Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

VIỆC LỰA CHỌN GIỚI TÍNH THAI NHI CỦA NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG SINH CON THEO Ý MUỐN LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LƢƠNG THỊ YẾN NGỌC

VIỆC LỰA CHỌN GIỚI TÍNH THAI NHI
CỦA NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG SINH CON
THEO Ý MUỐN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LƢƠNG THỊ YẾN NGỌC

VIỆC LỰA CHỌN GIỚI TÍNH THAI NHI
CỦA NHỮNG CẶP VỢ CHỒNG SINH CON
THEO Ý MUỐN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN HỌC

Giảng viên hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hƣơng

Hà Nội - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lƣơng Thị Yến Ngọc, học viên cao học ngành Nhân học khóa QH2013, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi
cam đoan rằng các kết quả nghiên cứu thực địa trình bày trong luận văn thạc sĩ này
đƣợc tôi thu thập trong quá trình điền dã tại các địa bàn nghiên cứu. Mọi trích dẫn
và tham khảo từ nguồn tài liệu liên quan đều đƣợc chú thích đầy đủ. Cá nhân tôi
chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung trình bày, cũng nhƣ bất kỳ sai sót nếu có,
trong luận văn.
Hà Nội, tháng 01 năm 2017
Học viên

Lương Thị Yến Ngọc


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến rất nhiều Thầy,
Cô đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài. Trƣớc
hết tôi xin đặc biệt bày tỏ lời tri ân sâu sắc nhất tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hƣơng,
giảng viên Khoa Nhân học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Dƣới sự hƣớng dẫn, dìu dắt nhiệt tình của cô, tôi đã xác định
đƣợc rõ ràng hƣớng nghiên cả về khung lý thuyết và phƣơng pháp để triển khai đề
tài và hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khác trong Khoa Nhân học,
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tâm
truyền dạy tri thức và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chƣơng trình đào tạo cao học
tại đây.
Tôi vô cùng cảm kích trƣớc sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của chủ phòng
khám Đông y tại huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tôi thực hiện nghiên
cứu trên địa bàn.
Cuối cùng nhƣng không kém phần quan trọng, tôi muốn dành lòng biết ơn sâu

sắc cho cha mẹ, anh chị em cùng các bạn bè thân thiết đã luôn đồng hành, khích lệ
và hỗ trợ tôi suốt quãng đƣờng học tập và nghiên cứu vừa qua.
Hà Nội, tháng 01 năm 2017
Học viên

Lương Thị Yến Ngọc


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ......................................................................... 3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ ..................................................................... 4
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 5
2. Tổng quan về đề tài nghiên cứu .............................................................. 6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 9
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 11
5. Mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ....................................... 18
6. Cấu trúc luận văn................................................................................... 19
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 20
1.1

Các khái niệm và thuật ngữ khoa học ............................................ 20

1.1.1

Gia đình đình và sinh đẻ ............................................................. 20

1.1.2


Tỷ số giới tính khi sinh, lựa chọn giới tính trước sinh ............. 21

1.1.3

Các thực hành lựa chọn giới tính thai nhi phổ biến ở Việt Nam

hiện nay .................................................................................................... 23
1.2

Khung lý thuyết áp dụng ................................................................. 24

1.2.1

Lý thuyết chức năng .................................................................... 24

1.2.2

Lý thuyết Nhân học biểu tượng/ diễn giải ................................. 26

1.3

Thực trạng mất cân bằng giới tính ở Việt Nam và trên thế giới . 26

Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 32
CHƢƠNG 2. BỐI CẢNH VĂN HÓA DẪN TỚI HÀNH VI LỰA CHỌN
GIỚI TÍNH TRƢỚC SINH.......................................................................... 33
2.1. Ý niệm về giá trị của con cái trong gia đình .................................. 33
2.1.1. Giá trị mang tính kinh tế của con cái......................................... 35
2.1.2. Vai trò duy trì nòi giống .............................................................. 37
1



2.1.3. Nhân tố gắn kết cuộc hôn nhân của cha mẹ ............................. 40
2.2. Ý niệm về giá trị của con trai trong gia đình ................................. 42
2.2.1. Giá trị mang tính kinh tế............................................................. 44
2.2.2. Bổn phận nối dõi tông đường ..................................................... 47
2.2.3. Vai trò xã hội, nhân tố gắn kết và đảm bảo hôn nhân bền vững
của cha mẹ ................................................................................................ 50
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 53
CHƢƠNG 3. HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM CON TRAI ............................. 54
CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG ...................................................................... 54
3.1 Sinh và có con trai là ƣớc muốn và “trọng trách” không thể chối bỏ
................................................................................................................ 55
3.1.1. Có con trai: định kiến và kỳ vọng xã hội ................................... 55
3.1.2. Hành trình tìm kiếm con trai và điều phải đánh đổi ................. 57
3.2. Chúng ta có thể vƣợt lên định kiến ................................................. 65
3.2.1. Định kiến không trừ một ai ........................................................ 66
3.2.2. Vai trò của nam giới trong cương vị người chồng .................... 72
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 77
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 83
PHỤ LỤC ẢNH ............................................................................................. 88

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CBGTKS: Cân bằng giới tính khi sinh
KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình
LCGTTS: Lựa chọn giới tính trước sinh

SKSS: Sức khỏe sinh sản
SRB: Sex Ratio at Birth
Tỷ số giới tính khi sinh
TCTKVN: Tổng cục Thống kê Việt Nam
UNFPA: United Nations Fund of Population Activities
Quỹ dân số Liên hợp quốc
WB: World Bank
Ngân hàng thế giới
WHO: World Heathy Organization
Tổ chức y tế thế giới

3


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Thông tin chung về đối tƣợng nghiên cứu trƣờng hợp ........................... 9
Bảng 1.1: SRB ở một số quốc gia và khu vực trên thế giới ................................. 27
Bảng 1.2: Tỷ số giới tính khi sinh thời kỳ 1999 – 2011 ........................................ 28
Bảng 1.3: SRB phân theo vùng thời kỳ 2011 – 2015 ............................................ 29
Bảng 1.4: SRB phân theo thành thị, nông thôn thời kỳ 2000 – 2014 ................. 30
Biểu đồ 1.1: SRB theo vùng và nông thôn/thành thị năm 2009 .......................... 31
Bảng 2.1: Mục đích khách hàng đến khám tại phòng khám thầy Phong ......... 38
Bảng 2.2: Thống kê LCGTTS phân theo độ tuổi ................................................. 43

