Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

CHÍNH SÁCH NHÂN TÀI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ 1997 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chính trị học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.25 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN DUY QUÝ

CHÍNH SÁCH NHÂN TÀI
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ 1997 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN DUY QUÝ

CHÍNH SÁCH NHÂN TÀI
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ 1997 ĐẾN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chính trị học.
Mã số: 60310201

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Văn Hà

Hà Nội - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Chính sách nhân tài ở thành phố Đà Nẵng từ
1997 đến nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học
của TS.Ngô Văn Hà, trước đó chưa có bất cứ tác giả nào công bố.
Những tư liệu và số liệu sử dụng trong bản luận văn là có tính xác thực và
nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả

Nguyễn Duy Quý


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tác giả xin
bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới tập thể cán bộ, giảng viên hiện công tác tại
khoa Khoa học Chính trị, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Cảm ơn anh chị em học viên lớp Cao học Chính trị
Khóa 2013 – 2015 đã ủng hộ, chia sẻ trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả gửi lời cảm ơn chân thành tới TS.Ngô Văn Hà nhờ sự
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy, tác giả đã hoàn thành luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Chính trị học.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song giới hạn về năng lực nghiên cứu
khoa học, phát hiện và giải quyết vấn đề nên luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế. Do vậy, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy,
cô giáo và những ý kiến đóng góp của những người quan tâm.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 4
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................... 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................... 12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 12
6. Những đóng góp của luận văn ..................................................................... 13
NỘI DUNG...................................................................................................... 14
Chƣơng 1. VAI TRÒ CỦA NHÂN TÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
XÃ HỘI ........................................................................................................... 14
1.1 . Một số quan điểm về nhân tài trong lịch sử ................................................... 14
1.2. Đặc trưng, vai trò của nhân tài ............................................................... 21
1.2.1. Đặc trưng của nhân tài ................................................................... 21
1.2.2. Vai trò của nhân tài ...................................................................... 24
1.2.3. Chính sách nhân tài...................................................................... 26
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng, trọng dụng nhân tài ......................................................................... 29
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 33
Chƣơng 2. THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VỚI CHÍNH SÁCH NHÂN TÀI
TRONG NHỮNG NĂM QUA ...................................................................... 34
2.1. Khái quát về chính sách nhân tài của Việt Nam hiện nay ............... 34
2.2. Chính sách nhân tài của thành phố Đà Nẵng thời gian qua............... 42
2.2.1. Chính sách của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng về xây dựng nhân tài
phục vụ triển kinh tế - xã hội .................................................................... 42
2.2.2. Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm từ thực tiễn ............................ 49
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 58

1



Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH NHÂN TÀI CỦA
ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI ....................................................... 59
3.1. Định hƣớng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng bộ thành phố Đà
Nẵng đến năm 2020........................................................................................................... 59
3.1.1. Bối cảnh chung ............................................................................... 59
3.1.2. Một số định hướng chính ................................................................ 60
3.1.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn nhân lực, nhân
tài ở thành phố Đà Nẵng hiện nay ............................................................ 62
3.2.2. Chiến lược về nhân tài của thành phố Đà Nẵng đến 2020 tầm
nhìn 2030 ................................................................................................. 65
3.2.1. Phương hướng, mục tiêu phát triển đội ngũ nhân tài .................... 65
3.2.2. Một số giải pháp cơ bản ................................................................. 66
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................... 80
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO ....................................................... 83

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

S

Tên đầy đủ

Tên viết tắt

tt
1


CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2

Nxb

Nhà xuất bản

3

NQ/TW

Nghị quyết Trung ương

4

UBND

ủy ban nhân dân

5

TB/TU

Thông báo/Thành ủy

6


QĐ - UBND

Quyết định ủy ban nhân dân

7

QĐ/TU

Quyết định - Thành ủy

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đang trong kỷ nguyên của sự bùng nổ khoa học – công nghệ
ở đó tri thức đã vật hóa vào phần lớn giá trị của sản phẩm. Điều này cho thấy
vai trò của nguồn lực con người trong việc đẩy nhanh quá trình phát triển và
sự thành công của mỗi quốc gia, dân tộc được quyết định bởi chất lượng
nguồn lực con người của bản thân quốc gia đó.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH phấn đấu đến
năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Xây dựng nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về
cơ cấu ngành nghề là cơ sở đảm bảo cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa thành công.
Cùng với cả nước, Đà Nẵng đang trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế với mục tiêu phát triển
nhanh và bền vững. Với quan điểm cần thiết phải phát triển đội ngũ nhân tài,
gắn kết việc tuyển chọn, đào tạo và sử dụng nhân tài, Đại hội lần thứ XX,
nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ thành phố xác định:

