Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Chính sách thuế trong quản lý kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.94 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN
CHÍNH SÁCH THUẾ TRONG QUẢN LÝ
KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn
Nhóm thực hiện
Lớp
Môn

: TS. Đỗ Anh Đức
: Nhóm 2
: K28 – QLKT 1
: Các công cụ Quản lý Kinh tế Vĩ mô

HÀ NỘI, THÁNG 01/2020


DANH SÁCH NHÓM 2
STT

Họ và tên

Mã học viên

1

Đỗ Thị Lâm Oanh (Nhóm trưởng)


19057142

2

Tưởng Thị Thanh Vinh

19057163

3

Vũ Văn Quỳnh

19057148

4

Lê Việt Phương

19057145

5

Đào Thu Phương

19057124

6

Kiều Mỹ Hoa


19057146

7

Tống Thế Sơn

KTCT


2019 - 2020 [Chính sách thuế trong quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam]
MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN VỀ THUẾ.......................................................................................1
1. 1 Nguồn gốc của thuế.........................................................................................1
1.2 Một số khái niệm..............................................................................................1
1.3 Đặc điểm của thuế............................................................................................2
1.3.1 Tính bắt buộc............................................................................................2
1.3.2 Tính không hoàn trả trực tiếp...................................................................3
1.3.3 Tính pháp lý cao........................................................................................3
1.4 Chức năng của thuế.........................................................................................3
1.4.1 Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước..........................3
1.4.2 Chức năng điều tiết kinh tế.......................................................................3
1.5 Phân biệt thuế và lệ phí, phí.............................................................................4
II. TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ TRONG ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MÔ....................6
2.1 Thuế đánh vào bên cung..................................................................................6
2.2 Thuế đánh vào bên cầu.....................................................................................8
III. CHÍNH SÁCH THUẾ TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM
....................................................................................................................................9
3.1 Thuế và tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam hiện nay.....................................9
3.2 Hệ thống thuế ở Việt Nam..............................................................................11
3.3 Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về thuế...................................................12

3.3.1 Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về thuế hiện nay..............................12
3.3.2 Nguyên tắc tổ chức hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về thuế............12
3.3.3 Quyền và nghĩa vụ của các cơ quan thuế...............................................12
3.4 Thu thuế ở Việt Nam......................................................................................13
3.4.1 Thuế trực thu...........................................................................................13
3.4.2 Thuế gián thu...........................................................................................14
3.5 Một số tồn tại của chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay....................................15
3.6 Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thuế...............................................16
1


2019 - 2020 [Chính sách thuế trong quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam]
IV. KẾT LUẬN........................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................18

2


I. TỔNG QUAN VỀ THUẾ
1. 1 Nguồn gốc của thuế
Tất cả mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước cần phải có nguồn tài chính
để chi đầu tiên là nuôi bộ máy nhà nước, nguồn đầu tiên đó là các khoản thu từ
thuế. Thuế là công cụ rất quan trọng để chính quyền can thiệp vào sự hoạt động của
nền kinh tế bao gồm cả nội thương và ngoại thương. Nhà nước cung ứng các hàng
hóa công cộng cho công dân, nên công dân phải có nghĩa vụ ủng hộ tài chính cho
chính quyền vì thế ở Việt Nam và nhiều nước mới có thuật ngữ "nghĩa vụ thuế",
dựa trên quy luật cung cầu. Hơn nữa, giữa các nhóm công dân có sự chênh lệch về
thu nhập và do đó là chênh lệch về mức sống, nên Nhà nước sẽ đánh thuế để cung
cấp hàng hóa công, phân phối lại thu nhập. Chính phủ cũng có thể muốn hạn chế
một số hoạt động của công dân (ví dụ hạn chế hút thuốc lá, hạn chế uống rượu) nên

đánh thuế vào các hoạt động này. Chính phủ cần khoản chi tiêu cho các khoản phúc
lợi xã hội và phát triển kinh tế. Điều này tất yếu dẫn tới sự ra đời của thuế, sự ra đời
của thuế là một nhu cầu khách quan của sự phát triển Nhà nước và các hình thái
kinh tế - xã hội
1.2 Một số khái niệm
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của các cá nhân và doanh nghiệp cho
NSNN để trang trải chi phí cung cấp HHCC hoặc hạn chế lượng cung hàng hoá
trên thị trường.
Thuế có thể được đánh vào bên cung hoặc bên cầu.
Khi đầu ra của một doanh nghiệp bị đánh thuế thì đó là thuế đánh vào bên cung.
Khi người tiêu dùng đi mua hàng và phải trả thêm thuế trên tổng số tiền hàng
đã mua thì đó là thuế đánh vào bên cầu.
Thuế là một trong những chính sách điều tiết phổ biến nhất, có tác dụng
làm thay đổi động cơ khuyến khích đối với các đối tượng chịu tác động của
chính sách thuế. Thuế được sử dụng phổ biến nhằm cả hai mục tiêu là khắc phục
thất bại của thị trường và phân phối lại thu nhập. Thuế còn được sử dụng để tạo
nguồn thu cho ngân sách.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra được một số đặc trưng chung của thuế là:


Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mỗi quan hệ tiền
tệ phát sinh dưới nhà nước và các pháp nhân, các thể nhân trong xã hội.
Thứ hai, những mỗi quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách
khách quan và có ỹ nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất
bắt buộc theo mệnh lệnh của nhà nước.
Thứ ba, xét theo khía cạnh pháp luật, thuế là một khoản nộp cho nhà nước
được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Chính sách là hệ thống những quan điểm và đường lối để đạt được những mục
tiêu nhất định trong quản lý của một tổ chức hoặc trong quản lý nhà nước.
Chính sách thuế là hệ thống những quan điểm, đường lối, phương châm của

Nhà nước thông qua sử dụng các công cụ thuế nhằm phục vụ những mục tiêu nhất
định của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định.
1.3 Đặc điểm của thuế
Thuế có những thuộc tính tương đối ổn định qua từng giai đoạn phát triển và
biểu hiện thành những đặc điểm riêng có của nó, qua đó giúp ta phân biệt thuế với
các công cụ khác. Những đặc điểm đó là:
1.3.1 Tính bắt buộc
Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với
các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước.
Đặc điểm này cho ta thấy rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền
tệ được hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc
động viên mang tính chất bắt buộc của nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt
buộc dưới hình thức thuế là một phương thức phân phối của nhà nước, theo đó một
bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho nhà nước mà không
kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế, mà
hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
1.3.2 Tính không hoàn trả trực tiếp
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: thuế được
hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua việc cung cấp các dịch vụ công


cộng của nhà nước. Sự không hoàn hảo trả trực tiếp được thể hiện kể cả trước và
sau thu thuế. Trước khi thu thuế, nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ
công cộng nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế, nhà nước cũng không có sự
bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế.
1.3.3 Tính pháp lý cao
Thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao, được quyết định bởi
quyền lực chính trị của nhà nước và quyền lực ấy được thể hiện bằng pháp luật.
1.4 Chức năng của thuế
Chức năng của thuế là sự thể hiện công dụng vốn có của thuế, và nó có tính

ổn định tương đối. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển thuế luôn luôn thực
hiện hai chức năng cơ bản sau.
1.4.1 Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện đông viên
nguồn tài chính cho nhà nước, là chức năng cơ bản của thuế. Nhờ chức năng huy
động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước được hình thành,
qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Chức
năng này đã tạo ra những tiền đề để nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại
tổng sản phẩm của xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Thuế là một nguồn
chiếm tỷ trọng lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
1.4.2 Chức năng điều tiết kinh tế
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối
tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng
của người nộp thuế, sử dụng linh họat các ưu đãi và miễn giảm thuế.
Trên cơ sở đó, nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo
chung, phù hợp lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức
năng điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện.
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế
có mỗi quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài chính
quy định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại, nhờ sự vận
dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy động nguồn lực
tài chính của thuế có điều kiện phát triển. Chức năng huy động nguồn lực tài chính


càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho nhà nước đã tạo ra những điều kiện
để nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội. Điều
này tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư,
do đó mở rộng cơ sở thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài chính.
Cùng với sự thống nhất đó, thì giữa hai chức năng này của thuế cũng không

loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy động tập trung tài
chính làm cho mức thu nhập của nhà nước tăng lên. Điều đó đồng nghĩa với việc
mở rộng khả năng của nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh tế- xã
hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách quá mức sẽ làm tăng
gánh nặng thuế và hậu quả của nó là giảm động lực phát triển kinh tế và làm xói
mòn vai trò điều tiết kinh tế.
Do vậy, trong quá trình quản lý thuế, hoạch định các chính sách thuế ở mỗi
giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau cần phải chú ý đến mỗi quan hệ giữa chức
năng điều tiết kinh tế và chức năng huy động nguồn tài chính của thuế.
1.5 Phân biệt thuế và lệ phí, phí
Thuế là khoản thu bắt buộc mang tính cưỡng chế bằng sức mạnh của nhà
nước, mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải nộp vào ngân sách nhà nước khi có
đủ những điều kiện nhất định. Các khoản thu này không mang tính đối giá và hoàn
trả trực tiếp cho người nộp thuế.
Người nộp thuế không mang tính đối giá: Người nộp thuế nhiều và nộp ít
đều hưởng lợi như nhau.
Lệ phí là khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về
việc thực hiện một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp
cho ngân sách Nhà nước
Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hoặc bất
thường như chi phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của nhà nước đối với những
hoạt động của người nộp phí. Thuế và lệ phí, phí đều là nguồn thu cho ngân sách
nhà nước và đều mang tính pháp lý, nhưng giữa chúng có sự khác biệt:


Bảng 1: So sánh Thuế và phí, lệ phí
THUẾ

PHÍ, LỆ PHÍ


- Là khoản tiền phải nộp do Nhà nước quy định
Giống nhau
- Là nguồn thu của Ngân sách Nhà nước
- Là những công cụ phục vụ quản lý, điều hành góp phần
thực hiện công bằng xã hội
Được điều chỉnh bởi văn bản Được điều chỉnh bởi những văn
pháp luật có hiệu lực pháp lý bản dưới luật. Do Hội đồng
Cơ sở cao, do cơ quan quyền lực nhân dân cấp tỉnh có thẩm
pháp lý cao nhất nhà nước ban hành. quyền ban hành
Trình tự ban hành phải tuân
theo một trật tự chặt chẽ.
Là các khoản thu chủ yếu, Là khoản thu phụ không đáng
quan trọng, chiếm trên 90% kể, chỉ đủ chi dùng cho các
các khoản thu cho ngân sách hoạt động phát sinh từ phí.
nhà nước. Nhằm điều chỉnh Nguồn thu này không phải
các hoạt động sản xuất, kinh dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu
Vai trò doanh, quản lý và định mọi mặt của Nhà nước, mà
Khác
nhau trong hệ hướng phát triển kinh tế và trước hết dùng để bù đắp các
thống
đảm bảo sự bình đẳng giữa chi phí hoạt động của các cơ
Ngân
những chủ thể kinh doanh và quan cung cấp cho xã hội một
sách NN công bằng XH.
số dịch vụ công cộng: dịch vụ
Thuế có tác động lớn tới toàn công chứng, dịch vụ đăng ký
bộ quá trình phát triển kinh tế quyền sở hữu, quyền sử dụng
- xã hội, là bộ phận quan tài sản.
trọng cấu thành chính sách
tài chính quốc gia.

Tính đối Không mang tính đối giá và Mang tính đối giá rõ ràng và
giá
hoàn trả trực tiếp
hoàn trả trực tiếp.
Mang tính bắt buộc đối với Chỉ bắt buộc khi chủ thể nộp lệ
Tính bắt cả người nộp thuế và cơ quan phí, phí thừa hưởng trực tiếp
buộc
thu thuế
những dịch vụ do Nhà nước
cung cấp
Tên gọi Mỗi luật thuế đều có mục Mục đích của từng loại phí, lệ


và mục
đích

Phạm vi
áp dụng

đích riêng, tên gọi các sắc
thuế thường phản ánh đối
tượng tính thuế.
Không có giới hạn, không có
sự khác biệt giữa các đối
tượng, các vùng lãnh thổ.
Áp dụng hầu hết đối với các
cá nhân, tổ chức.

phí rất rõ ràng, tên gọi phản ánh
đúng mục đích sử dụng của nó.

Mang tính địa phương, địa bàn
rõ ràng
Chỉ những cá nhân, tổ chức có
yêu cầu Nhà nước thực hiện
một dịch vụ nào đó.

II. TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ TRONG ĐIỀU TIẾT KINH TẾ VĨ MÔ
2.1 Thuế đánh vào bên cung
Thuế đầu ra là thuế đánh vào sản lượng do các doanh nghiệp sản xuất ra.
Thuế này thường được dùng để khắc phục ngoại ứng tiêu cực bằng cách làm
giá cả của đầu ra tăng lên đúng bằng chi phí xã hội biên, nhờ đó có thể nội hoá
được các ngoại ứng tiêu cực, giảm mức sản lượng của doanh nghiệp xuống bằng
mức sản lượng tối ưu xã hội. Thuế còn có thể được đánh vào các hãng độc quyền
để hạn chế và chuyển bớt một phần lợi nhuận siêu ngạch của các hãng này sang cho
ngân sách nhà nước.

