Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quyền của người đồng tính theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 79 trang )

NGUYỄN THỊ KIM TIẾN

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM TIẾN
NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHÓA VIII NĂM 2017

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM TIẾN
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN LINH GIANG


HÀ NỘI - 2019


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, những người đồng tính công khai tình cảm, tổ chức
đám cưới, sống chung hay nhập quốc tịch của những quốc gia thừa nhận kết
hôn đồng giới để kết hôn không còn là một vấn đề mới mẻ. Tuy xã hội đã cởi
mở hơn với những người đồng tính nhưng thực tế họ vẫn còn chịu đựng sự
thiệt thòi, sự kì thị, đối xử bất công trong các quan hệ xã hội. Bởi lẽ chưa có
cơ sở pháp lý phù hợp ghi nhận và bảo đảm các quyền của người đồng tính.
Không lý do gì họ không có được những quyền đáng được có. Vì đồng tính
không phải là bệnh có thể chữa trị, và người đồng tính cũng không có quyền
lựa chọn được giới tính, càng không thể thay đổi xu hướng tình dục của mình.
Vậy nên, những người đồng tính cần được xã hội nhìn nhận, thừa nhận, bảo
vệ, và cần được đối xử bình đẳng, được tự do sống đúng với con người thật
của mình vì “mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ
những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống,
quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc” [40].
Năm 2001, từ khi Hà Lan trở thành nước đầu tiên hợp pháp hóa hôn
nhân đồng tính và cho phép các cặp đồng tính có quyền kết hôn, ly hôn và
nhận con nuôi thì phong trào đòi quyền con người của người đồng tính ngày
một phổ biến. Cho đến nay, phong trào này không có dấu hiệu dừng lại ở thế
giới, trong đó có Việt Nam và là một trong vấn đề gây nhiều tranh cãi liên
quan đến lĩnh vực quyền con người. Tính đến tháng 06/2019, Trung Hoa Dân
Quốc (hay còn gọi là Đài Loan) đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào
ngày 24 tháng 5 năm 2019 và trở thành quốc gia châu Á đầu tiên - quốc gia
thứ 29 hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Việt Nam cũng đang trong quá trình
xây dựng, bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người bằng việc tham gia các công


1


ước quốc tế về quyền con người, quy định về quyền con người nói chung và
quyền của người đồng tính nói riêng đã được ghi nhận trong các văn bản quy
phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao
động, luật Hôn nhân Gia đình... Tuy nhiên, các quy định này còn chưa phù
hợp với quy luật vận động phát triển của xã hội trong nước cũng như quá
trình hội nhập quốc tế. Dù pháp luật đã có tính cởi mở trong việc đảm bảo các
quyền con người nhưng trên thực tế vẫn không thể đảm bảo được hết các
quyền của những người đồng tính. Thực tiễn các quan hệ xã hội phát sinh
những năm gần đây cho thấy các nhu cầu về mong muốn kết hôn, tình trạng
phân biệt đối xử còn phổ biến, nhiều quan hệ mới phát sinh cần phải được
điều chỉnh. Vì vậy, việc xây dựng cơ sở pháp lý là vô cùng quan trọng và cần
thiết nhằm đảm bảo và thực thi các quyền của người đồng tính.
Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “quyền của người đồng tính
theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với
mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền của người
đồng tính, từ đó chỉ ra những bất cập và hạn chế đối với quy định của pháp
luật về quyền của nhóm người này để đưa ra các giải pháp sửa đổi, bổ sung,
bảo vệ quyền của người đồng tính phù hợp với thực tiễn xã hội trong nước và
nhân quyền quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến
quyền của người đồng tính. Trước tiên phải kể đến những công trình nghiên
cứu liên quan đến quyền con người tạo tiền đề cho việc nghiên cứu quyền của
người đồng tính như: Giáo trình Quyền con người của GS.TS Võ Khánh Vinh
xuất bản năm 2011; Sách chuyên khảo Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con
người của GS.TS Võ Khánh Vinh xuất bản năm 2011; Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội xuất


2


bản năm 2009; Giáo trình Giới thiệu về các văn kiện quốc tế về quyền con
người của Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người và Quyền công dân của
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011.
Về các công trình nghiên cứu về quyền của người đồng tính thì chúng ta
phải kể đến các bài nghiên cứu tiêu biểu đó là: Pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới về quyền của người đồng tính của tác giả Trương Hồng Quang;
Quyền con người được sống theo đúng giới tính của mình của tác giả Cao Vũ
Minh;
Về các bài báo, sách và báo cáo nghiên cứu về quyền của người đồng
tính, song tính, chuyển giới: “Pháp luật quốc tề về quyền con người đồng
tính, song tính, chuyển giới”, “Sách chuyên khảo tìm hiểu quyền của người
đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính ở Việt Nam” của tác giả
Trương Hồng Quang; Báo cáo về tình hình quyền con người của người đồng
tính, song tính và chuyển giới (“LGBT”) tại Việt Nam (tháng 1-2 năm 2014)
của viện nghiên cứu Kinh tế, Xã hội và Môi trường; “Tiếp cận dựa trên quyền
trong việc xây dựng, thực hiện pháp luật về quyền của người đồng tính, song
tính và chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam” của tác giả Trương Hồng Quang
trong Hội thảo khoa học Tiếp cận dựa trên quyền: Lý luận, thực tiễn trên thế
giới và ở Việt Nam”do Khoa luật (ĐHQG Hà Nội) tổ chức tại Hà Nội ngày
18/11/2015.
Về các luận văn thạc sĩ nghiên cứu quyền của người đồng tính thì có các
công trình như: Luận văn ThS. Luật “Quyền của người đồng tính, song tính,
chuyển giới trong Pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thùy Dung;
“Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn”- Luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Nguyễn Thị Minh Tâm; Quyền của người đồng tính, song tính và
chuyển giới: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam của tác giả Lê