“Xây dựng và thực hiện cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, trọng dụng đối
với những người có đức, có tài, mở rộng việc thực hiện chủ trương thi tuyển
để bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý các cơ quan nhà nước”,
“Quan tâm hơn nữa đến chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện tốt
chính sách thu hút, giữ chân người tài và cán bộ có trình độ cao trên các lĩnh
vực, cán bộ quản lý sản xuất - kinh doanh, khoa học và công nghệ, chuyên gia
đầu ngành. Ưu tiên tuyển dụng, bố trí sinh viên giỏi làm việc trong các cơ
quan đảng, nhà nước, mặt trận, đoàn thể” [3, tr. 412].
Sau gần 20 năm tách tỉnh với Quảng Nam, Đà Nẵng đã có quá trình
phát triển ấn tượng đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực đời sống

4


xã hội. Trong đó, kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế được
chuyển dịch theo đúng hướng, các nguồn lực xã hội được phát huy, các
ngành, lĩnh vực đều có bước phát triển. Thành phố dành nhiều sự quan tâm
phát triển đến các lĩnh vực xã hội, xây dựng môi trường văn hóa, thực hiện
nhiều chính sách xã hội giàu tính nhân văn, quốc phòng an ninh được giữ
vững, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên, từng
bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Một trong những nguyên
nhân quyết định giúp thành phố đạt được kết quả nói trên là nhờ những chính
sách hợp lý trong vấn đề đào tạo sử dụng nhân tài của các cấp chính quyền.
Tuy nhiên, sự phát triển nói trên của Đà Nẵng theo chúng tôi vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Thành phố và chưa đảm bảo được sự
phát triển mang tính bền vững trong tương lai. Xác định con người là nguồn
lực quan trọng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, trong đó đặc biệt quan
tâm đến việc thu hút, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng người tài.
Tại Đại hội lần thứ XXI của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã khẳng định:
“Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các đề án phát triển nguồn nhân lực chất

lượng cao đang triển khai, nhất là trong khâu phát hiện, đào tạo, bố trí sử
dụng và bồi dưỡng nhân tài. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng yêu cầu thực tiễn, gắn kết hiệu quả giữa thu hút, đào tạo và sử dụng
dựa trên định hướng phát triển và nhu cầu nhân lực của thành phố. Khuyến
khích, tạo điều kiện đào tạo nguồn nhân lực khu vực ngoài nhà nước, xây dựng
đội ngũ chuyên gia đầu ngành giỏi, đội ngũ doanh nhân năng động” [4, tr. 82].
Để thực sự trở thành “thành phố đáng sống”, “thành phố phát triển bền
vững”, Đà Nẵng cần phải có bước đột phá trong việc phát huy nguồn lực con
người, thực hiện hiệu quả chính sách nhân tài trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tìm hiểu chính sách nhân tài của thành
phố Đà Nẵng, đánh giá thành công và hạn chế, rút ra những bài học kinh

5


nghiệm, đồng thời đề xuất những giải pháp trong thời gian tới là việc làm cần
thiết và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Ngày 6/11/1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua
Nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam
và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Về địa giới hành chính, thành
phố Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây, huyện Hòa Vang
và huyện đảo Hoàng Sa. Sau khi tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam và trực thuộc
Trung ương vấn đề đặt ra cho chính quyền thành phố Đà Nẵng là hoàn thành
nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước, nhân dân giao phó. Chính quyền thành
phố Đà Nẵng xác định chìa khóa để mở ra cánh của phát triển cho Thành phố
chính là nguồn lực con người, do đó cần thiết phải đầu tư phát triển con
người, một cách hợp lý và có hiệu quả. Những khó khăn ban đầu về kinh tế xã hội và thiếu nguồn nhân lực đảm bảo số lượng và chất lượng là lý do để
Thành phố đề ra những chính sách mang tính đột phá, tính đặc thù của địa
phương lien quan đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực, nhân tài phục vụ sự
nghiệp xây dựng Đà Nẵng trở thành một đô thị phát triển.

