Tải bản đầy đủ (.doc) (188 trang)

Trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.43 KB, 188 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÃ TRƯỜNG ANH

TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9 38 01 07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận án đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lã Trường Anh


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT NGHIÊN CỨU...............................................................................9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................9
1.2. Cơ sở lý thuyết của việc nghiên cứu........................................................ 28
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC
TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU
DÙNG.............................................................................................................36
2.1. Khái quát về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng.........................................................................................36
2.2. Lý luận pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng.........................................................................64
2.3. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở một số
nước và gợi mở cho Việt Nam.........................................................................75
Chương 3 THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ
HỘI TRONG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY.........................................................92
3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay....92
3.2. Thực tiễn thực thi trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền
lợi của người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay...........................101
3.3. Đánh giá thực trạng hoạt động bảo vệ người tiêu dùng của các tổ chức xã
hội ở nước ta hiện nay................................................................................... 119


Chương 4 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ
HỘI TRONG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................149

4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng...............................................................................................................149
4.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở
Việt Nam hiện nay.........................................................................................152
KẾT LUẬN.................................................................................................. 172
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN……………………………………………….........140
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 176


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NTD

: Người tiêu dùng

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TAND

: Tòa án nhân dân

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng Dân sự


TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

KH&ĐS

: Khoa học và Đời sống

ATVSTP

: An toàn vệ sinh thực phẩm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian vừa qua, kinh tế Việt Nam phát triển theo nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với xu hướng hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng đã mang lại những thành quả đáng ghi nhận. Đời sống của
nhân dân không ngừng được cải thiện, NTD có nhiều sự lựa chọn về hàng
hóa, dịch vụ với chất lượng ngày càng tăng và giá cả ngày càng hợp lý. Tuy
nhiên, nền kinh tế thị trường bên cạnh những mặt tích cực thì những mặt trái
cố hữu vẫn tiềm ẩn những nguy cơ ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và
quyền lợi của NTD nói riêng. Đó là tình trạng một bộ phận không nhỏ doanh
nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận đã thực hiện những hành vi vi phạm như: buôn
bán hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại...Thực tiễn công tác
bảo vệ NTD tại Việt Nam cho thấy, các vụ vi phạm quyền lợi NTD không
giảm đi mà có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng, tính chất, mức độ
và hình thức vi phạm. Hàng loạt các vụ vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi
ích của NTD được phát hiện như: quảng cáo sai sự thật thông qua hình thức
trúng phiếu mua hàng qua điện thoại của công ty Thái Dương Xanh; Bán hàng

không đúng như nội dung cam kết qua trang web, chương trình bán hàng trên
tivi, facebook...Nhiều trang web bán hàng lợi dụng việc mua hàng qua mạng
đã giao hàng không đúng như thông tin giới thiệu…
Với việc ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 11
hiệp định đã có hiệu lực thi hành, có thể nói chưa bao giờ Việt Nam lại mở
cửa, hội nhập quốc tế sâu và rộng như lúc này. Có thể khẳng định rằng, vấn đề
bảo vệ quyền lợi NTD không chỉ là vấn đề thời sự của mỗi quốc gia, mà còn
là vấn đề của khu vực và toàn cầu do tính xuyên biên giới của nó. Trong bối
cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, văn bản quy

1


phạm pháp luật cũng như áp dụng nhiều biện pháp để thực thi có hiệu quả
nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi NTD trong điều kiện mới.
Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là, trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam
bên cạnh việc hoàn thiện thể chế, các mục tiêu bảo vệ quyền lợi NTD chỉ có
thể thực hiện được khi thiết lập các thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
đầy đủ và hiệu quả. Kinh nghiệm quốc tế đã chứng tỏ rằng, sự hiện diện của
các thiết chế của Nhà nước trong bảo vệ quyền lợi NTD tuy cần thiết song
thiếu đầy đủ và toàn diện. Để thực thi hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi
NTD trong điều kiện hội nhập sâu và rộng như hiện nay, cần phải thiết lập,
củng cố, tăng cường mạng lưới các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi
NTD trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ cách tiếp cận trên, Luật Bảo vệ quyền lợi NTD năm 2010 đã dành
một Chương quy định vai trò, vị trí của tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi
NTD. Tuy nhiên, do phải đối mặt với nhiều rào cản khách quan lẫn chủ quan,
đặc biệt là cơ chế tham gia nên trên thực tế, hoạt động của các tổ chức xã hội
vẫn gặp nhiều khó khăn và bộc lộ nhiều bất cập, chưa thực sự trở thành một
thiết chế hữu hiệu trong công tác bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta hiện nay.