Thanh Tùng và Luận văn Thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Ngọc Anh về Hoàn thiện

3


pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính hiện nay và Luận án Tiến sĩ Luật
Hành chính - Hiến pháp của tác giả Trương Hồng Quang về Quyền của người
đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính theo Pháp luật Việt Nam
hiện nay bảo vệ năm 2019 tại Học viện Khoa học Xã hội.
Về các văn kiện quốc tế nghiên cứu về các quyền của người đồng tính,
song tính và chuyển giới (viết tắt là LGBT) bao gồm các công trình như: Bộ
nguyên tắc Yogyakarta, Bản Tuyên bố chung trong việc chấm dứt bạo lực và
vi phạm nhân quyền dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới (Joint
statement on ending acts of violence and related human rifhts violations based
on sexual orientation and gender identity), Nghị quyết 17/19 (17/19 Human
rights, sexual orientation and gender A/HRC/RES/17/1) của Hội đồng Nhân
quyền LHQ thông qua tháng 6/2011, cẩm nang Sinh ra tự do và bình đẳng Xu hướng tính dục và Bản dạng giới trong Luật Nhân quyền quốc tế (Born
Free Equal - sexual Orientation and Gender Identity in International Human
Rights Law).
Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề về quyền của người đồng tính vẫn chưa
được nghiên cứu sâu ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trên chỉ mới tiến
hành nghiên cứu các quyền của cộng đồng LGBT nói chung hoặc nghiên cứu
về quyền của người đồng tính trên thế giới từ đó so sánh và xây dựng bài học
cho Việt Nam trong việc xây dựng các quyền. Tuy nhiên, người đồng tính,
song tính và người chuyển giới khác nhau về bản chất, vì vậy các nghiên cứu
này chưa thể phân tích sâu về quyền của người đồng tính, mà chỉ dừng lại ở
mức độ chung nhất các quyền của nhóm người này. Đồng thời, hầu hết các
bài báo khoa học và luận văn thạc sĩ được xây dựng trước năm 2015 khi luật
hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Hình sự 2015
chưa có hiệu lực, và còn nhiều khía cạnh pháp luật đổi mới cũng như các

quan hệ xã hội phát sinh chưa cần được tìm hiểu và phân tích. Trên cơ sở kế

4


thừa các công trình nghiên cứu trước đây, tác giả mong muốn luận văn này sẽ
góp phần làm cơ sở lý luận khoa học trong việc xây dựng quyền của người
đồng tính tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặc biệt là quyền tự do hôn
nhân và quyền không bị phân biệt đối xử trong các quan hệ pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn góp
phần trong việc đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng, sửa đổi các quy định của
pháp luật để bảo vệ quyền của người đồng tính ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ những vấn đề trên, Luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ
chính sau đây:
Thứ nhất: Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về quyền của người đồng tính
theo pháp luật Việt Nam;
Thứ hai, Phân tích thực trạng các quan hệ xã hội phát sinh liên quan đến
người đồng tính hiện nay, đồng thời luận giải các quy định của pháp luật để
chỉ ra những điểm bất cập cần được hoàn thiện và sửa đổi;
Thứ ba, Đưa ra các nhóm giải pháp đảm bảo quyền của người đồng tính
được thực thi trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng quan hệ xã hội liên quan
đến người đồng tính và quyền của người đồng tính, các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện nay về quyền của người đồng tính cũng như các văn kiện
pháp lý quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới có liên quan.


5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận văn nghiên cứu các số liệu dựa
trên cáo cuộc khảo sát và các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành từ
giai đoạn năm 2014 đến năm 2019
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Pháp luật Việt Nam liên quan đến
các nhóm quyền của người đồng tính. Có rất nhiều nhóm quyền của người
đồng tính cần phải được nghiên cứu, nhưng tác giả tập trung vào các quyền
như quyền tự do hôn nhân, quyền không bị phân biệt đối xử trong đời sống
Chính trị, Dân sự, Kinh tế, Văn hóa - Xã hội và các quyền trong lĩnh vực
Hình sự nhằm đảm bảo chất lượng cho Luận văn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác Lê - Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền công dân cũng
như các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hơp tài liệu: Được sử dụng để phân tích các
báo cáo khoa học, các công trình nghiên cứu đã được công bố, các sách
chuyên khảo, các khảo sát có liên quan đến đề tài luận văn để làm rõ các khái
niệm và cơ sở lý luận của đề tài trong chương 1.
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp số liệu: Được sử dụng trong
chương 2 để phân tích thực trạng người đồng tính hiện nay và quy định của
pháp luật hiện hành liên quan đến quyền của người đồng tính.
Phương pháp phân tích, so sánh, mô hình giả định: Được sử dụng để đưa
ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của

người đồng tính ở chương 3.

6


Luận văn cũng sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, xã hội học,
so sánh đánh giá để làm rõ các vấn đề. Luận văn sử dụng các thông tin đã
được công bố trên thế giới và Việt Nam để chứng minh cho luận điểm của
mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
Về cơ sở lý luận: Luận văn làm rõ các khái niệm liên quan đến người
đồng tính và quyền của người đồng tính, cung cấp những kiến thức khoa học
mang tính lý luận và thực tiễn về người đồng tính và quyền của người đồng
tính; giúp cho người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện nhất về người đồng
tính và các quyền chính đáng cần được pháp luật và xã hội thừa nhận, bảo vệ.
Về mặt thực tiễn: Luận văn cũng mang tính đóng góp cơ sở lý luận trong
quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội liên quan đến người đồng tính.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn chia làm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về người đồng tính và quyền của người đồng
tính
Chương 2: Thực trạng quyền của người đồng tính theo pháp luật Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Tăng cường bảo đảm quyền của người đồng tính ở Việt Nam
hiện nay