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Chủ trƣơng đẻ hai con của nhà nƣớc là tuyệt vời nhƣng hạn chế đẻ ít thì

ngƣời dân phải tìm, phải chọn, có nhiều ngƣời đi nạo thai bảy lần. Bà hàng xóm ở
cạnh nhà tôi nạo thai chục lần, gần chết. Bà ấy bảo cao tuổi vẫn phải hoạt động, vẫn
nạo thai, nếu không chồng đánh, nó bóp cổ, chạy sang nhà tôi kêu: “chị ơi, cứu em”.
Già 52 tuổi rồi mà vẫn bị bóp cổ phải đẻ”. Câu chuyện về ngƣời hàng xóm đƣợc
một nữ lãnh đạo xã tại Hƣng Yên kể lại trong cuộc nghiên cứu định tính về “Sự ƣa
thích con trai ở Việt Nam” (UNFPA, 2011) đã gợi mở tính chất phức tạp trong hành
vi sinh đẻ của gia đình Việt. Đó không chỉ là bài toán giảm mức sinh mà còn chứa
đựng yếu tố tâm lý, văn hóa truyền thống trong bối cảnh y học, khoa học công nghệ
phát triển nhƣ hiện nay. Hệ quả trực tiếp của những điều này chính là sự mất cân
bằng giới tính khi sinh (sau đây viết tắt là CBGTKS).
Những ca mất CBGTKS đầu tiên ở Việt Nam đƣợc ghi nhận vào năm 1999
với 107,0 bé trai trên 100 bé gái (gso.gov.vn). Chỉ trong hơn một thập niên, tỷ số
giới tính khi sinh (SRB) ở nƣớc ta đã tăng lên 112,3 (2012) (gso.gov.vn) và đƣợc
dự báo sẽ lên đến đỉnh điểm là 115 vào năm 2020 (TCTKVN, 2009).
Hiện tƣợng nam hóa một cách bất thƣờng về mặt nhân khẩu học đã gây ra
những tác động nghiêm trọng về kinh tế - xã hội (UNFPA, 2011) mà bằng chứng rõ
ràng nhất là sự thiếu hụt nghiêm trọng nữ giới trong độ tuổi kết hôn ở Trung Quốc
và Hàn Quốc trong hơn một thập niên trở lại đây. Đó là kết quả của tâm lý ƣa thích
con trai, chính sách giảm sinh cùng sự làm dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
(Gulmoto, 2009), dẫn đến việc LCGTTS. LCGTTS dù là bé trai hay bé gái cũng là
biểu hiện của sự bất bình đẳng giới. Ngƣợc lại, chính tình trạng bất bình đẳng về
giới đã làm nảy sinh tâm lý ƣa chuộng con trai và LCGTTS.
Cũng nhƣ một số quốc gia châu Á khác, những quan điểm của hệ tƣ tƣởng
Nho giáo đã ăn sâu bén rễ vào đời sống văn hóa, tinh thần ngƣời Việt, trở thành bệ
đỡ vững chắc cho hệ thống thân tộc cùng hình thức cƣ trú bên nội (UNFPA, 2011).
Những giá trị mà con trai mang đến, khi đó trở thành kỳ vọng, mong mỏi của cả ông

5



bà, cha mẹ, quy định tập quán sinh đẻ trong gia đình Việt Nam truyền thống (Hồ
Ngọc Châm, 2011).
Thành công của chiến dịch dân số - kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) do Đảng
và Nhà nƣớc Việt Nam vận động từ cuối thập niên 80 với khẩu hiệu mỗi gia đình
chỉ nên sinh từ một đến hai con (theo điều 2, Quy định về một số chính sách dân số
và KHHGĐ, 1988) (thuvienphapluat.vn) đã làm giảm số con của mỗi gia đình, điều
này đồng nghĩa với nguy cơ không có con trai tăng lên (Trần Thị Thanh Loan,
2012). Trong bối cảnh khoa học – kỹ thuật phát triển nhƣ hiện nay, ngƣời ta có thể
dễ dàng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế hỗ trợ LCGTTS để vừa có thể sinh ít
con mà vẫn đảm bảo có con trai. Mặc dù những hậu quả mà mất CBGTKS gây ra đã
đƣợc nhà nƣớc đẩy mạnh tuyên truyền trong thời gian gần đây nhƣng “từ nhận thức
đến thay đổi hành vi là cả một quá trình, không thể thay đổi trong một sớm một
chiều” [19, tr.41].
Trƣớc thực trạng này, nhiều nghiên cứu đã đƣợc thực hiện (UNFPA, 2009,
2011, 2012; Vũ Thị Cúc, 2012; Trần Minh Hẳng, 2012; Trần Thị Thanh Loan,
2012) để đƣa ra bức tranh toàn cảnh về tình hình mất CBGTKS ở Việt Nam, chỉ ra
khía cạnh văn hóa của tâm lý chuộng con trai, hậu quả của việc dƣ thừa nam giới và
xây dựng giải pháp nhằm đứa SRB trở lại mức cân bằng. Những nghiên cứu này
chủ yếu xét đến việc nạo phá thai nhằm loại bỏ các bé gái mà ít quan tâm đến việc
lựa chọn giới tính thai nhi trƣớc khi mang thai.
Hiện nay, có rất nhiều phƣơng pháp lựa chọn giới tính thai nhi và các cặp vợ
chồng có thể dễ dàng tìm hiểu qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, phổ biến
nhất là internet. Áp dụng Đông y là một trong số các phƣơng pháp ấy. Đây là một
quan niệm toàn diện, thống nhất, chỉnh thể trong công tác phòng bệnh, chẩn đoán
bệnh và chữa bệnh, dựa trên nền tảng kết hợp lý luận các học thuyết âm dƣơng, ngũ
hành và thiên nhân hợp nhất [45; tr. 27]. Tuy nhiên, phần lớn các cặp vợ chồng đều
có sự kết hợp giữa uống thuốc Bắc với một số cách khác.
2. Tổng quan về đề tài nghiên cứu