Từ phía các tổ chức xã hội, do ý thức được vai trò, vị trí của mình trong
công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nên các tổ chức xã hội tham
gia bảo vệ quyền lợi NTD đã có những bước phát triển tích cực trong những
năm gần đây. Ngày 29/11/2018, Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
(Vietnam Consumers Protection Association - VICOPRO) đã được thành lập
trên cơ sở tách ra từ Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
(VINASTAS) hướng tới mục đích đảm bảo tính pháp lý và thực hiện đầy đủ,
toàn diện các nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội
theo đúng quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hội bao gồm
61

các Hội địa phương và tổ chức là thành viên trải dài ở khắp các tỉnh thành

trong cả nước. Thời gian vừa qua, các Hội đã có những đóng góp rất quan
2


trọng trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD. Tuy nhiên, thực tế hoạt động của
Hội vừa qua cũng đã cho thấy nhiều điểm còn bất cập trong pháp luật quy
định về tổ chức, hoạt động của các tổ chức bảo vệ NTD. Pháp luật hiện hành
không quy định về mối quan hệ giữa các tổ chức bảo vệ NTD ở các cấp khác
nhau, dẫn đến hoạt động bảo vệ NTD của các tổ chức đơn lẻ sẽ có thể trở nên
rời rạc, không thống nhất mang tính hệ thống. Kinh phí cho hoạt động của các
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp là do các thành viên đóng góp.
Tuy nhiên, khác với những tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp khác, tổ chức
bảo vệ NTD không có nguồn thu ổn định từ các hội viên. Hoạt động vì lợi ích
chung của NTD và của toàn xã hội nhưng lại không có bất kỳ một sự hỗ trợ
kinh phí hay bất kỳ một sự đóng góp nào. Chính điều này đã gây ra những
khó khăn trong quá trình hoạt động của tổ chức bảo vệ NTD.
Thực tiễn cũng cho thấy, ở những nơi mà Hội bảo vệ NTD Việt Nam

nhận được sự hỗ trợ về mặt tài chính của địa phương như Kiên Giang, Đồng
Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu… thì hoạt động của các Hội này được thực hiện rất
có hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho NTD. Các quy định pháp luật hiện
hành ở Việt Nam mới quy định cơ chế hỗ trợ tài chính cho hoạt động của tổ
chức bảo vệ NTD ở mức độ nguyên tắc và thiếu hiệu quả. Từ những phân tích
trên cho thấy, hoạt động của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay đang gặp những vướng
mắc, bất cập về hành lang pháp lý, đưa đến vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức này trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng không được đề cao. Đây
cũng là lý do mà tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm của các
tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng theo pháp luật
Việt Nam hiện nay” để thực hiện Luận án Tiến sĩ luật học.

3


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của
NTD; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam
hiện nay; từ đó, đề xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
như sau:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về trách nhiệm của các
tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo quy định của pháp luật;
- Nghiên cứu so sánh trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ

quyền lợi của NTD theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo pháp luật Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi trách nhiệm của các tổ chức xã
hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo pháp luật ở Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao trách nhiệm của các
tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định pháp luật về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi NTD. Đồng thời, tác giả
cũng nghiên cứu thực tiễn về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi của NTD theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
4


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD là một vấn đề rộng, có nhiều nội dung khác
nhau. Chủ thể là tổ chức xã hội có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của NTD
cũng có nhiều tổ chức với phạm vi trách nhiệm khác nhau. Tuy nhiên, trong
Luận án này, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ thể là Hội bảo vệ NTD
Việt Nam với tư cách là “tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi NTD” .
Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian: Căn cứ vào thực tiễn
áp dụng, Luận án tổng hợp, đánh giá trách nhiệm của các Hội bảo vệ quyền
lợi của NTD ở Việt Nam từ năm 2010 (khi Luật Bảo vệ quyền lợi NTD ra đời)
đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận

Để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận án dựa trên quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, nhà nước ta về chính sách và pháp luật
về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích: được tác giả sử dụng khi đánh giá, bình luận
các quan điểm, các quy định của pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã
hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD… Phương pháp này được tác giả sử dụng
trong tất cả các chương của luận án, đặc biệt nhấn mạnh ở Chương 1, Chương
2, Chương 3 của luận án.
- Phương pháp tổng hợp: được tác giả sử dụng khi đánh giá nhằm rút
ra những kết luận tổng quan, những quan điểm, đề xuất và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi
5


của NTD. Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu trong Chương 4 của
luận án.
- Phương pháp so sánh luật học: được tác giả sử dụng khi phân tích,
đánh giá các quy định pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong
bảo vệ quyền lợi của NTD hiện hành của Việt Nam trong mối tương quan với
các quy định pháp luật các nước nhằm làm sáng tỏ những điểm chung, sự
khác biệt, trên cơ sở đó gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam. Phương pháp này
được tác giả sử dụng chủ yếu trong Chương 2.
- Phương pháp thống kê: được tác giả vận dụng nhằm thu thập các văn
bản quy định pháp luật mới nhất về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong
bảo vệ quyền lợi của NTD; các công trình nghiên cứu về trách nhiệm của các

tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD, pháp luật về trách nhiệm của
các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD; tiến hành thu thập số liệu
mới nhất về các việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ quyền lợi NTD của các tổ
chức xã hội; đánh giá mức độ và tình trạng các đối tượng yếu thế (NTD) được
tổ chức xã hội bảo vệ…Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu tại
Chương 1 và Chương 2 của luận án.
- Phương pháp phân tích logic quy phạm: được tác giả sử dụng từ khi
nêu nội dung điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của NTD, đánh giá thực trạng pháp luật về trách nhiệm
của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD, sau đó đưa ra các giải
pháp, kiến nghị tương ứng. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu và đảm
bảo sự xuyên suốt từ Chương 2, Chương 3, Chương 4 của luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Từ trước đến nay, các nghiên cứu trong nước và quốc tế về lĩnh vực các tổ
chức xã hội bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng có rất nhiều, tuy nhiên các
công trình nghiên cứu này chỉ gọi là nghiên cứu khái quát hoặc nhắc đến trong
nghiên cứu của mình. Đặc biệt, công trình nghiên cứu độc lập, các khảo sát về
6


trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
ở Việt Nam chưa hề có, mặc khác khi các quy định về trách nhiệm của các tổ
chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng được đưa vào Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng không có luận cứ. Bởi vậy, đây là lần
đầu tiên có một nghiên cứu toàn diện, cụ thể và có luận cứ chi tiết, các hoạt
động thực tiễn về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng.
Đề tài chỉ ra cơ sở lý thuyết về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong
bảo vệ quyền lợi của NTD. Đây là căn cứ khoa học để đề xuất các phương
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật

về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD. Chỉ ra
quá trình tham gia bảo vệ NTD của các tổ chức xã hội ở một số nước trên thế
giới. Đây là cơ sở, bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng pháp luật về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam
hiện nay. Ngoài ra, luận án còn nghiên cứu một cách toàn diện về thực trạng
điều chỉnh pháp luật và thực trạng thực hiện trách nhiệm của các tổ chức xã
hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD theo pháp luật Việt Nam hiện nay, bao
gồm trách nhiệm về: Phản biện và giám định xã hội; giáo dục NTD; đại diện
giải quyết khiếu nại của NTD; thay mặt khởi kiện dân sự vì quyền lợi của
NTD. Thông qua đó, đề tài đã phát hiện và chỉ ra: (i) Những ưu điểm và hạn
chế của pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền
lợi của NTD ở Việt Nam trong thời gian vừa qua; (ii) Những bất cập trong quá
trình áp dụng pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi của NTD. Đề tài đưa ra các quan điểm, yêu cầu và đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm
của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam hiện nay.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận, luận án đã xây dựng, cung cấp cơ sở khoa học về mặt lý
luận, thực tiễn và pháp lý về trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi của NTD ở Việt Nam hiện nay. Thông qua việc nhận diện đa chiều về
trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD; trên cơ sở
đánh giá thực trạng pháp luật và đưa ra các quan điểm, yêu cầu và giải pháp hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã
hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo


tốt cho các cơ quan xây dựng chính sách, pháp luật trong quá trình nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng
là công trình, là sản phẩm cho việc giảng dạy, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài Lời nói đầu, Kết cấu và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận án được kết cấu gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu

Chương 2: Những vấn đề lí luận về trách nhiệm của các tổ chức xã hội
trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Chương 3. Thực trạng trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng ở Việt Nam hiện nay

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu
Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu chủ đề luận án, các công trình khoa
học liên quan đến chủ đề Luận án được tổng quan thành các nhóm sau:
1.1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về trách nhiệm của
các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng

Ở khía cạnh lí luận chung, những khái niệm, lí thuyết căn bản và
nguyên lí trong pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD được đề cập khá chi tiết
trong các nghiên cứu như:
- Báo cáo “Thực thi trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của
các hiệp hội nghề nghiệp trong bảo vệ người tiêu dùng – cơ sở lý luận và thực
tiễn ở Việt Nam” của ThS. Viên Thế Giang và Lê Tuấn Tú tại Hội thảo “Các
tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, cộng đồng và
quyền con người”: tác giả đã chỉ ra các tổ chức xã hội đã có nhiều nỗ lực
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thực thi tốt trách nhiệm của các
tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp là biện pháp bảo đảm quyền lợi cho
người tiêu dùng. Sự tham gia của các tổ chức xã hội, các hiệp hội nghề nghiệp
trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sẽ tạo “thế lực cân bằng”, là đối trọng
tương xứng giữa người tiêu dùng và người cung ứng hàng hóa, dịch vụ.
- Đề tài cấp Bộ năm 2006 với tiêu đề: “Bảo đảm quyền của NTD trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” của Viện
nghiên cứu con người – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, do TS.
Tường Duy Kiên làm Chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã phân tích và làm rõ cơ sở lý
luận về bảo đảm quyền của người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường định
9


hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể đề tài đã làm sáng tỏ khái niệm người tiêu
dùng, phân biệt người tiêu dùng với khách hàng.
- TS. Đặng Vũ Huân với bài viết “Pháp luật và vấn đề bảo vệ người
tiêu dùng” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về pháp luật
và tiêu dùng tháng 1 năm 2005, bài viết tiếp cận vấn đề bảo vệ NTD theo kinh
tế học. Tác giả phân tích mối quan hệ kinh tế giữa NTD và tổ chức, cá nhân
sản xuất kinh doanh trong kinh tế thị trường, từ đó có thể thấy NTD giữ vị trí
rất quan trọng đối với nền kinh tế. Bài viết cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân
dẫn đến quyền lợi của NTD chưa được bảo đảm. Trong đó, một trong những