7



Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐỒNG TÍNH VÀ
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH
1.1. Hệ thống các khái niệm
1.1.1. Khái niệm xu hướng tính dục
Trước đây, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về người đồng tính. Bên
cạnh một số quan điểm cho rằng đồng tính là một giới tính thứ ba bên cạnh
giới tính nam và nữ thì một số khác lại cho rằng đồng tính là một hiện tượng
trái với các quy luật tự nhiên, một căn bệnh có thể lây lan và có khả năng
chữa trị nếu áp dụng các biện pháp y học và thực hiện phương pháp điều trị.
Cùng với các quan điểm khắt khe về đồng tính, thì quá trình nghiên cứu và sự
phát triển về y học đã đưa ra những quan điểm mới về đồng tính và người
đồng tính. Theo đó, đồng tính được cho là một điều hoàn toàn tự nhiên của
con người, là bản năng và không thể thay đổi bởi sự tác động của các yếu tố
bên ngoài. Trước khi tìm hiểu như thế nào là người đồng tính, người đồng
tính khác những người “bình thường” như thế nào thì chúng ta phải hiểu như
thế nào là xu hướng tính dục?
Xu hướng tính dục là cụm từ dùng để “chỉ việc chịu sự hấp dẫn (có tính
bền vững) về tình cảm, sự lãng mạn, trìu mến và hấp dẫn về tình dục của một
người đối với đối tượng nào đó” [53]. Do đó việc một người bị hấp dẫn về
mặt tình cảm có thể diễn ra giữa những người khác giới với nhau hoặc cũng
có thể xảy ra giữa những người cùng giới tính sinh học với mình, thậm chí có
thể bị hấp dẫn bởi cả hai hoặc không bị hấp dẫn bởi bất kỳ một giới tính nào.
Theo các nghiên cứu đã được công bố, hiện nay có các xu hướng tính dục sau:
(1) Xu hướng tính dục phổ biến nhất hiện nay chính là xu hướng tính dục
khác giới (hay còn gọi là những người có xu hướng tính dục dị tính) là khả
năng một người nào đó bị hấp dẫn cả về mặt tình dục và tình cảm đối với

8



người khác giới, không bao giờ mong muốn mình mang một giới tính khác
với giới tính được sinh ra. Đây là xu hướng tính dục chủ yếu được Việt Nam
và nhiều quốc gia khác trên thế giới làm tiêu chuẩn cho các quan niệm về gia
đình, đó là hôn nhân giữa những người khác giới bị hấp dẫn về mặt tình cảm
và cảm xúc, mong muốn gắn bó lâu dài với nhau và không mong muốn thay
đổi giới tính của mình.
(2) Xu hướng tính dục phổ biến thứ hai hiện nay là xu hướng tính dục
cùng giới đó là việc một người bị hấp dẫn về mặt tình cảm với người cùng
giới tính với mình, không bao giờ mong muốn mình có giới tính khác giới
tính mình được sinh ra. Xu hướng tính dục đồng tính xuất hiện ở nam giới
(gọi là gay) và nữ giới (gọi là lesbian) và gọi chung là xu hướng tính dục đồng
tính. Những người có xu hướng tính dục đồng tính về bản chất họ hoàn toàn
hài lòng với giới tính mà mình được sinh ra, hài lòng với cơ thể mình đang sỡ
hữu, không có nhu cầu thay đổi giới tính, tuy nhiên về mặt tình cảm và khả
năng bị hấp dẫn lâu dài thì họ chị bị hấp dẫn bởi những người cùng giới tính
sinh học với mình.
(3) Xu hướng tính dục thứ ba là xu hướng tính dục song tính. Đây là xu
hướng tính dục của một người có thể bị hấp dẫn bởi cả hai giới tính là giới
tính nam và cả giới tính nữ và không mong muốn mình có giới tính sinh học
khác với giới tính mình được sinh ra. Trước đây, những người có xu hướng
tính dục này được gọi là người lưỡng tính. Tuy nhiên nếu sử dụng thuật ngữ
này để chỉ những người mang hai xu hướng tính dục (vừa đồng tính vừa dị
tính) sẽ dẫn đến việc gây hiểu nhầm người này có cả hai giới tính vừa nam
vừa nữ nên vừa có thể thích nam và vừa có thể thích nữ. Do đó cần xét về bản
chất, xu hướng tính dục song tính là việc họ mang trong mình một giới tính
duy nhất hoặc là nam, hoặc là nữ nhưng lại bị hấp dẫn và có tình cảm với
những người cùng giới và cả những người khác với giới tính của mình. Vì


9


vậy, cần sử dụng chính xác thuật ngữ xu hướng tính dục song tính để chỉ
những người bị hấp dẫn bởi cả hai xu hướng tính dục này.
(4) Xu hướng tính dục vô tính là xu hướng tính dục dùng để chỉ những
người không bị hấp dẫn bởi bất kỳ cứ giới tính nào. Đây là xu hướng tính dục
còn mang nhiều tranh cãi, vì việc xác định xu hướng tính dục của một người
xem việc người đó có bị hấp dẫn bởi giới tính nào hay không thường phụ
thuộc vào yếu tố chủ quan nên việc một người có hay không bị hấp dẫn bởi
giới tính nào rất khó xác định trên thực tiễn. Đối với những người vô tính vì
không bị hấp dẫn và có tình cảm với bất kỳ giới tính nào, nên họ thường
mong muốn có một người bạn đời để chia sẻ, còn những vấn đề về tình dục,
tình yêu đối với họ như là một điều xa lạ. Việc hình thành và phát triển các xu
hướng tính dục này tuân theo các quy luật tự nhiên và là một hiện tượng hết
sức tự nhiên của con người. Nhưng quá trình hình thành, phát triển và lộ diện
của nó tiến triển một cách chậm chạm phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Năm 1973, Hiệp hội tâm lý Hoa Kỳ (APA) đã loại đồng tính ra khỏi
danh sách những bệnh tâm thần, đồng thời khẳng định “Bản chất của đồng
tính luyến ai không bao hàm sự suy yếu về mặt nhận thức, sự ổn định, độ tin
cậy, khả năng trong các mối quan hệ xã hội hoặc ngành nghề nói chung”
đồng thời kêu gọi các chuyên gia sức khỏe hàng đầu loại bỏ đồng tính ra khỏi
những bệnh tâm thần [45]. Đến năm 2001, sau 5 năm nghiên cứu, Hiệp hội
Tâm thần Trung Quốc cũng đã loại bỏ đồng tính khỏi danh sách các bệnh tâm
thần không chữa khỏi và khẳng định đồng tính là một xu hướng tính dục hoàn
toàn tự nhiên của con người, đồng thời khẳng định đây cũng không phải là
giới tính thứ ba bên cạnh giới tính nam và giới tính nữ [45]. Và đồng tính
chính thức được Tổ chức Y tế Thế giới - cơ quan của Liên Hợp Quốc cố vấn
cho các nước về lĩnh vực y tế đã loại bỏ đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh


10


tâm thần đồng thời khẳng định “mọi người đều có quyền bình đẳng, bất kể
thiên hướng tính dục như thế nào” và được thông qua trong nghị quyết Hội
đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc vào tháng 6/2011.
Trong xã hội hiện nay, xu hướng tính dục dị tính chiếm phần đông đảo,
do đó, con người vẫn luôn cho rằng đồng là đi ngược lại với quy luật tự nhiên
của con người. Tuy nhiên, những động thái này đã khẳng định đồng tính chỉ
là một xu hướng tính dục chiếm số ít bên cạnh các xu hướng tính dục khác
như dị tính, lưỡng tính và vô tính. Do đó, việc một người mang trong mình
giới tính nam, hoặc nữ có thể có xu hướng tính dục song tính, dị tính, vô tính
hoặc đồng tính.
Việc cho rằng đồng tính, vô tính hay song tính là trái với tự nhiên dẫn
đến việc kỳ thị thị đối với những xu hướng tính dục ngoài xu hướng tính dục
dị tính, thậm chí một số quốc gia hình sự hóa đối với những người đồng tính
chính là lý do khiến những người mang xu hướng tính dục ngoài dị tính
không thể công khai xu hướng tính dục của mình. Không những chỉ chiếm số
lượng ít trong xã hội, mà việc đa số công chúng tiếp cận các kiến thức, sự
hiểu biết trên phương tiện không chính thống về người đồng tính hoặc chưa
có hiểu biết một cách chính xác về xu hướng tính dục nên dẫn đến tình trạng
kỳ thị những người có xu hướng tính dục đồng tính. Cũng vì áp lực từ phía
gia đình, xã hội mà nhiều người đã cố gắng thay đổi xu hướng tính dục của
mình sang xu hướng tính dục dị tính nhưng xu hướng tính dục lại không thể
thay đổi dựa vào ý chỉ chủ quan của con người.
Như vậy, cần một lần nữa khẳng định rằng xu hướng tính dục là việc
một người chịu sự hấp dẫn về tình cảm, cảm xúc, sự lãng mạn, trìu mến của
một người với một đối tượng nào đó có thể cùng, khác với giới tính sinh học
của mình hoặc không bị hấp dẫn bởi giới tính nào. Xu hướng tính dục không

phải là một căn bệnh có thể chữa trị, càng không phải là lựa chọn có ý thức

11


của mỗi người và không thể nỗ lực trong việc thay đổi xu hướng tính dục của
mình.
1.1.2. Khái niệm giới tính và bản dạng giới
1.1.3.1. Khái niệm giới tính
Giới tính (sex) là khái niệm dùng để chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về
mặt sinh học, gen và các yếu tố di truyền khác. Do đó, giới tính được xác định
là các đặc điểm sinh học tạo nên sự khác biệt giữa nam và nữ, bao gồm các
yếu tố bẩm sinh, mang tính đồng nhất, do yếu tố sinh học quyết định và không
thể thay đổi được giữa nam và nữ. Ví dụ phụ nữ có bộ phận sinh dục nữ, có
thể mang thai, cho con bú, còn nam giới có thể sản xuất tinh trùng từ bộ phân
sinh dục của mình.
Giới tính có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, giới tính hoàn toàn được quy định hoàn toàn bởi gen, cụ thể là
hai cặp nhiễm sắc thể XY và XX. Trong đó XY là cặp nhiễm sắc thể của nam
giới, còn XX là cặp nhiễm sắc thể quy định cho nữ giới.
Thứ 2, giới tính là yếu tố bẩm sinh, không bị thay đổi bởi yếu tố bên
ngoài. Giới tính là yếu tố không phụ thuộc vào yếu tố không gian, thời gian
hay bất kì tác động từ bên ngoài nào. Giới tính phát triển và duy trì ổn định ở
bất kì giai đoạn phát triển nào, được biểu hiện ra bên ngoài và có thể quan sát
được, gắn liền với chức năng sinh học của con người. Quá trình này thay đổi
theo quy luật sinh học, không phụ thuộc vào mong muốn hay ý chí chủ quan
của con người.
Do đó giới tính sinh học của một người được hiểu là các yếu tố bẩm sinh
được quy định bởi các yếu tố sinh học, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của con người, không chịu sự tác động của các yếu tố bên ngoài và không thể

thay đổi qua các giai đoạn phát triển.