6



Mất CBGTKS là một vấn đề nhân khẩu học, nảy sinh từ những hệ quả của văn
hóa truyền thống trong bối cảnh đời sống kinh tế - xã hội hiện đại. Các nghiên cứu
về tình trạng này vì thế mà thƣờng đi từ cách tiếp cận cấu trúc xã hội, ràng buộc xã
hội để thấy đƣợc rõ sự chi phối của các khuôn mẫu, chuẩn mực về gia đình trong xã
hội đến tập quán, khuynh hƣớng sinh con trong gia đình Việt (Nguyễn Văn Chính,
1999; UNFPA, 2011; Vũ Thị Cúc, 2012).
Nguyễn Văn Chính là một nhà Nhân học đã dành nhiều quan tâm đến vai trò
chi phối của các khuôn mẫu, chuẩn mực trong xã hội về gia đình đến việc sinh đẻ từ
cuối thập kỷ 90. Kết quả nghiên cứu trƣờng hợp tại làng Giao của ông đăng trên tạp
chí Xã hội học (1999) bàn về mối quan hệ giữa tỉ lệ sinh cao và vấn đề sử dụng lao
động trẻ em trong xã hội nông thôn. Trong đó, yếu tố cấu trúc gia đình, các ràng
buộc văn hóa và các giá trị xã hội của trẻ em là nguyên nhân cơ bản của tình trạng
mức sinh cao.
Trƣớc tình trạng gia tăng đáng kể của SRB từ đầu thế kỷ 21 đến nay ở Việt
Nam, Quỹ dân số Liên hợp quốc đã thực hiện một số nghiên cứu định tính về thực
trạng này ở nƣớc ta. Các kết quả nghiên cứu đã làm nổi bật những yếu tố xã hội,
văn hóa và sức khỏe tác động đến tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam để thấy đƣợc
tâm lý ƣa thích con trai trong mối liên hệ với tình trạng mất CBGTKS (UNFPA,
2011). Những ngƣời tham gia vào lựa chọn giới tính và công nghệ họ sử dụng để
lựa chọn và kiểm soát giới tính thai nhi là bằng chứng xác thực mà báo cáo đƣa ra
để thảo luận về chính sách, xây dựng và điều chỉnh tâm lý, hành vi yêu thích con
trai dẫn đến sự mất cân bằng giới tính ở Việt Nam hiện nay.
Một nghiên cứu khác của Vũ Thị Cúc (tạp chí nghiên cứu Giới và Gia đình,
2012) là tổng quan một số kết quả nghiên cứu đã có về vấn đề lựa chọn giới tính
thai nhi ở Việt Nam dƣới góc độ nhân tố tác động. Đó là quan niệm gia trƣởng,
chính sách KHHGĐ, sự phát triển của y học hiện đại. Tác giả chỉ ra rằng mặc dù
nhà nƣớc đã quan tâm, ban hành nhiều chính sách cụ thể để kiểm soát việc lựa chọn
giới tính thai nhi nhƣng hiệu quả của pháp luật hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế.


7


Mất CBGTKS là hệ quả của ba yếu tố: tâm lý ƣa thích con trai, dịch vụ y tế hỗ
trợ và việc giảm mức sinh. Trong đó, yếu tố tâm lý, nhận thức của ngƣời dân đƣợc
xem nhƣ vấn đề cốt lõi (Guilmoto, 2009). Một số nghiên cứu (Trần Thị Thanh
Loan, 2012; UNFPA, 2012) đã cung cấp quan điểm, thái độ cũng nhƣ nhận thức của
ngƣời dân về vấn đề mất CBGTKS ở Việt Nam. Nghiên cứu trƣờng hợp tại Hƣng
Yên của Trần Thị Thanh Loan đã đƣa ra nhận thức của những ngƣời tham gia trả lời
nghiên cứu về nguyên nhân và hậu quả của tình trạng mất cân bằng giới tính đang
diễn ra hiện nay (Tạp chí nghiên cứu Giới và Gia đình, 2012). Ngƣời dân nhận thức
rất rõ việc dƣ thừa nam giới làm gia tăng thêm nhiều vấn đề xã hội, không những
không cải thiện đƣợc vị thế của phụ nữ mà còn đẩy phụ nữ đến chỗ yếu thế hơn.
Báo cáo “Nghiên cứu về giới, nam tính và sự ƣa thích con trai ở Nepal và Việt
Nam” (UNFPA, 2012) đã cung cấp cái nhìn tổng thể từ góc độ của nam giới ở Việt
Nam và Nepal về vấn đề bình đẳng giới, thái độ với trải nghiệm về bạo lực, thái độ
với pháp luật và chính sách về quyền và sức khỏe sinh sản (SKSS), tâm lý ƣa thích
con trai. Trong báo cáo này, nhận thức về tầm quan trọng của con trai – con gái của
nam giới đƣợc đặt trong tƣơng quan các yếu tố dẫn đến tâm lý ƣa thích con trai ở
Việt Nam và Nepal.
Đi từ Nhân học y tế là một hƣớng tiếp cận mới về mất CBGTKS ở Việt Nam
(Trần Minh Hằng, 2012). Luận án Tiến sĩ “Nạo phá thai lựa chọn giới tính thai nhi
ở Việt Nam: nghiên cứu trƣờng hợp tại một bệnh viện ở Hà Nội” của Trần Minh
Hằng đã chỉ ra những yếu tố tạo áp lực khiến các cặp vợ chồng mong muốn và lựa
chọn giới tính cho con. Cụ thể, họ đã lựa chọn giới tính thai nhi trƣớc khi thụ thai,
xác định giới tính trong thời gian mang thai và nạo phá thai khi không đạt đƣợc kết
quả nhƣ mong muốn. Tác giả cũng đã nhấn mạnh đến vấn đề nạo phá thai để lựa
chọn giới tính thai nhi, nêu bật mâu thuẫn giữa thực tế và chính sách, đồng thời đƣa
ra một số khuyến nghị, đề xuất cụ thể nhằm khắc phục và hạn chế tình trạng này.

Các tài liệu nói về gia đình, cấu trúc gia đình cũng nhƣ những chuẩn mực
trong gia đình Việt khá nhiều. Trong đó, việc sinh con trai đƣợc bàn đến nhƣ một
lối suy nghĩ đã trở thành khuôn mẫu, quy định vị thế cũng nhƣ hành vi của các