nguyên nhân cơ bản là do các quy định của pháp luật mang tính tổng quát,
chung chung và chưa có cơ chế xử lý thích đáng đối với hành vi vi phạm pháp
luật bảo vệ NTD. Bên cạnh đó, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị mang tính
vĩ mô nhằm tăng cường hiệu quả công tác bảo vệ NTD.
- Bài viết “Một số vấn đề lý luận xung quanh luật bảo vệ người tiêu
dùng” của PGS.TS Nguyễn Như Phát (2010) đăng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Số 2. Bài viết đã đề cập đến nhiều vấn đề trong dự thảo Luật bảo vệ
quyền lợi NTD. Trong đó, tác giả phân tích mối quan hệ giữa NTD với
thương nhân, trong mối quan hệ này thì NTD luôn yếu thế “do tính chất xã
hội của quan hệ tiêu dùng mà người tiêu dùng khó có thể có cơ hội trở thành
tự do, bình đẳng vì họ buộc phải tham gia vào mối quan hệ với đặc tính
truyền kiếp là “thông tin bất cân xứng”, chính vì vậy, pháp luật phải ưu tiên
bảo vệ “kẻ yếu”. Cũng theo tác giả, pháp luật bảo vệ NTD hiểu theo nghĩa
tổng quát là một hệ thống pháp luật có liên quan đến nhau mà đạo luật về bảo
vệ quyền lợi NTD chỉ có giá trị tiên phong. Đồng thời, tác giả đã phân tích sự
hình thành và những đặc điểm của điều kiện giao dịch chung, mối quan hệ
giữa NTD và thương nhân trong việc thiết lập và thực hiện điều kiện giao dịch
chung. Và qua đó, tác giả cho rằng cần thiết phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ
điều kiện giao dịch chung.
10


- Cuốn “Tìm hiểu Luật bảo vệ NTD các nước và vấn đề bảo vệ NTD ở
Việt Nam”, Nxb Lao động, 1999, do Viện Nhà nước và pháp luật biên soạn là
một trong số những công trình tiên phong nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi
NTD ở Việt Nam đồng thời là tài liệu tham khảo rất có giá trị đối với những
nhà nghiên cứu quan tâm tới Luật bảo vệ NTD của một số quốc gia trên thế
giới như Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Ấn Độ cũng như chính sách bảo vệ
NTD của các quốc gia này. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng có những phân tích
về hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam mà cụ thể là hoạt động của

Hội tiêu chuẩn và bảo vệ NTD Việt Nam. Đồng thời, cuốn sách cũng nêu lên
vấn đề xâm hại quyền lợi của NTD diễn ra ngày càng phổ biến và trầm trọng
ở nước ta, lý giải các nguyên nhân gây ảnh hưởng tới quyền lợi của NTD
cũng như đề ra các biện pháp để bảo vệ NTD hữu hiệu nhất.
- Cuốn “Bàn về tiêu dùng của Chủ nghĩa xã hội” của Trần Tri Hoằng,
Nxb Chính trị quốc gia, 1999 là công trình tiên phong nghiên cứu những vấn
đề mang tính lý luận về tiêu dùng. Cuốn sách đã tổng kết thực tiễn tiêu dùng
hơn 40 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, đặc biệt trong thời kỳ
cải cách, mở cửa từ năm 1978 đến nay dựa trên cơ sở lý luận của C. Mác- Ph.
ĂngGhen, V. I. Lê Nin về vấn đề tiêu dùng và tham khảo thành tựu lý luận về
tiêu dùng trong kinh tế học phương Tây. Trong cuốn sách này, ông đã trình
bày năm vấn đề lớn: Quan niệm về tiêu dùng; hệ thống tiêu dùng; cơ cấu tiêu
dùng; hành vi tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng. Tác giả tiến hành
tìm hiểu một cách toàn diện về lý luận cơ bản, các quy luật vận hành, diễn
biến, các quan hệ của tiêu dùng: giữa sản xuất với tiêu dùng, phân phối với
tiêu dùng, trao đổi với tiêu dùng. Ngoài những vấn đề mang tính lý luận về
tiêu dùng, tác giả cũng đã đề cập đến một số quyền của NTD như: quyền được
tìm hiểu; quyền được lựa chọn; quyền bảo đảm chất lượng, giá cả, an toàn,
cân đong; quyền sửa chữa, thay đổi, trả lại tiền và đòi bồi thường. Quyền của
NTD tuy chưa được đề cập và phân tích một cách đầy đủ, nhưng
11


đây có thể xem là sự gợi mở cho các công trình sau, kế thừa và tiếp tục làm rõ
hơn các vấn đề lý luận liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD.
- Iain Ramsay, Consumer Law and Policy: Text and Materials on
Regulating Consumer Markets: học giả đề cập sâu sắc về vai trò của Nhà
nước trong hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD, các quan điểm, chính sách về
pháp luật bảo vệ NTD ở nhiều quốc gia trên thế giới trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế từ đó đưa ra các nhận định về cách thức xây dựng chính sách và