Thuế quan là loại thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu.
Thuế quan được coi là một hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước trước sự
cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu.Trong xu hướng tự do hoá thương mại, các
nước tham gia thương mại tự do sẽ phải đàm phán với nhau để hạ thấp dần mức
thuế quan. Khi đó, tác dụng của thuế quan với tư cách là một công cụ bảo hộ sản
xuất trong nước sẽ ngày càng hạn chế

Đặc điểm của thuế đánh vào bên cung


Chúng làm giá cả mà người tiêu dùng phải trả cho hàng hoá cao hơn so với
khi không có thuế, vì thế người tiêu dùng sẽ phải chịu thiệt.
Thuế đầu ra còn làm cho người sản xuất hàng hoá nhận được mức giá thấp
hơn trước khi có thuế, vì thế người sản xuất cũng phải chịu thiệt một phần.

Cả hai loại thuế đầu ra và thuế quan đều gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã
hội, do đó chúng đều là những công cụ không hiệu quả.

Khi chưa đánh thuế vào bên cung, điểm cân bằng tại A với mức sản lượng Qo, mức
giá Po:
Thặng dư người sản xuất là diện tích hình tam giác: AFPo
Thặng dư người tiêu dùng là diện tích hình tam giác: AEPo
Tổng phúc lợi xã hội là diện tích hình AEF
Khi đánh một mức thuế T, khi đó thị trường cân bằng tại điểm B, với sản lượng Q1,
mức giá Pm
Thặng dư người sản xuất là diện tích hình: PmBCF
Thặng dư người tiêu dùng là diện tích hình: PmEB


Tổng phúc lợi xã hội là diện tích hình: EBCF
Như vậy sau khi đánh thuế vào bên cung, tổng phúc lợi xã hội đã bị giảm một phần
bằng diện tích hình ABC, trong đó, thặng dư người sản xuất giảm đi phần diện tích
hình AGC, thặng dư người tiêu dùng giảm đi phần diện tích hình ABG.
2.2 Thuế đánh vào bên cầu
Thuế tiêu dùng là loại thuế đánh vào việc tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ.
Vì đánh thuế làm giảm lượng hàng hoá tiêu dùng nên thuế này thường được
dùng để nội hoá ngoại ứng tiêu cực do tiêu dùng gây ra, điển hình nhất là thuế tiêu
thụ đặc biệt. Loại thuế này được đánh vào một số hàng hoá phi khuyến dụng như
thuốc lá, rượu bia. Thuế tiêu dùng còn được dùng để khắc phục những thất bại về
thông tin không đối xứng.
Phí sử dụng là mức giá mà người sử dụng các hàng hoá và dịch vụ công
cộng do chính phủ cung cấp phải trả. Phí sử dụng được dùng để hạn chế bớt việc sử
dụng những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn như cầu đường và một số nguồn
lực chung khác. Phí sử dụng có ưu điểm là nó buộc người trực tiếp sử dụng các
dịch vụ đó phải trả, ít nhất là một phần. Tuy nhiên, dùng phí sử dụng thường bị coi

là phân biệt đối xử với người nghèo, vì chúng ngăn cản người nghèo khỏi việc sử
dụng các HHCC do chính phủ cung cấp vì họ không đủ khả năng chi trả. Nếu cung
cấp miễn phí và tài trợ bằng thuế thì không chỉ người nghèo được hưởng lợi ích từ
sự miễn phí đó mà ngay cả người giàu đang sử dụng các HHCC này cũng được
hưởng


Khi chưa đánh thuế vào bên cầu, điểm cân bằng tại A với mức sản lượng Qo, mức
giá Po:
Thặng dư người sản xuất là diện tích hình tam giác: AFPo
Thặng dư người tiêu dùng là diện tích hình tam giác: AEPo
Tổng phúc lợi xã hội là diện tích hình AEF
Khi đánh một mức thuế T, đường cầu dịch chuyển từ D xuống Dt , khi đó thị trường
cân bằng tại điểm C, với sản lượng Q1, mức giá người tiêu dùng phải trả là Pm, giá
người sản xuất được hưởng là Pb.
Thặng dư người sản xuất là diện tích hình: CFPb
Thặng dư người tiêu dùng là diện tích hình: PmEB
Tổng phúc lợi xã hội là diện tích hình: CFPb + PmEB
Như vậy sau khi đánh thuế vào bên cầu, tổng phúc lợi xã hội đã bị giảm một
phần bằng diện tích hình ABPm PbC, trong đó, thặng dư người sản xuất giảm đi
phần diện tích hình A PoPbC, thặng dư người tiêu dùng giảm đi phần diện tích hình
APoPmB.
III. CHÍNH SÁCH THUẾ TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM
3.1 Thuế và tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam hiện nay