12


1.1.3.2. Khái niệm bản dạng giới
Đối với người đồng tính, khi sinh ra họ có nhận thức về giới tính của
mình là nam hoặc nữ và có tình cảm đối với những người cùng giới tính,
không mong muốn mình có giới tính khác với giới tính mình được sinh ra.
Nhưng bên cạnh đó, nhiều người khi sinh ra sau một quá trình phát triển, họ
cảm nhận mình mang một giới tính hoàn toàn khác so với giới tính mình đang
có. Những người mang nhận thức giới tính khác so với giới tính của mình, có
nhu cầu chuyển đổi thành một giới tính khác để giới tính sinh học phù hợp
với nhận thức về giới tính của bản thân, những người này chúng ta thường gọi
là người chuyển giới. Như vậy bên cạnh những người có giới tính sinh học
phù hợp với giới tính do mình tự cảm nhận thì vẫn có những người cảm thấy
giới tính của mình được sinh ra không giống với nhận thức về giới tính của
bản thân. Nên việc một người nhận thức hoặc tự nhận mình mang một giới
tính nào đó (có thể giống hoặc khác giới tính mà mình được sinh ra) được gọi
là bản dạng giới. Một người có nhận thức, mong muốn có giới tính khác với
giới tính mình được sinh ra là điều hết sức bình thường và là một thực trạng
đang diễn ra rất phổ biến trong xã hội hiện nay. Nhận thức về giới không nhất
thiết phụ thuộc vào giới tính sinh học hoặc giới tính mà người khác cảm nhận
cũng như xu hướng tính dục mà là dựa vào giới tính tự xác định của người đó
tự xác định mình có thể là nam hoặc nữ.
Tác giả đưa ra khái niệm bản dạng giới ở đây để người đọc không bị
nhầm lẫn với khái niệm về xu hướng tính dục để phân biệt người đồng tính
với khái niệm chuyển giới. Bởi lẽ trước đây và hiện nay vẫn vậy, nhiều người
cho rằng những người đồng tính là những người cùng giới tính sinh học họ
yêu nhau vì cho rằng giới tính sinh học được sinh ra khác với giới tính họ cảm

nhận, nên khi những người đồng tính thực hiện chuyển đổi giới tính thì có thể
yêu khác với giới tính sau khi chuyển đổi. Tuy nhiên những người đồng tính

13


không mong muốn mình có một giới tính khác với giới tính mình được sinh ra
nên họ không có nhu cầu chuyển đổi giới tính của mình. Do đó tác giả làm rõ
hai khái niệm này để người đọc có thể hiểu rõ hơn về khái niệm xu hướng
tính dục và bản dạng giới để tránh cách hiểu sai lầm về hai khái niệm này,
cũng như phân biệt giữa người đồng tính và người chuyển đổi giới tính. Tuy
nhiên trong nội dung luận văn này, tác giả chỉ đề cập và phân tích các quyền
của người đồng tính với xu hướng tính dục đồng tính.
1.1.3. Khái niệm người đồng tính
Từ việc phân tích khái niệm giới tính, bản dạng giới cũng như xu hướng
tính dục nêu trên, chúng ta có thể hiểu đồng tính là một trong các xu hướng
tính dục của con người và không liên quan đến vấn đề giới tính. Ngoài xu
hướng tính dục dị tính chiếm số lượng đông đảo thì các xu hướng tính dục
còn lại chiếm số lượng nhỏ và không phải lúc nào cũng được bộc lộ và có thể
nhận biết một cách dễ dàng thông qua các yếu tố bên ngoài. Như vậy, một
người mang giới tính nam, hoặc nữ đều có thể mang xu hướng tính dục đồng
tính, hoặc dị tính, hoặc song tính hoặc là vô tính. Đây hoàn toàn không phải
lựa chọn mà nó xuất hiện với bản chất tự nhiên, không phụ thuộc ý chí của
con người, xuất hiện khi con người sinh ra và bộc lộ theo một giai đoạn nhất
định.
Đồng tính là viết tắt của cụm từ đồng tính luyến ái (homosexual), người
đồng tính là những người bị hấp dẫn về mặt tình cảm bởi những người cùng
giới tính, họ hoàn toàn thỏa mãn và hài lòng với giới tính mình được sinh ra,
không có mong muốn có giới tính khác với giới tính của mình. Trong đó nam
giới là người đồng tính nam (thường gọi là gay) và nữ giới gọi là đồng tính nữ

(thường gọi là “lesbian”) và gọi chung là người đồng tính. Dưới góc độ khoa
học, thì đồng tính không phải là sự rối loạn tâm sinh lý mà là hiện tượng tự
nhiên. Tuy nhiên, Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà khoa

14


học về nguyên nhân xuất hiện đồng tính. Một số nghiên cứu cho rằng đồng
tính xuất hiện do chịu sự tác động qua lại của yếu tố di truyền và môi trường
tử cung của người mẹ trong giai đoạn đầu ở thai nhi, do ảnh hưởng một phần
từ yếu tố tự nhiên và nuôi dưỡng, hay yếu tố di truyền đều có thể là nguyên
nhân xuất hiện đồng tính [45]. Nên một người sinh ra đều có thể mang trong
mình xu hướng tính dục dị tính, đồng tính, song tính hoặc vô tính. Vậy cũng
như những cặp đôi dị tính khác, các hành vi tình dục của những người đồng
giới hay quan hệ yêu đương đồng giới là một trong những các dạng thức gắn
bó để đáp ứng nhu cầu của con người về tình yêu, sự quan tâm và thể hiện sự
gắn bó và là nhu cầu hạnh phúc cơ bản nhất của con người.
Dẫu vậy, cho đến nay vẫn còn nhiều người lầm tưởng khái niệm đồng
tính rằng đó là một giới tính đi ngược lại giới tính tự nhiên của con người, là
một sự rối loại tâm sinh lý. Nhiều người còn cho rằng đối với những người
đồng tính nam, và những người đồng tính nữ, bị hấp dẫn bởi những người
cùng giới tính là đến từ nguyên nhân không đồng nhất giữa cơ thể và tâm lý,
do đó có thể chữa bệnh đồng tính bằng cách thực hiện phẫu thuật chuyển đổi
giới tính. Những người thực hiện chuyển đổi giới tính là do nhận thức bản
dạng giới về giới tính của mình khác với giới tính được sinh ra như tác giả đã
phân tích ở trên, do đó thực hiện việc chuyển đổi để phù hợp với giới tính họ
mong muốn. Nên việc một người có nhận thức bản dạng giới khác giới tính
được sinh ra có tình cảm với một người cùng giới tính của mình thì không
phải là người đồng tính mà điều này liên quan đến nhận thức về giới tính hay
còn gọi là bản dạng giới. Do đó bản dạng giới không phải là xu hướng tính

dục và không thể xem họ là người đồng tính.
Từ việc phân tích trên, có thể kết luận rằng người đồng tính không phải
là người mang các bệnh rối loạn tâm thần mà là một cá nhân mang một giới
tính nhất định không phải giới tính thứ ba, không phải trào lưu và cũng không