pháp luật bảo vệ NTD của quốc gia, quốc tế.
- A. Brooke Overby, An Institutional Analysis of consumer Law: Trong
tài liệu này, Brooke đưa ra định nghĩa “NTD” được sử dụng trong một đạo
luật của Anh Quốc là Fair Trading Act năm 1973, trong đó NTD là người
được cung cấp hoặc tìm kiếm sự cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ trong quá
trình kinh doanh của bên cung cấp nhưng không tiếp nhận hàng hóa hay dịch
vụ trong quá trình kinh doanh của mình. Brooke cũng nhận định tính bất cân
bằng trong quyền thương lượng, một điều liên quan tới những vấn đề phi đạo
đức và phi thị trường được phản ánh thông qua sự tương phản về kinh nghiệm
của bên bán với sự thiếu kinh nghiệm của cá nhân người mua.
Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu khác cũng cung cấp
những quan điểm, lí luận ở nhiều khía cạnh cụ thể liên quan tới bảo vệ quyền
lợi NTD phải kể đến như:
- Private and Financial Sector Development Department - World Bank,
Good Practices for Consumer Protection and Financial Literacy in Europe and
Central Asia: A Diagnostic Tool: Công trình nghiên cứu này đề cập về NTD trên
thế giới, chủ yếu tập trung ở những nước đang phát triển - những nước có nền
kinh tế còn non kém, hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD còn chưa phát triển. Đồng
thời, nghiên cứu còn để cập đến nội dung thực hành tốt đối với bảo vệ quyền lợi
NTD trong các lĩnh vực khác nhau của ngành tài chính như ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao

12


gồm 8 vấn đề chính: (i) Các tổ chức bảo vệ NTD, (ii) Các nguyên tắc bán
hàng và công bố thông tin, (iii) Quản lý và duy trì tài khoản của NTD, (iv)
Bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư, (v) Cơ chế giải quyết tranh chấp, (vi)
Phương án bảo lãnh/bảo đảm và bồi thường, (vii) Giáo dục tài chính và (viii)
Các vấn đề cạnh tranh trong dịch vụ tài chính.

- Committee on Consumer Policy - Directorate for Science, Technology
and Industry-OECD, Best Practices for Consumer Policy: Report on the
Effectiveness of Enforcement Regimes: Nghiên cứu này xem xét chế độ thực thi
nào có hiệu quả về mặt chi phí trong việc đảm bảo tuân thủ nghiêm mặt pháp
lệnh về bảo vệ quyền lợi NTD được lập ra để ngăn ngừa các tổn thất tài chính.
Nghiên cứu đưa ra 5 mô hình để thực thi pháp luật bảo vệ NTD gồm: (i) Mô

hình dựa vào hệ thống pháp luật hình sự về xử phạt; (ii) Mô hình trong đó các
cơ quan hành chính chủ yếu sử dụng hệ thống pháp luật dân sự để đưa ra các
hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả; (iii) Mô hình trong đó
các cơ quan hành chính có quyền áp dụng các biện pháp xử phạt tài chính;
(iiii) Mô hình chủ yếu dựa vào khiếu nại của NTD lên cán bộ thanh tra; (iv)
Mô hình chủ yếu dựa vào việc sắp xếp và thực thi các quyền hạn riêng. Qua
đó, học giả nghiên cứu phát triển một khung lý thuyết về đánh giá tính hiệu
quả về mặt chi phí của các phương án thực thi này thông qua các nghiên cứu
thực tiễn tại các quốc gia như: Anh, Australia, Bỉ, Hà Lan.
- Alternative consumer dispute resolution in the EU, Committee for
Consumer Affairs (CCA) - Social and Economic Council (SER): Báo cáo
nhìn nhận các cơ chế hiện tại như Quy định thành lập Trình tự giải quyết vụ
việc khiếu kiện nhỏ của EU (the Regulation establishing a European Small
Claims Procedure); Nghị quyết về Thương lượng (the Mediation Directive) và
Nghị quyết về bảo vệ lợi ích NTD (the Injunctions Directive) chưa tạo nên
chuyển biến thực sự tích cực trong hoạt động giải quyết tranh chấp tiêu dùng
ở Châu Âu. Theo báo cáo, rào cản lớn nhất trong việc sử dụng cơ chế phối
13


hợp ADR đối với các vụ việc vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ chính nằm ở sự
thiếu các thông tin cần thiết về địa lý, lĩnh vực, đặc điểm giao dịch đặc biệt
trong hoạt động thương mại điện tử.

Có thể khẳng định rằng, các nghiên cứu của các học giả trên chủ yếu
mang tới cái nhìn đa chiều về quan hệ tiêu dùng, về các khía cạnh chi tiết
trong hoạt động giải quyết tranh chấp tiêu dùng. Tuy nhiên, cũng có thể nhận
thấy rằng, số lượng nghiên cứu mang tính chất tổng quan về trách nhiệm của
các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của NTD hiện nay chưa nhiều, các
tác phẩm đa phần vẫn chỉ phân tích sâu về từng điểm nhỏ mà chưa cho thấy
được bức tranh tổng thể của mối quan hệ phức tạp này.
1.1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu thực trạng pháp luật về trách
nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Các tổ chức xã hội hiện nay đang phát triển một cách phong phú, đa
dạng và cũng tác động lớn đến xã hội với sự tham gia rộng rãi hơn vào các
lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, nghiên cứu khoa học. Các tổ chức
này còn đóng một vai trò rất lớn trong việc phát triển cộng đồng, tư vấn phản
biện chính sách cho Nhà nước, phát triển các dịch vụ cộng đồng cũng như
trong hoạt động giám sát đối với những tiêu cực của xã hội, của Nhà nước...
Chính vì vậy, các tổ chức xã hội là một lĩnh vực quan trọng, đã và đang được
các nhà nghiên cứu quan tâm hơn.
Từ những năm 1993 đến nay, chúng ta đã có nhiều công trình nghiên
cứu về hội, về tổ chức xã hội: Những thông tin về hoàn thiện pháp luật về Hội
ở Việt Nam trong thời gian tới; vị trí, vai trò của các hội quần chúng đối với
sự hình thành, phát triển của xã hội ở Việt Nam; quan hệ của nhà nước và các
hiệp hội quần chúng được đề cập tới trong Đề tài cấp Nhà nước “Cơ sở lý luận
và thực tiễn của sự hình thành và phát triển của xã hội dân sự định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” trong Chương trình khoa học
trọng điểm cấp Nhà nước mã số KX.02/06-10 do GS.TS Đỗ Hoài