8


thành viên trong gia đình và xã hội. Khi mang thai, việc dễ dàng sử dụng dịch vụ
siêu âm chẩn đoán giới tính và nạo phá thai sàng lọc giới tính trƣớc sinh trở nên dễ
dàng hơn đã dẫn đến mất CBGTKS hiện nay. Tuy vậy, vấn đề lựa chọn giới tính
trƣớc khi mang thai bằng can thiệp y học để cá nhân khẳng định vị thế của mình vẫn
chƣa đƣợc bàn đến nhiều.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
LCGGTS là việc can thiệp có chủ đích để con sinh ra mang giới tính nhƣ
mong muốn. Hiện nay, ở Việt Nam có khá nhiều phƣơng pháp LCGTTS đƣợc các
cặp vợ chồng áp dụng, bao gồm cả trƣớc khi thụ thai (sẽ đƣợc trình bày cụ thể hơn
trong chƣơng 1) và trong quá trình mang thai. Do những hạn chế về mặt thời gian,
nguồn lực tài chính cũng nhƣ chuyên môn nên trong khuôn khổ luận văn này, tác
giả chỉ đi vào nghiên cứu những cặp vợ chồng sử dụng Đông y (uống thuốc Bắc, có
kết hợp với một số biện pháp khác) để LCGTTS mà chƣa tiến hành nghiên cứu ở
nhóm đối tƣợng sử dụng Tây y, cầu tự hay các biện pháp khác. Tên đối tƣợng
nghiên cứu đã đƣợc thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh. Ngoài hai trƣờng hợp
là cặp vợ chồng LCGTTS đƣợc lựa chọn để thực hiện nghiên cứu trƣờng hợp, các
kết quả nghiên cứu còn đƣợc thu thập từ gia đình, họ hàng, hàng xóm của hai
trƣờng hợp này. Phỏng vấn sâu cũng đƣợc tiến hành trên những cặp vợ chồng có
thực hành LCGTTS khác mà tác giả tiếp cận đƣợc.
Bảng 1: Thông tin chung về đối tƣợng nghiên cứu trƣờng hợp
Trƣờng hợp 1


Trƣờng hợp 2

Trƣờng hợp 3

Thông tin

Chồng

Vợ

Chồng

Vợ

Chồng

Vợ

Tên

Phúc

Lan

Tuấn

Hạnh

Dũng


Thanh

Tuổi

50

48

45

43

33

27

Nghề

Nông dân

Nông

Kinh

Lao động

Công

Công


9


nghiệp

dân

doanh

tự do

nhân

nhân

Sơn La

Yên Bái

Quê quán

Bắc Giang

Hƣng Yên

Nơi cƣ trú

Bắc Giang

Hà Nội


Bắc Ninh

Số con

3 con gái, 1 con trai

2 con gái

Chƣa có con

Mục đích

Đã LCGTTS thành

LCGTTS

công

Chữa vô sinh, hiếm
muộn

LCGTTS đồng nghĩa với việc các cặp vợ chồng có thể mong muốn và sử dụng
biện pháp để sinh con trai hoặc con gái nhƣ ý muốn. Thực tế tại địa bàn nghiên cứu
cũng nhƣ các thống kê, dự báo về SRB ở Việt Nam (TCTKVN) ở Việt Nam hiện
nay là bằng chứng cho thấy các bé trai đƣợc ƣa thích và lựa chọn nhiều hơn hẳn so
với các bé gái. Trong nghiên cứu này, tác giả chỉ đi vào nghiên cứu việc lựa chọn
sinh con trai của các cặp vợ chồng.
Phạm vi nghiên cứu
Không gian: phòng khám Đông y của thầy Phong, 61 tuổi (tên ngƣời cấp tin

đã đƣợc thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh) tại Quế Võ, Bắc Ninh. Đây là một
phòng khám cá nhân, có thời gian hoạt động từ 7h30 đến 18h tất cả các ngày trong
tuần, do thầy Phong trực tiếp đảm nhận từ việc bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc. Khách
hàng đến khám thuộc nhiều đối tƣợng khác nhau nhƣng đại đa số đều ở Đồng bằng
sông Hồng – khu vực có SRB cao nhất cả nƣớc (xem bảng 1.3).
Thời gian điền dã: Do đề tài đi vào nghiên cứu trƣờng hợp nên tác giả cần có
thời gian tìm kiếm, tiếp cận và tạo dựng lòng tin với đối tƣợng nghiên cứu. Để làm
đƣợc điều đó, tác giả đã đến các phòng khám Đông y để tìm kiếm các cặp vợ chồng
có thực hiện LCGTTS, sau đó việc thực hiện nghiên cứu sâu mới có thể tiến hành.
Vì vậy, thời gian nghiên cứu đƣợc chia thành hai giai đoạn:
-

Từ 5-9/2015: Khảo sát tại phòng khám Đông y nhằm thu thập những thông
tin định lƣợng, tìm kiếm và tạo dựng mối quan hệ đối với chủ thể nghiên
cứu.

10


-

Từ 7/2015 – 12/2015: Khảo sát, nghiên cứu theo cặp đối với những cặp vợ
chồng đƣợc lựa chọn để nghiên cứu sâu.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp điền dã. Tác giả trực tiếp tới địa bàn nghiên cứu, quan sát thực

trạng LCGTTS tại một phòng khám Đông y, tìm kiếm và tiếp cận các cặp vợ chồng
có LCGTTS để từ đó thực hiện nghiên cứu trƣờng hợp.
Phương pháp câu chuyện cuộc đời. Mục tiêu của phƣơng pháp này là tìm hiểu
các cặp vợ chồng đƣợc nghiên cứu trong bối cảnh thời gian dài, từ khi họ kết hôn
cho đến khi họ quyết định can thiệp LCGTTS (đối với những cặp vợ chồng
LCGTTS) hoặc quá trình chữa trị vô sinh, hiếm muộn (nghiên cứu trƣờng hợp vô
sinh, hiếm muộn) để thấy suy nghĩ của bản thân họ về việc này diễn ra nhƣ thế nào
trong suốt thời gian đó và có sự thay đổi gì trong nhận thức đó hay không?
Phƣơng pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện. Do đặc thù của đề tài nghiên
cứu, việc tiếp cận địa bàn và đối tƣợng nghiên cứu gặp nhiều khó khăn, mẫu nghiên
cứu đƣợc lựa chọn dựa trên sự thuận lợi, tính dễ tiếp cận và đồng thuận của đối
tƣợng nghiên cứu. Việc nghiên cứu trƣờng hợp, trong điều kiện nhân lực và tài
chính hạn chế chỉ có thể thực hiện đƣợc ở một số ít đối tƣợng có sự đồng thuận cao
và nhiệt tình giúp đỡ tác giả.
Số lƣợng mẫu: 3. Trong đó: 2 trƣờng hợp LCGTTS và 1 trƣờng hợp vô sinh,
hiếm muộn.
Thông tin về đối tƣợng nghiên cứu: đã trình bày trong phần đối tƣợng và phạm
vi nghiên cứu.
Phương pháp phân tích mạng lưới xã hội, vốn xã hội:
Mục đích: Nghiên cứu sâu đến mức tối đa có thể những cặp đôi này để thu
đƣợc kết quả sâu sắc hơn, hiểu đƣợc sâu sa động cơ, tâm lí, nhận thức của họ xoay
quanh việc sinh con theo ý muốn. Tìm hiểu các nguồn lực kinh tế, vốn tri thức, mối
quan hệ xã hội có tác động nhƣ thế nào đến việc suy nghĩ và quyết định can thiệp
LCGTTS.