Năm 2018, tăng trưởng kinh tế đạt mức 7,08% - là mức tăng cao nhất trong
11 năm trở lại đây, trở thành quốc gia nằm trong nhóm các nước tăng trưởng cao
nhất trong khu vực và thế giới. Điều này đến từ ngành chế biến, chế tạo với mức
tăng trưởng 12,98% cũng như mức tăng cao nhất của nông nghiệp trong giai đoạn

2012-2018, đạt 3,76%. Ngoài ra, khu vực đối ngoại cũng thiết lập kỷ lục mới với
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên 482 tỷ USD đi cùng mức xuất siêu 7,2 tỷ USD,
tăng 147% so với năm 2017. Đáng chú ý, khu vực Ngân sách Nhà nước đạt dấu
mốc đáng ghi nhớ khi lần đầu tiên Việt Nam vượt thu ngân sách so với dự toán 3,5
tỷ USD. Hơn thế, những con số tăng trưởng trên được tạo ra bởi nền tảng kinh tế vĩ
mô ổn định với lạm phát 3 năm liên tục được kiểm soát thấp ổn định dưới 4%. Môi
trường kinh doanh đã cho thấy nhiều tín hiệu tích cực.
Bảng 2: Một số chỉ tiêu chủ yếu đầu năm 2019 so với 2018 (%)
Tổng sản phẩm trong nước
Chỉ số sản xuất công nghiệp
Tổng kim ngạch xuất khẩu
Tổng kim ngạch nhập khẩu
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách NN
Chỉ số giá tiêu dung
Lạm phát cơ bản

+ 7,02
+ 9,1
+ 8,1
+ 7,0
+ 5,8
+ 2,79
+ 2,01
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2019)

Thuế đóng vai trò quan trọng, hiện nay thuế là nguồn thu chính, tỷ lệ thuế & phí
luôn chiếm trên 90% trong cơ cấu thu ngân sách Nhà nước trong suốt nhiều năm qua.


3.2 Hệ thống thuế ở Việt Nam

Kinh tế phát triển nhanh cùng với hội nhập quốc tế, thành phần kinh tế tư nhân
trở thành động lực của nền kinh tế và vấn đề môi trường, khai thác tài nguyên ngày
càng được quan tâm. Chính sách thuế hiện nay:
Thuế đánh vào bên cung nhằm: thực hiện thu hút đầu tư của các thành phần
kinh tế tư nhân vào nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong và ngoài
nước hoạt động. Hệ thống thuế quan nhằm kích thích xuất khẩu hàng hóa, tăng
cường xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, mở rộng cả về số lượng và sản lượng.
Thuế đánh vào bên cung nhằm định hướng tiêu dùng theo hướng tiêu dùng
xanh, kích thích tiêu dùng các sản phẩm an toàn, thân thiện với môi trường, hạn chế
tiêu dùng các sản phẩm gây nguy hại cho môi trường.
Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào Ngân sách Nhà
nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu


Thuế trực thu: là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của
các pháp nhân hoặc thế nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế theo
quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động
viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở nước ta loại thuế này bao gồm: thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế
sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế gián thu: là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần
thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế
đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở
chỗ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là
một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản
xuất kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng là người phải chịu thuế.
Ở nước ta loại thuế này bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…
3.3 Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về thuế
3.3.1 Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về thuế hiện nay
Để phù hợp với tình hình mới của đất nước, yêu cầu cấp bách phải tổ chức bộ

máy thu thuế thống nhất trong cả nước. Ngày 7/8/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban
hành Nghị định số 281/HĐBT về việc thành lập bộ máy thu thuế Nhà nước trực
thuộc Bộ Tài chính. Ngày 21/8/1991 Bộ Tài chính ra Quyết định số 316 TCQĐ/TCCB thành lập Tổng cục Thuế Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính làm nhiệm
vụ quản lý thuế nội địa. Việc quản lý thuế xuất nhập khẩu do Tổng cục Hải quan tiếp
tục thực hiện.
3.3.2 Nguyên tắc tổ chức hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước về thuế
Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế Nhà nước được tổ chức thống nhất từ trung
ương đến cơ sở, cùng thực hiện nhiệm vụ tổ chức thực hiện Luật thuế trong cả
nước. Tính thống nhất và hệ thống trong tổ chức bộ máy thu thuế được thể hiện ở
các điểm sau:
Cơ quan thuế các cấp được tổ chức theo một mô hình thống nhất. Việc quản
lý biên chế, cán bộ, kinh phí chỉ tiêu thực hiện các chính sách đối với cán bộ cũng
như tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán bộ thuế được thực hiện thống nhất trong toàn
ngành thuế
Cơ quan thuế địa phương chịu sự lãnh đạo song song của Bộ trưởng Bộ Tài
chính và Ủy ban nhân dân tỉnh.
Các cơ quan thuế từ trung ương đến địa phương nằm trong hệ thống các cơ
quan Nhà nước có tư cách pháp nhân.