14


Nam làm chủ nhiệm; GS.TS. Dương Xuân Ngọc, “Xây dựng xã hội dân sự ở

Việt Nam”, NXB Chính trị - Hành chính, năm 2009; Nguyễn Khắc Mai, “Vị
trí, vai trò các hiệp hội quần chúng ở nước ta”, NXB Lao động, năm 1996.
Có một số công trình nghiên cứu đã xác định tầm quan trọng của Tổ
chức bảo vệ quyền lợi NTD - là tổ chức xã hội, đại diện để bảo vệ quyền lợi
NTD theo quy định của pháp luật – trong công tác bảo vệ NTD hiện nay. Xây
dựng được cơ sở lý luận và điều kiện để khẳng định vai trò quan trọng của Tổ
chức bảo vệ quyền lợi NTD trong việc đảm bảo quyền lợi NTD. Đề xuất một
số vấn đề nâng cao năng lực của tổ chức này, mà trước hết cần phải luật hóa
vai trò của các tổ chức bảo vệ NTD như báo cáo tại Hội thảo quốc tế và
KASS tổ chức năm 2008 của tác giả Phan Huy Hồng: Vai trò của các tổ chức
bảo vệ NTD ở Việt Nam (2008): Bài viết xác định tầm quan trọng của Tổ chức
bảo vệ quyền lợi NTD - là tổ chức xã hội, đại diện để bảo vệ quyền lợi NTD
theo quy định của pháp luật – trong công tác bảo vệ NTD hiện nay. Bài viết
xây dựng được cơ sở lý luận và điều kiện để khẳng định vai trò quan trọng
của Tổ chức bảo vệ quyền lợi NTD trong việc đảm bảo quyền lợi NTD. Trên
cơ sở đó, đề xuất một số vấn đề nâng cao năng lực của tổ chức này, mà trước
hết cần phải luật hóa vai trò của các tổ chức bảo vệ NTD.
- PGS.TS. Nguyễn Thị Vân Anh (2012), Vai trò của Hội bảo vệ người
tiêu dùng trong việc bảo vệ người tiêu dùng, NXB Chính trị quốc gia – Sự
thật: tác giả đã đưa ra các cơ sở pháp lý của việc xác định vai trò của Hội bảo
vệ NTD trong việc bảo vệ quyền lợi của NTD. Tiếp đến, tác giả trình bày quá
trình hình thành và các hoạt động của Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Việt Nam.
- TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên):
Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia –
Sự thật (2012); TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ
biên): Vai trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển và quản lý xã hội,
15



NXB Chính trị quốc gia (2010). Đây là những nghiên cứu công phu, tỉ mỉ về
các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp; những khuyến nghị xã hội về phát
huy vai trò của các tổ chức xã hội ở Việt Nam là những nguồn tư liệu quý để
luận án kế thừa và phát triển.
- Báo cáo “Hội bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta hiện nay – thực trạng
hoạt động và định hướng đổi mới” của TS. Đinh Thị Mỹ Loan tại Hội thảo
“Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng – kinh nghiệm quốc tế, thực trạng và triển
vọng ở Việt Nam”(2009): Tác giả đã làm rõ những đóng góp của Hội bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta trong bảo vệ NTD và chỉ ra một số các
phương hướng cụ thể để tăng cường và phát triển vai trò của Hội bảo vệ
quyền lợi NTD trong phạm vi cả nước.
- Đề tài cấp bộ “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ người
tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”(2008) của Viện Khoa học
Pháp lý thực hiện, do ThS. Đinh Thị Mai Phương làm chủ nhiệm: Đề tài đã
chỉ rõ được các vấn đề lý luận về cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng (Khái
niệm, bản chất, các bộ phận cấu thành của cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu
dùng; Các bộ phận cấu thành của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng; Lịch sử
phát triển của chế định pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và các yếu tố ảnh
hưởng tới quá trình phát triển).
-