11


Số lƣợng mẫu: 3, trong đó, 2 mẫu sinh con theo ý muốn và 1 mẫu chữa vô
sinh, hiếm muộn.

Phương pháp phân tích dữ liệu diễn ngôn: Phân tích suy nghĩ, tâm lí của các
cặp đƣợc nghiên cứu thông cách thái độ, giao tiếp hàng ngày của họ về vấn đề con
cái, gia đình, rộng hơn là yếu tố văn hóa, xã hội để thấy đƣợc mức độ quan tâm đến
giới tính cho của con họ. Họ muốn có con trai hay con gái hay đủ cả trai lẫn gái do
ý thích cá nhân hay giới tính của con còn chứa đựng những mong muốn, kỳ vọng
nào khác của cha mẹ.
Phương pháp quan sát: Quan sát những cặp đôi tìm đến hai phòng khám đƣợc
lựa chọn làm địa bàn nghiên cứu để thấy đƣợc thái độ, tâm trạng của họ khi đến
đây.
4.2.

Khó khăn và thách thức trong tiếp cận nghiên cứu

SRB hay nạo phá thai lựa chọn giới tính là những vấn đề nổi cộm, đƣợc
UNFPA và một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam quan tâm. Việc LCGTTS cũng đã
đƣợc bàn đến rất nhiều trong các báo cáo của UNFPA, tuy nhiên, vẫn chƣa có nhiều
nghiên cứu trƣờng hợp về những cặp vợ chồng LCGTTS. Đây không phải vấn đề
quá nhạy cảm, song việc tiếp cận địa bàn nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu cũng
có một số khó khăn, hạn chế nhất định.
4.2.1. Khó khăn khi tiếp cận địa bàn nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
Phòng khám Đông y đầu tiên mà tác giả tìm đến là của thầy Đông, ở Yên
Phong – Bắc Ninh (tên ngƣời cấp tin đã đƣợc thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn
danh). Đây là một phòng khám theo mô hình gia đình, có quy mô khá lớn và chuyên
môn hóa với nhà xe, nơi lấy số thứ tự và chờ khám, ngƣời khám, ngƣời bốc thuốc
riêng. Bệnh nhân đến khám sau khi gửi xe ở nhà con trai thầy Đông sẽ đƣợc phát số
thứ tự khám do số lƣợng khách khá đông. Sau đó, khách ngồi đợi trong sân nhà
thầy, chờ đến lƣợt vào khám. Thầy sẽ trực tiếp bắt mạch, kê đơn cho từng ngƣời.
Sau khi khám xong, khách ra ngoài tiếp tục ngồi đợi con trai thầy (cũng là thầy
thuốc) bốc thuốc. Tùy vào tình trạng sức khỏe từng ngƣời và nhu cầu, khoảng cách
địa lí xa hay gần, mỗi ngƣời thƣờng đƣợc kê chín hoặc 18 thang thuốc.


12


Tác giả biết đến phòng khám của thầy Đông nhờ sự giới thiệu của một ngƣời
quen và đƣợc cảnh báo rằng: “cẩn thận không người ta tưởng là nhà báo người ta
đuổi đấy”. Lần đầu đến đây, tác giả chƣa giới thiệu về đề tài nghiên của mình mà
đến với tƣ cách khách hàng, lấy số và xếp hàng vào khám nhƣ những cặp vợ chồng
khác (cùng với một ngƣời nam, đóng giả làm vợ chồng). Để có thể thực hiện nghiên
cứu, tác giả cần phải khảo sát tại địa bàn trong thời gian dài và tìm kiếm đối tƣợng
nghiên cứu. Việc đóng giả làm khách hàng không thể thực hiện đƣợc bởi tác giả sẽ
bị thầy hoặc ngƣời trông xe nhớ mặt. Và điều quan trọng là cách làm này vi phạm
đạo đức trong nghiên cứu. Vì vậy, sau hai lần đóng vai khách hàng, tác giả đã trình
bày rõ mục đích nghiên cứu với thầy Đông nhƣng thầy từ chối giúp đỡ. Bởi lẽ,
lƣợng ngƣời đến khám mỗi ngày ở đây khá đông, đặc biệt là vào hai ngày cuối tuần.
Phòng mạch của thầy hoạt động có giấy phép và đƣợc hiệp hội Đông y Bắc Ninh
thông qua nhƣng trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng vẫn có khá nhiều luồng ý
kiến trái chiều về chất lƣợng. Vì vậy, dù đã giới thiệu mình là nhà nghiên cứu và
đảm bảo tính bảo mật của thông tin thu thập đƣợc nhƣng thầy Đông vẫn nghi ngờ
và từ chối giúp đỡ.
Không nhận đƣợc sự hợp tác từ phía chủ phòng khám, tác giả đã vận dụng các
mối quan hệ xã hội của bản thân và tìm đƣợc ba cặp vợ chồng có can thiệp để sinh
con theo ý muốn. Việc nghiên cứu sâu có thể tiến hành với hai trên ba cặp vợ chồng
này nhƣng ngoài nghiên cứu trƣờng hợp, điều tác giả muốn là làm một thống kê
định lƣợng về những đối tƣợng lựa chọn giới tính thai nhi lại không thể thực hiện
đƣợc.
Dƣới sự gợi ý của một ngƣời bạn, tác giả đã sử dụng mạng xã hội để tìm kiếm
đối tƣợng nghiên cứu. Một điều thú vị là tất cả các bài đăng tin giới thiệu cụ thể về
mục đích, mong muốn của tác giả trên một số trang mạng nhƣ Facebook, diễn đàn
webtretho, lamchame đều không nhận đƣợc bất cứ phản hồi nào. Nhƣng khi bài

đăng chuyển sang dạng: “Có ai đang có nhu cầu sinh con trai cho em xin địa chỉ
lấy thuốc và kinh nghiệm?” hoặc “Có mẹ nào biết chỗ bốc thuốc đẻ con trai hay
chữa vô sinh hiếm muốn không?” thì nhận đƣợc rất nhiều phản hồi, chia sẻ kinh