3.3.3 Quyền và nghĩa vụ của các cơ quan thuế
Cục thuế có nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu sau:
Phổ biến, hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức thi hành các Luật Thuế, xây dựng và
chỉ đạo thực hiện kế hoạch thu trong từng địa bàn và từng chi cục Thuế trực thuộc;
hướng dẫn kiểm tra các chi cục thực hiện các nghiệp vụ quản lý, giải quyết các
khiếu nại về thuế; trực tiếp thực hiện việc thu thuế và thu khác đối với các đối
tượng thuộc trách nhiệm quản lý trên địa bàn.
Các chi cục thuế
Chi cục thuế là tổ chức trực thuộc cục thuế, được tổ chức tại tất cả các quận,

huyện. Cơ cấu bộ máy chi cục thuế gồm các tổ chuyên môn nghiệp vụ và các tổ
đội, trạm trực tiếp quản lý việc thu thuế.
Chi cục thuế có nhiệm vụ, quyền hạn:
Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thu chi tiết đối với từng Luật thuế
phát sinh trên địa bàn huyện; tổ chức thực hiện các nghiệp vụ quản lý các đối tượng
nộp thuế; đôn đốc kiểm tra các đối tượng nộp thuế việc chap hành Luật thuế.
Từng cơ quan thuế thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình sẽ tạo nên sự phối
hợp đồng bộ trong thực hiện mục tiêu hoàn thành kế hoạch thu của Nhà nước.
Nhưng để thực hiện nhiệm vụ được giao, pháp luật thuế có quy định cho cán bộ
lãnh đạo và cán bộ thu thuế có một số quyền hạn nhất định.


Năm
Thuế suất
2008với cơ quan quản25%
Đối
lý Nhà nước về thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu:
2013
22%

quan hải quan Việt
2016
20%Nam thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hải
quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh,
mượn đường Việt Nam; đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng
hóa, ngoại hối, tiền Việt qua biên giới. Các hàng hóa, hành lý, ngoại hối, tiền Việt
Nam, bưu kiện, bưu phẩm, các đồ vật và tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu qua
biên giới Việt Nam đều chịu sự quản lý Nhà nước về Hải quan theo quy định của
pháp luật.
3.4 Thu thuế ở Việt Nam

3.4.1 Thuế trực thu

Để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô,
tăng trưởng ổn định, thu hút các thành
phần kinh tế tư nhân, có vốn đầu tư
nước ngoài tham gia vào nền kinh tế.
Luật thuế liên tục giảm thuế suất thuế
thu nhập cho các doanh nghiệp qua các
năm (Bảng 4).

Bảng 4: Thuế suất thuế TNDN các năm
(Nguồn: Tổng cục Thuế,2019)

Xét riêng số thu từ thuế và phí, thì thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và
thuế thu nhập cá nhân - TNCN (gọi chung là thuế trực thu) chiếm tỷ trọng từ 33,3%
năm 2010 giảm còn 25,7% năm 2016.
Thuế đánh vào bên cung được điều chỉnh theo hướng giảm thuế suất, đồng
thời để hoàn thiện hệ thống thuế thì đối tượng chịu thuế ngày càng được mở rộng
và quy định chi tiết hơn.
Công tác thu thuế còn gặp khó khăn như
Quá trình thu thuế trực thu phức tạp, chi phí bỏ ra để thực hiện việc thu thuế
cao hơn nhiều so với thuế gián thu
Doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi
dụng kẽ hở về Luật thuế trốn thuế thông qua chuyển giá.


