ngày 04/02/1950 của Tổng
trưởng Bộ Tư pháp; theo đó TPL có thể trực tiếp thi hành các bản án dân sự đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án. Bên cạnh đó, TPL cũng có thể thi hành các văn bản,
quyết định hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước khác khi được yêu cầu
nhưng phải tuân thủ nghiêm các quy định về thi hành án, về trình tự, thủ tục thi
hành các quyết định hành chính. Trong khi thi hành các bản án dân sự của Tòa, TPL
được triệu dụng nhân viên công lực như cảnh sát hay quân đội để làm trợ tá cho
mình, tức là TPL được sử dụng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước khi cần thiết.
Điều này thể hiện sự kết hợp giữa sức mạnh của công quyền với sự mềm dẻo, linh
hoạt trong dân sự để hỗ trợ cho hoạt động thi hành án của TPL vốn phức tạp, nhạy
cảm.
Bốn là, thực hiện các công việc khác của Tòa án. Trong giai đoạn Tòa án mở
phiên tòa xét xử, theo quy định thì TPL phải có mặt để thực hiện một số công việc
như: Tuyên bố khai mạc, bế mạc hoặc tạm ngưng phiên tòa; truyền gọi các đương
sự, nhân chứng và những người liên quan đứng trước phiên tòa; thực hiện một số
lệnh khác của Tòa án để phục vụ cho hoạt động xét xử. Những công việc mà TPL
thực hiện tại phiên tòa trên gần giống với nhiệm vụ của Thư ký Tòa án hiện nay
hiện nay.

Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1975, TPL ở miền Nam thực
hiện nhiều công việc tương tự như những công việc mà hiện nay chấp hành viên,

15


thư ký Tòa án đang thực hiện. Hoạt động của TPL đã có những đóng góp tích cực
đối với hoạt động tư pháp; là một cơ chế trợ giúp, hỗ trợ cho các cơ quan tư pháp
trong hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án,
đảm bảo mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành
nghiêm minh, tình trạng án tồn đọng hầu như không xảy ra; hỗ trợ cho luật sư biện
hộ trong hoạt động tố tụng tại Tòa án; giúp người dân chủ động trong việc tạo lập
các chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi cần thiết.
1.1.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2015
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hệ thống pháp
luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức áp dụng thống
nhất trên toàn lãnh thổ; các quy định trước đây về TPL của chính quyền Việt Nam
Cộng hòa bị bãi bỏ hoàn toàn. Trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985, chế định
TPL không được đề cập đến trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật của
nhà nước và cũng không còn tồn tại trong thực tiễn thi hành án ở Việt Nam; việc thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án do cơ quan thi hành án các cấp thực hiện.
Từ năm 1986, nhà nước ta bắt đầu thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện; các quan
hệ kinh tế thị trường được hình thành và phát triển nhanh chóng, kéo theo hệ lụy là
xảy ra ngày càng nhiều các vụ việc tranh chấp phức tạp; khối lượng các công việc
của cơ quan tư pháp, thi hành án ngày càng nhiều và trở nên quá tải. Trong công tác
THADS, tình trạng án dân sự tồn đọng kéo dài, kinh phí nhà nước phục vụ cho hoạt
động của cơ quan THADS ngày càng cao; tình trạnh quá tải của chấp hành viên, đặc
biệt là ở các thành phố lớn vẫn còn phổ biến…
Xuất phát từ tình hình thực tiễn, yêu cầu quản lý nhà nước và nhận thức được
vai trò, giá trị và những đóng góp của TPL trong việc hỗ trợ cho hoạt động của Tòa

án, cơ quan THADS, người dân trong những những giai đoạn lịch sử trước đây và
trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của TPL ở một số quốc gia
trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra một số chủ trương, định hướng quan
trọng trong việc xem xét khôi phục lại chế định TPL ở nước ta. Cụ thể hóa chủ
trương đó, Đảng ta đã ban hành một loạt các văn bản như Nghị quyết Đại hội lần