15


phải căn bệnh có thể lây lan và phụ thuộc vào mong muốn của mỗi người. Mà
người đồng tính gắn liền với xu hướng tính dục đồng tính, họ bị hấp dẫn về
tình cảm, sự lãng mạn, tình dục với những người cùng giới tính sinh học,
mong muốn gắn bó lâu dài với những người cùng giới tính, không có nhu cầu
thay đổi giới tính khác với giới tính sinh học của mình.
1.2. Vị trí quyền của người đồng tính trong hệ thống pháp luật về
quyền con người
Người đồng tính cũng như các chủ thể khác trong xã hội, đều là cá nhân
được sinh ra, tồn tại, được xã hội công nhận và tôn trọng, do đó quyền của
người đồng tính cũng chính là các quyền cơ bản của con người. Vì vậy trước
khi tìm hiểu về vị trí quyền của người đồng tính trong hệ thống pháp luật về
quyền con người, trước hết chúng ta cần hiểu quyền con người là gì?
Quyền con người (human rights) là một phạm trù rộng, với nhiều cách
định nghĩa khác nhau được đưa ra. Theo tài liệu của Liên Hợp Quốc, có đến
gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố. Mỗi định nghĩa tiếp
cận ở mỗi góc độ khác nhau nên chỉ chỉ ra được những thuộc tính nhất định
không bao hàm được tất cả nội dung về quyền con người. Tính phù hợp của
mỗi định nghĩa phụ thuộc vào ý chí chủ quan của mỗi cá nhân. Tuy nhiên
khái niệm về quyền còn người được trích dẫn chủ yếu nhất hiện nay là khái
niệm được đưa bởi Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc. Theo đó “Quyền con
người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions)

hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được
phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người”
[56, Tr8]. Bên cạnh định nghĩa này, một định nghĩa khác cũng được trích dẫn
thường xuyên được đưa ra, trong đó khái quát quyền con người là những sự
được phép (entitlements) mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại,

16


không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ
khi sinh ra, đơn giản vì họ là con người.
Ở Việt Nam, nhiều tác giả cũng đã nghiên cứu, phân tích và đưa ra nhiều
định nghĩa khác nhau về quyền con người. Một số tác phẩm tiêu biểu trong số
đó là Giáo trình lý luận và Pháp luật về quyền con người đã định nghĩa
“Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế” [3, Tr8]. Do đó, dù quyền con người được tiếp cận ở góc độ nào đi
chăng nữa thì về bản chất, quyền con người được hiểu là những nhu cầu và lợi
ích tự nhiên, vốn có, được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế. Những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa
nhận và tuân thủ, thể hiện giá trị nhân văn của nhân loại được áp dụng cho tất
cả mọi người. Trên cơ sở đó, ai cũng có quyền được bảo vệ và phát triển với
tư cách là một con người, là những giá trị cao cả cần được tôn trọng, bảo vệ
trong mọi giai đoạn phát triển của lịch sử.
Từ phân tích nêu trên, có thể hiểu quyền của người đồng tính cũng là
những nhu cầu, khả năng và các đặc quyền tự nhiên vốn có của con người.
Điều này được thể hiện qua sự công bằng ở quyền được sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc và các quyền cơ bản khác. Mang bản chất là quyền
con người, do đó, quyền của người đồng tính cũng có những đặc điểm chung
của quyền con người bên cạnh những đặc điểm riêng biệt:

Thứ nhất, quyền của người đồng tính chính là quyền con người
Người đồng tính cũng là các chủ thể trong mối quan hệ với quyền con
người, vì vậy họ cũng có những quyền cơ bản như quyền được đối xử công
bằng, quyền được tự do, và một trong những quyền quan trọng nhất là quyền
được công nhận và tôn trọng.

17


Hiện nay, chúng ta cần có cách nhìn nhận đúng đắn, chính xác hơn, toàn
diện hơn đối với những người đồng tính. Người đồng tính cũng cần được đảm
bảo các quyền về tự do, và tự do công khai xu hướng tính dục, tự do hôn nhân
là thể hiện một phần quyền tự do của người đồng tính. Tuy nhiên, thực tế khi
những người đồng tính công khai xu hướng tính dục, họ thường bị kì thị từ
phía gia đình, xã hội và những người được công khai. Công khai để sống
đúng bản chất con người, được xã hội tôn trọng và được mưu cầu hạnh phúc,
đó cũng là thể hiện quyền tự do của con người bằng khả năng tìm khiếm hạnh
phúc, giá trị và nhu cầu về mặt tình cảm của bản thân. Một trong những khía
cạnh thể hiện quyền được hạnh phúc đó là việc được tự do hôn nhân, xây
dựng gia đình và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quan hệ hôn nhân đó. Tuy
nhiên, đây chính là vấn đề trở ngại nhất đối với các quyền của người đồng
tính vì bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa, đạo đức và các quan
niệm truyền thống dẫn đến sự khó chấp nhận, thậm chí phản đối gay gắt
quyền kết hôn giữa những người đồng tính. Đối với người đồng tính hiện nay
đã xuất hiện các hình thức chung sống hợp pháp như: Cho phép kết hôn đồng
tính, công nhận hình thức kết hợp dân sự. Với các hình thức kết hợp dân sự,
những cặp đôi đồng tính được xem như những cặp vợ chồng. Nhưng thực tế
quyền của họ cũng bị hạn chế hơn những cặp vợ chồng dị tính khác như việc
hưởng các chính sách xã hội, thuế, cũng như quyền nhận nuôi con nuôi hay
thừa kế. Và đa phần hình thức kết hợp dân sự chỉ áp dụng trong phạm vi hẹp,