3.4.2 Thuế gián thu
Đối với các chính sách thuế đánh vào bên cầu: trong những năm qua Nhà
nước bổ sung thêm một số loại thuế đánh vào người tiêu dùng như thuế tiêu thụ đặc
biệt năm 2012, và bổ sung, điều chỉnh tăng thuế suất đối với các nhóm tài nguyên

không thể tái tạo, giảm thuế suất đối với các loại hàng hóa, dịch vụ sử dụng nhiên
liệu sinh học.
Thuế này làm giảm áp lực cho cơ quan thu, bởi chủ yếu thu từ các đầu mối
nên gọn, tiện hơn. Cũng bởi vì nó không yêu cầu người chịu thuế phải trực tiếp nộp
thuế mà chỉ thanh toán hàng hóa là xong nghĩa vụ nên đôi lúc đánh lừa được tâm lý
trả tiền thuế của người chịu thuế. Chẳng hạn, khi người tiêu dùng mua hàng hóa, số
tiền mà họ phải thanh toán cho bên bán đã bao gồm cả tiền hàng và tiền thuế, từ đó
phần nào giảm thiểu sự phản kháng của người đóng tiền.
Công tác thu thuế còn gặp một số khó khăn:
Đã qua trung gian thì khả năng chính xác của loại thuế này có thể thấp hơn
so với thuế trực thu
Một nhược điểm khác khó có thể khắc phục được còn tồn đọng đó là tính
công bằng thấp. Bởi lẽ, vì thu từ đầu mối nên Nhà nước không thể biết khả năng tài
chính hay năng lực chịu thuế của người chịu thuế, tiền thuế nhiều hay ít phụ thuộc
vào giá cả của hàng hóa dịch vụ.
Một số mặt hàng như: xăng dầu chịu nhiều loại thuế, do đó có tình trang thế
chồng thuế ảnh hưởng tới quyền lợi của người tiêu dùng.
Những bất cập trong Luật thuế so với Luật khác gây khó khăn trong công tác
thu thuế của các cơ quan quản lý.
Dưới sự điều chỉnh đó, làm cho số thu về thuế trực thu và gián thu cũng thay đổi
theo hướng: Tăng tỷ lệ thuế gián thu, giảm tỷ lệ thuế trực thu giai đoạn 2010 –
2016.


Thuế gián thu từ năm 2012 – 2016 có xu hướng tăng, từ 12,86% lên 16,53%, tăng
3,67%. Thuế trực thu liên tục giảm từ năm 2011 – 2016, giảm từ 8,44% xuống còn
5,72%, giảm 2,72%.
3.5 Một số tồn tại của chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay
Qua tìm hiểu công cụ chính sách thuế trong quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam
hiện nay ta thấy. Trong vĩ mô, thuế là một công cụ điều tiết nền kinh tế, dù đánh vào bên

cung hay bên cầu thì cả người sản xuất và người tiêu dùng đều phải chịu thiệt, do đó
thuế là một công cụ không hiệu quả. Thực tế công tác thu thuế hiện nay còn gặp nhiều
khó khăn như:
Một là, hệ thống thuế còn khá đơn giản, chưa chặt chẽ, dễ tạo kẽ hở trốn
thuế, lách luật đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trốn thuế, gây
thất thu cho ngân sách Nhà nước. Hệ thống thuế chưa đầy đủ cũng gây khó khăn
trong công tác quản lý, thu thuế.
Hai là, Tổ chức thực hiện còn nhiều lỏng lẻo, buông lỏng kiểm tra, còn tình
trạng đánh thuế tùy tiện tại các cửa khẩu, đánh thuế quá cao đối với một số mặt hàng
nhập khẩu làm gia tăng tình trạng nhập lậu hàng hóa.


Ba là, những quy định chưa rõ ràng trong Luật thuế làm xuất hiện tình trạng
thuế chồng thuế ảnh hưởng tới quyền lợi của người tiêu dùng, một số quy định mâu
thuẫn với các Luật khác gây khó khăn trong công tác thu thuế.
Bốn là, hàng rào thuế quan chưa đủ mạnh để bảo hộ sản xuất trong nước,
điển hình như ngành thép Việt Nam. Chưa đủ mạnh để khuyến khích sản xuất, tiêu
dung hướng đến mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.
3.6 Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thuế
Thuế là công cụ quan trọng trong quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế. Do vậy, hoàn thiện chính sách thuế góp phần nâng cao năng lực quản lý
của Nhà nước, cần xây dựng hệ thống thuế đầy đủ, khoa học làm căn cứ cho các cơ
quan quản lý và tổ chức thực hiện, trong đó cần tập trung vào các giải pháp:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách thuế, quy định đầy đủ, chi
tiết đối với từng ngành, lĩnh vực đồng thời quy định rõ những biện pháp xử lý nếu
vi phạm, hạn chế tình trạng lợi dụng kẽ hở của Luật để trốn thuế, làm giả giấy tờ
thuế quan. Chính sách thuế cần chi tiết, đầy đủ, phù hợp với các Luật khác và phù
hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện cho giao thương hàng hóa phát triển.
Hai là, xây dựng hệ thống thuế quan với mức thuế suất đủ mạnh để vừa góp
phần tăng nguồn thu ngân sách vừa đảm bảo điều tiết nền kinh tế, đủ mạnh để định