13


nghiệm của thành viên diễn đàn. Bốn bài đăng trên fan page webtretho có tổng số
57 bình luận của năm thành viên, tác giả nhận đƣợc một tin nhắn và một cuộc điện
thoại; hai bài đăng trên fan page lamchame cũng nhận đƣợc 12 bình luận của hai
thành viên. Điều này cho thấy rằng tâm lý chung của các thành viên trên mạng xã
hội chỉ quan tâm đến những ngƣời có cùng mục đích sinh con theo ý muốn giống
nhƣ họ và sẵn sàng tƣ vấn, chia sẻ kinh nghiệm rất nhiệt tình, nhƣng lại e dè công
việc của các nhà nghiên cứu và báo giới. Nếu không ngại ngùng, ngƣời ta cũng sẽ
bàng quan, không quan tâm. Về sau, khi trực tiếp đến một phòng khám Đông y khác
ở Quế Võ, Bắc Ninh, tác giả cũng gặp phản ứng tƣơng tự nhƣ vậy của các cặp vợ
chồng đến khám.
Việc tìm kiếm đối tƣợng nghiên cứu trên mạng cho hội cho thấy những khả
quan bƣớc đầu, có thể tìm kiếm đƣợc một số lƣợng ngƣời lựa chọn giới tính thai
nhi. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu định lƣợng có thể không mang tính bao quát do
mẫu không mang tính đại diện. Trong số chín phản hồi tác giả nhận đƣợc trong
vòng một tuần, có năm trƣờng hợp LCGTTS và bốn trƣờng hợp hiếm muộn và cả
chín trƣờng hợp đều ở độ tuổi dƣới 35, trình độ học vấn Đại học. Các đối tƣợng
nghiên cứu tìm kiếm đƣợc trên mạng xã hội chỉ tập trung vào một số nhóm nhƣ dân
công sở, ngƣời có trình độ học vấn cao, trẻ tuổi và sống tập trung ở khu vực thành
phố, thị xã, thị trấn. Những ngƣời cũng lựa chọn giới tính thai nhi nhƣng sống ở
vùng nông thôn, làm các công việc lao động chân tay và ở độ tuổi trung niên bị bỏ
qua bởi nhóm đối tƣợng này phần lớn đều không sử dụng internet. Nếu có, việc
tham gia các diễn đàn, mạng xã hội của họ cũng rất hạn chế. Mặc dù có một vài
ngƣời khá nhiệt tình khi biết đƣợc mục đích nghiên cứu của tác giả nhƣng việc sử

dụng mạng xã hội để thực hiện nghiên cứu không khả quan. Một thành viên trên fan
page webtretho đã giới thiệu tác giả đến phòng khám của thầy P ở Đình Trám – Bắc
Giang. Tuy nhiên, do bốc thuốc Bắc chỉ là nghề phụ của thầy nên khách hàng nếu
muốn đến khám thƣờng phải hẹn lịch trƣớc với thầy. Vì vậy, phòng khám của thầy
rất vắng khách, việc tiến hành nghiên cứu ở đây cũng không thuận lợi.

14


Trong lúc đang gặp khó khăn khi tìm kiếm và tiếp cận địa bàn nghiên cứu,
thông qua một ngƣời quen, tác giả đƣợc giới thiệu đến phòng khám của thầy Phong
ở Quế Võ, Bắc Ninh. May mắn rằng thầy Phong trƣớc khi quay trở về nhà học nghề
bốc thuốc gia truyền vốn là một nhà văn, nhà báo nên ngay khi tác giả trình bày về
đề tài nghiên cứu, thầy đã hiểu và đồng ý để tác giả hàng ngày đến quan sát,làm các
công việc phục vụ cho đề tài.
Khác với phòng khám của thầy Đông, phòng khám của thầy Phong chỉ có một
mình thầy làm việc, từ bắt mạch, kê đơn đến bốc thuốc. Thầy cũng là ngƣời khá khó
tính. Nếu lƣợng khách đến khám đông, công việc nhiều, khách hàng thắc mắc quá
nhiều thì có thể bị thầy đuổi về. Vì vậy, trong gần một tháng đầu tiên, dù đƣợc thầy
tạo điều kiện, song công việc chính của tác giả khi đến đây là phụ giúp thầy bốc
thuốc. Vào những ngày vắng khách và xen kẽ trong lúc thầy Phong bắt mạch, tác
giả tranh thủ làm quen, giới thiệu với các cặp vợ chồng đến khám. Việc trao đổi cụ
thể với các đối tƣợng nghiên cứu chỉ thực hiện đƣợc khi tác giả trực tiếp đến nhà
của họ.
Khó khăn khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu
Mặc dù đƣợc thầy Phong tạo điều kiện giúp đỡ, giới thiệu với khách hàng:
“Đây là sinh viên đang làm luận văn về vấn này, không phải nhà báo nên có hỏi gì
các cháu cứ trả lời” nhƣng lại một lần nữa, tác giả vấp phải sự e dè, thờ ơ từ phía
các cặp đôi. Họ đùn đẩy cho nhau và từ chối giúp đỡ tác giả. Nếu có, sự giúp đỡ ấy
thƣờng không đủ để tiến hành nghiên cứu sâu. Hầu hết các cặp vợ chồng sinh con

theo ý muốn đều mang tâm lý bàng quan khi có ai đó hỏi về vấn đề này với mục
đích tìm hiểu, “hỏi để biết”, để nghiên cứu. Tuy nhiên, họ lại rất sẵn sàng tâm sự,
chia sẻ với những ngƣời cùng hoàn cảnh. Đây là phản ứng thƣờng gặp, không chỉ
đối với những ngƣời ở độ tuổi trung niên mà ngay cả với những ngƣời trẻ tuổi, hiện
đại và không gặp mặt trực tiếp nhƣ khi tác giả đặt vấn đề nghiên cứu trên mạng xã
hội. Điều này xuất phát từ tâm lý mong muốn tìm kiếm một sự đồng cảm của mỗi
cá nhân. Ngƣời ta cho rằng chỉ những ngƣời cũng giống nhƣ mình mới cần biết, có
thể biết và hiểu đƣợc câu chuyện của mình. Việc có ai đó nghiên cứu về lựa chọn