gây khó khăn trong việc thay đổi nơi cư trú của những cặp đồng tính. Không
những thế, các quyền của người đồng tính còn bị hạn chế bởi các yếu tố như
chính trị, truyền thống, văn hóa, xã hội, tôn giáo của mỗi quốc gia và khu vực.
Thứ hai, để đảm bảo thực hiện các quyền con người của người đồng tính,
cần có một sự bảo đảm pháp lý tương đối đặc biệt cho đối tượng này
Người đồng tính cũng như các chủ thể khác trong xã hội đều có các

18


quyền và nghĩa vụ như một công dân thực thụ trong pháp luật của mỗi quốc
gia. Tuy nhiên, vì là nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội, cũng như các
nhóm người dễ bị tổn thương khác, người đồng tính thường gặp khó khăn khi
thụ hưởng các quyền con người của mình. Vì thế, để đảm bảo cho người đồng
tính được thụ hưởng các quyền của mình một cách bình đẳng như các đối
tượng khác trong xã hội, cần có một sự bảo đảm pháp lý để người đồng tính
có thể thực hiện được một số quyền đặc thù như quyền kết hôn đồng tính
(hiện nay mới chỉ thừa nhận ở một số nước), quyền được bảo vệ chống lại sự
kỳ thị, sự phân biệt đối xử. Như vậy người đồng tính là đối tượng cần được
bảo vệ để họ có thể thụ hưởng một số quyền con người của mình. Nên cần
phải có sự pháp điển hoá đối với một số quyền của người đồng tính.
Thứ ba, về bản chất, quyền của người đồng tính vừa mang bản chất
quyền của nhóm người dễ bị tổn thương, vừa mang bản chất quyền cá nhân
cần được công nhận và bảo vệ để bảo đảm giá trị xã hội và nhân đạo của pháp
luật. Nhóm người đồng tính, song tính, vô tính và liên giới tính nói chung và
người đồng tính nói riêng là nhóm người có xu hướng tính dục thiểu số trong
xã hội và đang phải đối mặt với sự kì thị và phân biệt đối xử. Đối với nhóm
người đồng tính bao gồm những đối tượng thuộc các nhóm người dễ bị tổn
thương (Có thể hiểu là các cộng đồng hoặc nhóm người có vị thế chính trị, xã
hội thấp hơn đa số, khiến họ có nguy cơ bị bỏ quên hay bị vi phạm quyền. Bởi

vậy họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với nhóm, cộng đồng người khác”.
Các nhóm người dễ bị tổn thương gồm: trẻ em, phụ nữ, người lao động di trú,
người thiểu số...). Hơn nữa, người đồng tính có xu hướng tính dục thuộc về số
ít và cũng có thể rơi vào đối tượng là trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật…nên
người đồng tính vừa mang tính cá nhân, vừa mang yếu tố nhóm người bị yếu
thế cần được xã hội quan tâm và bảo vệ.
Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, thì các văn kiện quốc về về quyền con

19


người đều đề cập đến quyền nhóm và quyền cá nhân. Nếu như quyền của
người đồng tính được pháp điển hóa trong các văn kiện pháp luật quốc tế và
các quyền của họ được thừa nhận như quyền được kết hôn giữa những người
cùng giới tính, quyền được nhận nuôi con nuôi, quyền không bị phân biệt dựa
trên bản dạng giới và xu hướng tính dục. Khi các quyền riêng biệt khác được
ghi nhận, được tiếp cận, được thực hiện và bảo vệ thi trên thực tế thì tính chất
dễ bị tổn thương sẽ bớt chồng chéo trong vấn đề bảo vệ quyền giữa các quyền
của các nhóm và cá nhân (vì trong bản chất phụ nữ, trẻ em, người già, người
thiểu số hay người khuyết tật đều có thể có xu hướng tính dục đồng tính và
thuộc đối tượng người đồng tính).
Qua sự phân tích nêu trên, có thể thấy quyền của người đồng tính là
những nhu cầu tự nhiên của con người bao gồm các quyền chung như mọi chủ
thể trong xã hội, ngoài ra còn có các quyền riêng biệt đặc thù, vừa mang bản
chất là quyền cá nhân, vừa mang bản chất là quyền của các nhóm người trong
xã hội. Dù là mang tính chất nhóm hay cá nhân, thì những người đồng tính
cũng cần được hưởng một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất các quyền và giá trị cơ
bản nhất mà một con người cần phải có.
1.3. Quyền của người đồng tính trong các văn kiện quốc tế và pháp
luật một số quốc gia

1.3.1. Quyền của người đồng tính trong một số văn kiện quốc tế
Các văn kiện quốc tế liên quan đến quyền và bảo vệ quyền của người
đồng tính trước hết phải kể đến Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn
thế giới về Nhân quyền
1.3.1.1. Hiến chương Liên Hợp Quốc
Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 đã trở thành một trong những
văn kiện quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc công nhận các
quyền con người được thể hiện ngay trong lời nói đầu của Hiến chương:

20


“Tuyên ngôn một lần nữa tin tưởng vào những quyền cở bản, nhân phẩm và
giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ” [7]. Không những
vậy, tại khoản 3, Điều 1, Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng “khuyến khích
phát triển sự tôn trọng trong các quyền của con người và các tự do cơ bản
cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn
giáo” [7, Điều 1]. Một trong những nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt của hiến
chương là bình đẳng, không có sự phân biệt giữa mọi cá nhân xuất phát từ
việc phân biệt đối xử về giới tính giữa nam và nữ. Mục đích đưa ra các
nguyên tắc này nhằm yêu cầu có sự đối xử công bằng không dựa vào giới
tính, dân tộc, tôn giáo và khẳng định các quyền tự do và bình đẳng giữa mọi
cá nhân trong xã hội. Là cơ sở để tạo tiền đề xây dựng và bảo vệ các quyền
con người và quyền của người đồng tính.
Mặc dù Hiến chương Liên Hợp Quốc là văn kiện quan trọng trong việc
khẳng định, bảo vệ và nâng cao các quyền con người, nhưng hiến chương chỉ
nêu ra các nguyên tắc, nội dung về quyền của con người mà chưa đề cập đến
trách nhiệm, nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc đảm bảo và thực
thi các quyền này. Sự phân biệt đối xử chỉ dựa trên nguyên tắc giới tính,
chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, do đó việc xuất hiện khái niệm xu hướng tính

dục tồn tại song song với xu hướng tính dục dị tính, thì chưa có quy định cụ
thể để bảo vệ người đồng tính khỏi sự phân biệt, đối xử này.
1.3.1.2. Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền
Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền của con
người được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm
năm 1948 tại Palais de Chailot, Pháp theo quyết định số 217A (III) và được
dịch ra 375 thứ ngôn ngữ khác nhau. Tuyên ngôn là công cụ pháp lý thể hiện
các quyền cơ bản mà con người được hưởng, đồng thời là khuôn mẫu chung
cho mỗi quốc gia, tổ chức, cá nhân về việc được tôn trọng các quyền tự do và

21


nhân quyền. Bản tuyên ngôn là khuôn mẫu chung cần đạt tới của tất cả mọi
quốc gia và dân tộc. Tinh thần của Tuyên ngôn nhân quyền là dùng truyền đạt
và giáo dục để nổ lực thúc đẩy các quốc gia thành viên tôn trọng các quyền
con người và các quyền cơ bản khác trong tuyên ngôn. Tại Điều 2, Tuyên
ngôn thế giới về Nhân quyền có nêu rõ: “Mọi người sinh ra đều tự do và bình
đẳng về nhân phẩm và các quyền” và “ai cũng được hưởng những quyền tự
do ghi trong bản Tuyên ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào,
như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan
niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ tình thân
trạng khác” [8, Điều 2]. Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền đã mở rộng đối
tượng trong việc cấm phân biệt đối xử bởi các “thân trạng khác”. Quy định
này có tính mở, vì vậy việc một người mang xu hướng tính dục hay bản dạng
giới khác cũng là đối tượng cần được bảo vệ, được hưởng các quyền tự do
trong bản Tuyên ngôn này. Và “mọi người” ở đây được hiểu là tất cả các cá
nhân bao gồm cả người đồng tính, dị tính, song tính hay vô tính đều được
hưởng những quyền như nhau. Tuy nhiên khi hưởng thụ những quyền của
mình cũng phải tuân thủ những hạn chế do pháp luật quy định và tôn trọng

của người khác cũng được thừa nhận, tôn trọng và đáp ứng những đòi hỏi
chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong xã hội dân
chủ được thỏa mãn [8, Điều 29]. Do đó, các quốc gia có thể lấy các chuẩn
mực đạo đức, truyền thống để cản trở cho việc đảm bảo các quyền của người
đồng tính trên cơ sở bảo đảm quyền chung cho tất cả các thành viên trong xã
hội.
1.3.1.3. Bộ nguyên tắc Yogyakarta
Một trong những văn kiện không thể không nhắc đến chính là Bộ nguyên
tắc Yogyakarta (the Yogyakarta principles) được phác thảo và ra mắt ngày 26
tháng 3 năm 2007 bởi các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, quyền con

22


người hàng đầu thế giới về xu hướng tính dục và bản dạng giới để bảo vệ
những người đồng tính trước tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử ngày càng
phổ biến. Bộ nguyên tắc Yogyakarta đã góp phần làm nên bản tuyên bố về xu
hướng tính dục và bản dạng giới của Liên Hợp Quốc năm 2008. Bộ nguyên
tắc Yogyakarta là bộ cẩm nang về quyền con người trên cơ sở áp dụng các
tiêu chuẩn pháp lý quốc tế có tính ràng buộc, trong đó xác định nghĩa vụ của
các quốc gia trong việc tôn trọng, bảo vệ và có các biện pháp, chính sách bảo
đảm thực hiện các quyền để mọi người sinh ra tự do và bình đẳng đều được
hưởng các quyền không phụ thuộc vào xu hướng tính dục và bản dạng giới.
Trong đó, vấn đề bảo vệ và đảm bảo các quyền của người đồng tính được thể
hiện một cách rõ nét nhất trong một số nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Quyền được thụ hưởng mọi quyền con người trên toàn
cầu. Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá, bất kể xu hướng
tính dục hay bản dạng giới đều được hưởng đầy đủ các quyền con người [55].
Nguyên tắc 2: Các quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử
Mọi người đều có quyền được thụ hưởng mọi quyền con người mà

không bị phân biệt đối xử vì khuynh hướng tính dục hay bản dạng giới của
họ. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ mà
không bị phân biệt đối xử vì những lý do trên, bất kể các quyền con người
khác có đồng thời bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt đối xử đó hay không [55].
Nguyên tắc 3: Quyền được công nhận trước pháp luật
Mọi người ở mọi nơi đều có quyền được công nhận là một cá nhân trước
pháp luật. Những cá nhân thuộc các nhóm khuynh hướng tính dục và bản
dạng giới khác nhau đều được hưởng năng lực pháp luật trong mọi lĩnh vực
đời sống. Khuynh hướng tính dục và bản dạng giới của riêng mỗi người là
một phần không thể tách rời với nhân cách của họ và là một trong những bộ
phận cơ bản nhất của sự quyết tâm cá nhân, phẩm giá tự và tự do. Không ai bị

23


×