Đề tài nghiên cứu cấp bộ “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi

NTD ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” do TS. Đinh Thị
Mỹ Loan chủ nhiệm năm 2006 là một trong những đề tài khoa học đầu tiên
nghiên cứu về vấn đề bảo vệ NTD. Nội dung của đề tài chủ yếu đề cập tới các
vấn đề mang tính cốt lõi liên quan tới pháp luật bảo vệ NTD như quyền của
NTD; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; nghĩa vụ
và quyền hạn của cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ
NTD. Ngoài ra đề tài còn giới thiệu pháp luật bảo vệ NTD của một số nước

trên thế giới như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Anh, Mỹ, Canada, Hướng
16


dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ NTD, của Tổ chức quốc tế NTD... Từ
những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm của pháp luật
các nước về bảo vệ NTD, đề tài đưa ra những hạn chế của pháp luật bảo vệ
NTD Việt Nam đồng thời đưa ra các phương hướng và kiến nghị những giải
pháp rất có giá trị trong việc xây dựng Luật bảo vệ quyền lợi NTD.
- Đề tài “Nghiên cứu Vai trò của hội bảo vệ NTD trong việc bảo vệ
NTD ở Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của trường Đại học
Luật Hà Nội do TS.Nguyễn Thị Vân Anh làm chủ nhiệm năm 2011 nêu những
kiến thức tổng quan về bảo vệ NTD và Hội bảo vệ NTD như nêu cơ sở pháp
lý, thiết chế thực thi luật bảo vệ NTD trong đó có nêu vai trò của Hội trong
các mặt hoạt động như phản biện xã hội, giáo dục NTD, giải quyết khiếu nại
của NTD. Từ đó kiến nghị những phương hướng, giải pháp giúp nâng cao vai
trò của Hội trong việc bảo vệ NTD ở Việt Nam.
- Đề tài cấp Bộ “Tăng cường năng lực thiết chế thực thi pháp luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng” của Viện Khoa học Pháp lý (2012) do TS.
Nguyễn Thị Vân Anh làm chủ nhiệm: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận
về năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD với
những nội dung: Làm rõ được khái niệm, đặc điểm thiết chế thực thi pháp luật
bảo vệ quyền lợi NTD; Nêu và phân loại được các thiết chế thực thi pháp luật
bảo vệ quyền lợi NTD ở trên thế giới và ở Việt Nam; Phân tích được vai trò,
nhiệm vụ quyền hạn của các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi
NTD liên quan tới vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD; Đưa ra hệ thống các tiêu chí
xác định năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của các thiết chế đó; Nghiên cứu kinh
nghiệm tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ NTD ở
một số nước trên thế giới (tập trung vào nghiên cứu kinh nghiệm của một số

nước châu Á, Hoa kỳ và Canada); Phân tích và đánh giá các quy định pháp
luật hiện hành về các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt
17


Nam; Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực của các thiết chế thực thi pháp
luật bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt Nam.
Ngoài ra, còn rất nhiều những ấn phẩm nghiên cứu về Hội, các tổ chức xã
hội ở Việt Nam hiện nay như: Tài liệu tập huấn về tổ chức, quản lý hội và tổ
chức phi chính phủ ở Việt Nam do Ban tổ chức – cán bộ của Chính phủ thực hiện
tháng 11/2000; Đề tài cấp Bộ: Thực trạng và giải pháp về quản lý Nhà nước với
các tổ chức phi Chính phủ, năm 2007; Kỷ yếu hội thảo phục vụ tọa đàm về đối
tượng, phạm vi điều chỉnh Luật về Hội tổ chức tháng 07/2001; Bùi Thị Thanh
Hằng: Pháp luật về Hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
5, 2007; Ngân hàng thế giới tại Việt Nam xuất bản cuốn sách “Sổ tay kinh
nghiệm về pháp luật liên quan đến các tổ chức phi chính phủ”;…

Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu về các thiết chế bảo vệ
quyền lợi NTD - một bộ phận cấu thành cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi
NTD. Trong đó, các bài viết tiêu biểu như: “Quyền của NTD và trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước”, PGS.TS Đinh Ngọc Vượng, báo cáo tại Hội thảo
quốc tế do Viện Nhà nước và Pháp luật và Viện KAS (CHLB Đức) tổ chức
tháng 2/2008; Hội thảo “Pháp luật về bảo vệ NTD – kinh nghiệm quốc tế,
thực trạng và triển vọng ở Việt Nam”(2009); GS.TS Lê Hồng Hạnh, “Thực
trạng pháp luật của Việt Nam về các thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD”, báo
cáo tại hội thảo Bảo vệ NTD – kinh nghiệm từ pháp luật của Đức và liên minh
Châu Âu với Việt Nam, do Bộ Tư pháp tổ chức tại TP.HCM tháng 7/2010; TS.
PGS.TS. Đinh Văn Thanh, “ Thủ tục xét xử rút gọn trong các vụ án dân sự về
bảo vệ quyền lợi NTD – Nhu cầu và định hướng lập pháp”, báo cáo tại hội
thảo Pháp luật về bảo vệ NTD – kinh nghiệm quốc tế, thực trạng và triển vọng

ở Việt Nam, do Viện Nhà nước và Pháp luật và Viện KAS tổ chức tại
TP.HCM tháng 11/2009;
+ Trong bài viết “Quyền của NTD và trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước”, PGS.TS Đinh Ngọc Vượng đã nêu bật vai trò của các cơ quan quản