16


thứ XI của Đảng đưa ra chủ trương tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa trong nhiều lĩnh
vực; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong giai đoạn tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đưa ra những chủ trương
chung về xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 … Trong
đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã nêu lên chủ trương quan trọng: “Nghiên cứu thực
hiện và phát triển các dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự
chủ động thu thập chứng cứ, chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình… từng bước thực hiện xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để
giao cho các tổ chức không phải là nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án,
nghiên cứu chế định TPL (Thừa hành viên); trước mắt tổ chức thí điểm ở một số địa
phương…”. Với việc ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW, Đảng ta đã đặt nền móng,
tạo tiền đề cho việc khôi phục lại, phát triển chế định TPL, làm cơ sở để triển khai
các bước tiếp theo của việc thí điểm tổ chức hoạt động TPL. Việc triển khai thí điểm
mô hình TPL được coi là bước đi quan trọng và cần thiết để vừa từng bước thực
hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp, vừa đảm bảo sự thận trọng để không làm xáo
trộn, ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước vừa tạo khuôn khổ pháp lý cần
thiết cho việc tổ chức thực hiện chế định này.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban Chỉ

đạo cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành Kế hoạch số 05-KH/CCTP ngày
22/02/2006, trong đó xác định ro nhiệm vụ của công tác xã hội hóa trong lĩnh vực
THADS là: “Nghiên cứu mô hình tổ chức TPL, trước mắt tổ chức thí điểm tại thành
phố Hồ Chí Minh”. Ngày 01/7/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
21/2008/CT-TTg về việc tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác
THADS, yêu cầu Bộ Tư pháp hoàn thành việc xây dựng Đề án TPL báo cáo Ban
Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương và Chính phủ để xem xét, thông qua; phối hợp
với Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thực hiện thí điểm

17


tại địa bàn thành phố, đồng thời theo doi việc triển khai, kịp thời rút kinh nghiệm,
sơ kết, tổng kết, đề xuất phương án triển khai ở một số địa phương khác.
Tiếp đó, ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số
24/2008/QH12 về việc thi hành Luật THADS, khẳng định: “Để triển khai thực hiện
chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến THADS, giao Chính phủ
quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định TPL (Thừa hành viên) tại một số
địa phương. Việc thí điểm này được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực đến
ngày 01/7/2012. Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo
Quốc hội xem xét, quyết định”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội, ngày 24/7/2009, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, đồng thời, ngày 19/02/2009, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 224/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Thực hiện thí
điểm chế định TPL tại thành phố Hồ Chí Minh”. Có thể nói rằng, năm 2009 là cột
mốc quan trọng, đánh dấu việc khôi phục lại chính thức chế định TPL ở Việt Nam.
Qua thời gian thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, để có cơ sở
đánh giá toàn diện hơn về hoạt động TPL, làm cơ sở để Quốc hội, Chính phủ xem
xét, đưa ra chủ trương, chính sách phù hợp về phát triển chế định TPL trong thời
gian tới, ngày 18/10/2013 của Chính phủ ban hành Nghị định số 135/2013/NĐ-CP

về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP; theo
đó đã mở rộng phạm vi thí điểm chế định TPL ra một số tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; sửa đổi một số quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP cho phù
hợp với việc mở rộng phạm vi thí điểm; sửa đổi, bổ sung một số quy định về tổ
chức và hoạt động của TPL cho thống nhất, phù hợp với các văn bản pháp luật hiện
hành và tình hình triển khai trên thực tiễn.
Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, tính đến ngày 30/9/2015, chế định
TPL đã được tổ chức thí điểm tại 13 địa phương trên cả nước với 53 Văn phòng
TPL được thành lập, có 134 TPL, 295 Thư ký nghiệp vụ đang hành nghề tại các Văn
phòng. Về hoạt động, các Văn phòng TPL đã tống đạt được gần 940 ngàn văn bản
của Tòa án và cơ quan THADS, lập gần 43 ngàn vi bằng, xác minh điều kiện thi

18


×