15


giới tính thai nhi hay sinh con theo ý muốn có vẻ nhƣ không liên quan đến họ, mà
liên quan đến ai đó, rằng nhà nghiên cứu sẽ tìm hỏi những ngƣời khác chứ không
phải là mình. Việc “bị” tìm hiểu, nghiên cứu dƣờng nhƣ phiền phức và vô bổ đối
với họ. Bởi lẽ, họ sẽ không tìm đƣợc sự đồng cảm hoặc những chia sẻ của họ cũng
không giúp thêm ai thỏa mong ƣớc có con trai.
“Em hỏi thì chị nói thế thôi chứ chắc em cũng chẳng hiểu được đâu”
(Phỏng vấn sâu, nữ, 29 tuổi, lao động tự do, Chƣơng Mỹ - Hà Nội, 2015, thầy
Phong)
Một bất lợi nữa của tác giả khi tiếp cận đối tƣợng nghiên cứu đó là tuổi tác.
Câu hỏi đầu tiên mà tác giả nhận đƣợc khi đến với các cặp vợ chồng là “Cháu đã có
chồng chưa” hoặc “em có gia đình chưa”. Ngay khi biết tác giả chƣa có gia đình,
họ tỏ rõ sự thất vọng mặc dù tác giả đã cố gắng giải thích cho họ hiểu về công việc
của mình.
“Thế thì khó đấy. Cháu chưa chồng con gì thì không hiểu được đâu”
Hay “Cháu cũng tầm tuổi con gái chú, ăn chưa no, lo chưa tới thì làm sao mà
hiểu được”.
(Phỏng vấn sâu, nam, 47 tuổi, nông dân, Vĩnh Phúc, 4/2015, thầy Đông)
4.2.2. Thái độ và phản ứng xã hội trước đề tài nghiên cứu

Phản ứng đầu tiên mà tác giả gặp phải đó là của bạn bè, đồng nghiệp và những
ngƣời xung quanh.
Một số ngƣời bạn ủng hộ nhƣng vẫn cảnh báo những khó khăn mà tác giả có
thể gặp phải khi triển khai đề tài này.
“Đề tài này cũng mới nhưng chị sợ khó làm đấy. Không phải ai người ta cũng
nói đâu”.
(Đồng nghiệp, nữ, 38 tuổi, công chức, Hà Nội, 3/2016)
“Cậu làm ra ngô ra khoai cái này thì cũng được đấy. Nhưng nhìn cậu như
phóng viên thế này cẩn thận đến bị ăn đòn thì khổ”.
(Bạn học, nữ, 25 tuổi, Hà Nội, 3/2015)

16


Cũng có nhiều ngƣời e dè, ngăn cản tác giả bởi đề tài này khá nhạy cảm và
khó tiếp cận.
“Sao không chọn cái khác mà làm, làm cái này làm gì cho khó ra?”
(Bạn học, nữ, 27 tuổi, Hà Nội, 3/2015)
“Thế này khác gì tự nhiên đi lấy cái dây xong trói mình lại. Em làm cái mà
người ta làm trước rồi cho nó đỡ vất vả”
(Đồng nghiệp, nam, 28 tuổi, Hà Nội, 3/2016)
Những khó khăn mà ngƣời thân quen cảnh báo, tác giả cũng đã có thể lƣờng
đƣợc trƣớc nên không bất ngờ khi gặp những phản ứng này. Tuy nhiên, vẫn có khá
nhiều tỏ ra dè chừng, lảng tránh khi biết đề tài mà tác giả đang theo đuổi. Mặc dù
sinh con đẻ cái vốn đƣợc coi là điều hết sức bình thƣờng, nhƣ một lẽ tự nhiên nhƣng
tìm hiểu về vấn đề sinh đẻ lại dễ bị ngƣời xung quanh đánh giá bởi tác giả là nữ
giới, trẻ tuổi và chƣa lập gia đình. Nhiều ngƣời cho rằng con gái chƣa có gia đình
mà tìm hiểu về vấn đề sinh đẻ đồng nghĩa với việc hiểu hết những chuyện nam nữ.
Những ngƣời con gái nhƣ vậy dễ bị cho là không đứng đắn, đặc biệt là đối với cái
nhìn của nam giới.

“Thế em đã biết hết (về chuyện nam nữ - chú thích của tác giả) chưa mà đòi
làm?”
(Bạn học, nam, 27 tuổi, Hà Nội, 4/2015)
“Giỏi nhỉ, chị biết hết rồi à? Em thấy bảo còn phải nghiên cứu cả các tư thế
nữa đấy.”
(Bạn học, nam, 24 tuổi, Hà Nội, 3/2015)
Phản ứng của bạn bè, đồng nghiệp trƣớc đề tài nghiên cứu của tác giả là bằng
chứng cho thấy dƣ luận xã hội dễ quy chụp cho những ngƣời con gái tìm hiểu về
các vấn đề nhạy cảm nhƣ sinh đẻ, SKSS hay mại dâm…là ngƣời không đứng đắn.
Những phản ứng của bạn bè, ngƣời thân xung quanh về đề tài nghiên cứu đã đƣợc
tác giả dự đoán trƣớc. Việc giới thiệu về đề tài của mình với những ngƣời xung
quanh, một mặt giúp tác giả liên hệ, tạo kênh thông tin để tìm kiếm đối tƣợng, địa
bàn nghiên cứu cũng nhƣ những hỗ trợ, giúp đỡ về chuyên môn. Thực tế, một số

17


thông tín viên tác giả có đƣợc chính là nhờ vào sự gợi ý, giới thiệu của bạn bè. Mặt
khác, phản ứng của mọi ngƣời về đề tài nghiên cứu có phần nhạy cảm này cũng cho
thấy những định kiến, chuẩn mực, giá trị mà một bộ phận lớn các cá nhân trong xã
hội quy cho ngƣời con gái “ngoan”, “đứng đắn”. Điều này cũng tƣơng tự nhƣ cái
chuẩn mà ngƣời ta quy cho hành vi sinh con đẻ cái, rằng có nếp có tẻ mới là đẹp.
Nó cũng thể hiện đƣợc phần nào những khó khăn, hạn chế khi một ngƣời con gái
chƣa có gia đình nghiên cứu về vấn đề đƣợc không ít ngƣời mặc định là chỉ thích
hợp với phụ nữ đã có gia đình.
5. Mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Thông qua khảo sát tại một phòng khám Đông y, đề tài
nghiên cứu của luận văn nhằm chỉ ra thực trạng LCGTTS hiện nay, phân tích yếu tố
tâm lý của ngƣời trong cuộc để chỉ ra nguyên nhân, động lực khiến họ làm nhƣ vậy:
đó là sự ràng buộc của yếu tố văn hóa truyền thống, hệ tƣ tƣởng phong kiến tới