18


lý Nhà nước trong việc bảo vệ NTD. Đây là thiết chế cơ bản và quan trọng
nhất, bởi lẽ, NTD bị xâm phạm ở hầu hết tất cả lĩnh vực quản lý của Nhà
nước như quảng cáo, nhãn hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm...Và nhà nước
là chủ thể có trình độ, có phương tiện và có nguồn tài chính dồi dào để phát
hiện, ngăn chặn sự xâm phạm này. Bài viết đưa ra một số giải pháp giúp cơ
quan quản lý Nhà nước hoạt động hiệu quả hơn trong công tác bảo vệ NTD.
+ Trong bài viết “Thực trạng pháp luật của Việt Nam về các thiết chế
bảo vệ quyền lợi NTD”, báo cáo tại hội thảo Bảo vệ NTD – kinh nghiệm từ
pháp luật của Đức và liên minh Châu Âu với Việt Nam, do Bộ Tư pháp tổ
chức tại TP.HCM tháng 7/2010, GS.TS Lê Hồng Hạnh đã xác định các bộ
phận của thiết chế bảo vệ NTD, trong đó, mỗi thiết chế có vị trí và vai trò
khác nhau trong cơ chế bảo vệ quyền lợi NTD. Tuy nhiên, chúng vẫn có một
điểm chung hiện nay khá yếu, kém. Trên cơ sở phân tích quy định pháp luật
hiện hành, bài viết đề một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà
nước của các thiết chế. Trong đó, nổi bật là việc bổ sung thủ tục tố tụng rút
gọn của Tòa án khi giải quyết các tranh chấp giữa NTD và nhà sản xuất, kinh
doanh. Cùng với quan điểm này, PGS.TS. Đinh Văn Thanh đã có bài viết “
Thủ tục xét xử rút gọn trong các vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi NTD – Nhu
cầu và định hướng lập pháp”, báo cáo tại hội thảo Pháp luật về bảo vệ NTD –
kinh nghiệm quốc tế, thực trạng và triển vọng ở Việt Nam, do ISL và KAS tổ
chức tại TP.HCM tháng 11/2009. Tác giả phân tích, luận giải sự cần thiết áp
dụng thủ tục xét xử rút gọn trong các vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi NTD.

Điều này giúp NTD tiết kiệm thời gian, công sức cũng như tiền bạc khi tham
gia tranh chấp với tổ chức sản xuất, kinh doanh; tạo điều kiện thuận lợi cho
NTD “tiếp cận công lý”.
Ngoài ra, còn khá nhiều bài viết đi sâu, làm sáng tỏ vị trí, vai trò, bản
chất của các thiết chế bảo vệ NTD như Tòa án, Hệ thống cơ quan quản lý Nhà
nước, tổ chức bảo vệ NTD và các đòi hỏi của thực tiễn nhằm bảo vệ tốt nhất
19


quyền lợi NTD. Từ đó kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật nhằm khắc phục
những thiếu sót trong pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD, góp phần đảm bảo sự
công bằng trong xã hội. Cụ thể: ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương, “Vấn đề nghĩa
vụ chứng minh trong các vụ án về bảo vệ quyền lợi của NTD ở Việt Nam”,
báo cáo tại hội thảo Pháp luật về bảo vệ NTD – kinh nghiệm quốc tế, thực
trạng và triển vọng ở Việt Nam, do ISL và KAS tổ chức tại TP.HCM ngày 1617/11/2009; Tưởng Duy Lượng, “Vai trò của tòa án trong việc bảo vệ quyền
lợi NTD”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2007, trang 29-34; …
- Cross-Border Alternative Dispute Resolution in the European Union,
Directorate General for Internal Policies: Báo cáo là kết quả nghiên cứu được
thực hiện vào năm 2011 cung cấp cái nhìn khái quát về cơ chế ADR hiện có
tại tất cả 27 quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu, đồng thời đánh giá hiệu
quả vận hành của các cơ chế giải quyết các vụ việc quốc tế thông qua ADR.
- “Effective Enforcement of Consumer Law in Europe Synchronizing
Private, Public, and Collective Mechanisms” của Willem van Boom và
Macro Loos đã có những phân tích về luật bảo vệ NTD của Châu Âu, sự liên
quan của luật cạnh tranh không lành mạnh trong việc xác định các công cụ
hiệu quả cho việc bảo vệ lợi ích của NTD. Đồng thời tác phẩm cũng cho thấy
mối quan hệ giữa việc thực thi luật cạnh tranh với việc thực thi luật bảo vệ
quyền lợi NTD.
- Nhóm tác giả Geraint G.Howells, Iain Ramsay, Thomas Wilhelsson,
David Kraft cung cấp những phân tích về các vấn đề trung tâm trong pháp

luật và chính sách bảo vệ NTD của các quốc gia trên thế giới trong cuốn
“Handbook of Research on International Consumer Law”, Edward Elgar
Pub, 2010. Các tác giả phân tích những quy định cả về thể chế và thiết chế
bảo vệ NTD, những phương pháp tối ưu để thực thi pháp luật bảo vệ NTD
trên cơ sở so sánh pháp luật bảo vệ NTD của Hoa Kỳ và EU. Từ đó, đưa ra cái
nhìn sâu sắc về chính sách bảo vệ NTD cũng như mô hình các quy định
20


×