hướng phát triển kinh tế xã hội theo mục tiêu phát triển kinh tế bền vững gắn với sử
dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn lực quản lý và khâu tổ chức thực hiện thu
thuế, đảm bảo quản lý đúng, quản lý chặt và hiệu quả tránh tình trạng buông lỏng
trong quản lý, làm gia tăng các tình trạng vi phạm pháp luật về thuế.
Bốn là, tăng cường công tác thanh, kiểm tra về thực thi, thi hành công vụ
đảm bảo công bằng trong thu thuế, tránh lợi dụng chức quyền để chuộc lợi.
IV. KẾT LUẬN


Sự ra đời của công cụ thuế trong quản lý kinh tế vĩ mô là tất yếu và khách quan,
thuế ra đời vừa là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước vừa điều tiết định hướng sản
xuất và tiêu dùng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, thuế đánh vào bên cung hay bên cầu thì
người tiêu dùng và người sản xuất đều bị thiệt, do đó công cụ thuế được xem là một
công cụ không hiệu quả. Trong những năm qua, hệ thống thuế không ngừng được bổ
sung, sửa đổi, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập quốc tế, hệ thống thuế ngày càng hoàn
thiện hơn cho phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thúc đẩy trao đổi, phát triển
thương mại giữa các quốc gia. Hệ thống thuế nước ta, được chia làm hai nhóm chính:
thuế trực thu và thuế gián thu. Nhà nước thực hiện điều chỉnh thuế theo từng thời kỳ
để đáp ứng mục tiêu phát triển trong thời kỳ đó. Tuy nhiên, hệ thống thuế hiện nay vẫn
chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển và hội nhập một cách nhanh chóng, do đang
trong quá trình hoàn thiện nên nó bộc lộ một số tồn tại như: (i) hệ thống thuế còn khá
đơn giản, chưa chặt chẽ, dễ tạo kẽ hở trốn thuế; (ii) công tác quản lý thuế còn yếu kém
làm gia tăng tình trạng nhập lậu hàng hóa; (iii) có tình trạng Luật thuế chưa phù hợp
với thông lệ quốc tế; (iv) hàng rào thuế quan chưa đủ mạnh để bảo hộ sản xuất trong
nước; (v) có tình trạng thuế chồng thuế, phí chồng phí.
Để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế,
hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về thuế là điều rất quan trọng, trong đó
cần tập trung vào các giải pháp sau: (i) hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách
thuế; (ii) xây dựng hệ thống thuế quan với mức thuế suất đủ mạnh; (iii) nâng cao

chất lượng nguồn lực quản lý và khâu tổ chức thực hiện thu thuế; (iv) tăng cường
công tác thanh, kiểm tra về thực thi, thi hành công vụ.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Lê Quốc Hội, Bài giảng Các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Trường Đại
học Kinh tế quốc dân. Chương 6.
2. Giáo trình nghiệp vụ thuế, NXB
3. Th.S Trần Thế Tuân. Thuế và hệ thống thuế Việt Nam. Truy cập tại:
/>%20thue.pdf Ngày truy cập 05/01/2020.
4. Phan

Hiển

Minh.

2015.

Lịch

sử

thuế

Việt

Nam.

Truy


cập

tại:

Ngày truy cập 05/01/2020
5. Sổ

tay

Thuế

Việt

Nam,

2019.

Truy

cập

tại:

Ngày truy cập 05/01/2020
6. PGS.TS Nguyễn Hồng Thắng,2017. Một số vấn đề đặt ra trong mở rộng cơ sở thuế
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Tạp chí Tài Chính, trang 10-13. Truy cập tại:
o/index.php/TC/article/viewFile/43949/35435

Ngày


truy

cập

05/01/2020
(NHÓM 2 CHÚC THẦY CHẤM BÀI VUIIIIIIII VÀ LUÔN CUTE NHƯ THẾ Ạ,
CẢ NHÓM YÊUUUU THẨYYYYYYYYY)

Em là
Lâm Oanh

Em là
Thanh Vinh

Em là
Quỳnh

Em là
Em là
Em là
Việt Phương Thu Phương Mỹ Hoa

Em là
Thế Sơn
(nói nhiều)



×