hành vi sinh đẻ của các cặp vợ chồng.
Câu hỏi nghiên cứu:
 Thực trạng mất CBGTKS ở Việt Nam hiện nay nhƣ thế nào?
 Bối cảnh văn hóa dẫn tới hành vi LCGTTS ở Việt Nam là gì?
 Hành trình tìm kiếm con trai của các cặp vợ chồng diễn ra nhƣ thế nào?
Hạn chế nghiên cứu
Do những hạn chế về mặt phƣơng pháp cũng nhƣ nguồn tài chính, nhân lực,
nghiên cứu này không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Trƣớc hết, địa bàn
nghiên cứu đƣợc lựa chọn là phòng khám Đông y nên đối tƣợng nghiên cứu đƣợc
lựa chọn không bao gồm những ngƣời LCGTTS bằng các biện pháp y học hiện đại,
cầu tự hay các phƣơng pháp khác. Nghiên cứu của tác giả chỉ thực hiện trên những
cặp vợ chồng lựa chọn sinh con trai mà bỏ qua những cặp vợ chồng lựa chọn sinh
con gái. Vì vậy, mẫu nghiên cứu chƣa thực sự mang tính đại diện, khái quát cao.
Đề tài đi vào nghiên cứu trƣờng hợp, các kết quả định lƣợng thu thập đƣợc
còn hạn chế, chủ yếu sử dụng số liệu có sẵn nên kết quả nghiên cứu phần nào còn
phiến diện, chƣa bao quát.

18


6. Cấu trúc luận văn
Bố cục của luận văn đƣợc chia thành ba phần chính: Phần mở đầu, phần nội
dung và phần kết luận. Cụ thể, phần nội dung bao gồm 3 chƣơng
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chƣơng 2. Bối cảnh văn hóa dẫn tới hành vi LCGTTS
Chƣơng 3. Hành trình tìm kiếm con trai của các cặp vợ chồng

19



CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Các khái niệm và thuật ngữ khoa học
1.1.1 Gia đình đình và sinh đẻ
Gia đình
Giống nhƣ khái niệm văn hóa, khái niệm gia đình cũng có rất nhiều cách hiểu
khác nhau, mỗi nền văn hóa lại có những quan niệm, nhận thức và quy chuẩn khác
nhau về gia đình. Có quan điểm cho rằng “gia đình là một thiết chế xã hội liên kết
con ngƣời lại với nhau nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống và chăm sóc con cái”
[18, tr. 54], hay bởi những vai trò, chức năng riêng của mình, gia đình là một giá trị
(Lê Thị Quý, 2007). Các thành viên trong gia đình không chỉ liên hệ với nhau bằng
mối quan hệ huyết thống, sinh học bình thƣờng mà còn có tình yêu thƣơng, sự chăm
sóc, sự ràng buộc bởi các giá trị văn hóa về đạo lý, tập tục, lễ giáo…
Theo Luật Hôn nhân và gia đình đƣợc sửa đổi, hoàn thiện mới nhất vào năm
2014, gia đình là “tập hợp những ngƣời gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc quan hệ nuôi dƣỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ
với nhau theo quy định của luật này” (khoản 2, điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014).
Trong đề tài này, tác giả sử dụng khái niệm “gia đình” theo quy định trong
Luật Hôn nhân và gia đình, gắn gia đình với chức năng tâm lí, tình cảm, chức năng
sinh sản và tái sản xuất con ngƣời, xã hội. “Hôn nhân”, “mối quan hệ huyết thống”,
“quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình” là những yếu tố nội hàm cơ
bản của khái niệm gia đình, có ảnh hƣởng trực tiếp tới việc sinh con của các cặp vợ
chồng.
Sinh đẻ
Sinh đẻ hay sinh sản là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, có ý
nghĩa duy trì nòi giống, tái sản xuất xã hội (Đặng Cảnh Khanh, 2007).
Về mặt xã hội, văn hóa Việt Nam truyền thống thƣờng mặc định rằng “trai
khôn dựng vợ, gái lớn gả chồng”, yên bề gia thất rồi thì sinh con, “trời sinh voi, trời
sinh cỏ” nhƣ một lẽ tự nhiên, tất yếu. Những ai đi chệch ra khỏi quy luật tự nhiên


20


ấy, không lập gia đình hay đặc biệt là không có con cái, vô sinh, hiếm muộn sẽ bị
ngƣời đời dè bỉu, cho là vô phúc, gán cho những lời lẽ cay nghiệt “cây khô không
lộc, ngƣời độc không con”. Chính việc coi trọng sinh con đẻ cái nhƣ một lẽ tự nhiên
ấy lại thể hiện rõ những chuẩn mực, kỳ vọng của mỗi cá nhân cũng nhƣ cộng đồng
vào hành vi sinh đẻ.
Trong gia đình Việt Nam, đứa trẻ sinh ra không chỉ gắn kết, củng cố thêm
tình cảm của cha mẹ mà còn mang theo tình yêu, niềm hy vọng của gia đình, dòng
họ, đặc biệt là đối với con trai, cháu đích tôn (Mai Huy Bích, 19913). Ngƣời ta gắn
cho con cái, con trai những mong mỏi, kỳ vọng nhất định. Nếu chƣa có con trai,
nhiều cặp vợ chồng sẽ sinh cho đến khi có đƣợc coi trai mới dừng (Hồ Ngọc Châm,
2011).
Trong một vài thập niên gần đây, các dịch vụ chăm sóc SKSS phát triển, cha
mẹ có thể lựa chọn thời điểm thụ thai, khoảng cách giữa các lần sinh, giới hạn số
con, thậm chí là lựa chọn giới tính thái nhi (UNFPA, 2009). Lúc này, rõ ràng gia
đình là một thiết chế xã hội giúp cho con ngƣời thực hiện việc duy trì nòi giống một
cách chủ động và có tổ chức (Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý, 2007). Sinh đẻ không
đơn thuần là một hành động tự nhiên, chỉ với mục đích duy trì nòi giống nữa mà đã
trở thành một hành động có mục đích, chứa đựng những kỳ vọng mà cha mẹ gửi
gắm.
1.1.2

Tỷ số giới tính khi sinh, lựa chọn giới tính trước sinh

Tỷ số giới tính khi sinh
Tỷ số giới tính khi sinh (SRB) đƣợc xác định bằng số bé trai trên bé gái đƣợc
sinh ra của một thời kỳ, thƣờng là một năm lịch. Tỷ số này thông thƣờng là 104106/100 và nhìn chung ổn định qua thời gian và không gian giữa các châu lục, quốc
gia, khu vực và chủng tộc ngƣời (WHO). Bât kỳ sự thay đổi đáng kể nào của tỷ số

này chệch khỏi mức sinh học bình thƣờng đều phản ánh những can thiệp có chủ ý ở
một mức độ nào đó và sẽ làm ảnh hƣởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự
ổn định dân số toàn cầu [33; tr. 53].

21


×