Với tính cấp thiết như trên chúng tôi chọn đề tài “Chính sách nhân tài
ở thành phố Đà Nẵng từ 1997 đến nay” làm luận văn tốt nghiệp chuyên
ngành chính trị học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn
đề phát hiện, phát triển, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ nhân tài, tăng
cường nguồn nhân lực luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng. Qua
các kỳ đại hội, các nghị quyết Trung ương tư duy của Đảng trong vấn đề nhìn
nhận vai trò của nhân tài, trí thức đã có những đổi mới. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định và nhấn mạnh công tác

6


cán bộ, coi đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng:
“Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu
ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công
nhân kỹ thuật có tay nghề cao” [13, tr.212].
Trong xây dựng và phát triển một xã hội nhân văn, con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Hiện nay, với bất kỳ quốc gia nào
nguồn lực con người luôn giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Để
nước ta sớm thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển và thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì việc khai thác và phát triển
nguồn nhân lực đang trở thành một vấn đề bức thiết. Đây là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu trong chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của toàn quốc cũng như của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương. Vấn đề
đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội luôn là vấn đề được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu nhưng vẫn luôn mang tính thời sự. Đẩy nhanh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với nền kinh tế tri thức thì những vấn đề liên
quan đến việc làm sáng tỏ vị trí, vai trò của con người trong quá trình phát
triển càng được quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau.
Thứ nhất, các công trình về xây dựng và phát triển nguồn lực trí tuệ
Việt Nam:
Nguyễn Văn Khánh “Xây dựng và phát triển nguồn lực trí tuệ Việt
Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước” (2010), công trình này đã
nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề xây dựng và phát huy nguồn lực trí
tuệ Việt Nam trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha
ông. Mặt khác, công trình này đã trình bày những luận cứ khoa học cần thiết
khi nghiên cứu về đặc trưng, vai trò của nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ

7


nhân tài trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời đề xuất
một số giải pháp xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự
nghiệp phát triển đất nước hiện nay.
Nguyễn Văn Phúc, Mai Thị Thu với công trình “Khai thác và phát
triển tài nguyên nhân lực Việt Nam” (2012). Tác giả đã đề cập đến quá trình
hình thành và phát triển của nguồn nhân lực Việt Nam trong thời gian qua
dưới sự tác động của các yếu tố văn hóa, lịch sử, kinh tế và chính trị cũng như
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, xu thế toàn cầu hóa. Kết quả nghiên cứu
của nhóm tác giả cho thấy trên thực tế, nguồn nhân lực Việt Nam đã hình
thành được những lợi thế nhất định, đã được khai thác, sử dụng và phát huy
được vai trò tích cực của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực nói chung và lực lượng lao động Việt Nam nói
riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập đòi hỏi cần có những nỗ lực to lớn để
khắc phục. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả cũng đề xuất một số gợi ý về các quan
điểm, định hướng và giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, sử

dụng và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam trong giai đoạn tới.
Nguyễn An Ninh với công trình: “Phát huy tiềm năng trí thức khoa học
xã hội Việt Nam” (2008). Tác giả đã trình bày những tiềm năng của đội ngũ
trí thức khoa học đối với sự phát triển. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí chất
xám của đội ngũ trí thức và việc chúng ta vẫn chưa hình thành được cơ chế,
môi trường làm việc thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy hết khả năng của
mình cũng được tác giả giành nhiều công sức để luận giải.
Nguyễn Đắc Hưng: “Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước” (2007),
và “Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại” (2008). Qua hai công trình nói trên,
tác giả đã làm sáng tỏ những phẩm chất, năng lực cần có của nhân tài, kinh
nghiệm đào tạo sử dụng nhân tài của cha ông ta và một số quốc gia trên thế
giới, một số nội dung cơ bản về phát triển nhân tài.

8


Tác giả Đức Vượng với công trình:“Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và
trọng dụng nhân tài” (2010). Qua công trình tác giả trình bày những quan
điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ; quá trình đào tạo,
rèn luyện và sử dụng cán bộ, sử dụng nhân tài qua các giai đoạn lịch sử cách
mạng Việt Nam. Người cho rằng, cán bộ là một trong những vấn đề có ý
nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi
thời kỳ cách mạng: “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng”; “phải hiểu cán bộ”, “phải cất nhắc cán bộ một
cách cho đúng” [21, tr. 776]. Vì vậy, chúng ta cần phải trọng nhân tài, trọng
cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung. Chúng tôi cho rằng,
công trình này đã chỉ ra những luận điểm quan trọng về mặt lý luận của Bác
đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, người tài. Trong điều
kiện đất nước ta đã và đang đẩy mạnh cuộc vận động “học tập và làm theo

tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cuốn sách đã có những gợi mở hữu ích cho
chúng tôi khi tìm hiểu về việc vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh trong
chiến lược đào tạo nguồn nhân lực của đất nước ta hiện nay.
Tác giả Đặng Hữu với công trình: “Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2001). Kinh tế tri thức là một giai
đoạn phát triển mới của lịch sử loài người. Từ kinh tế công nghiệp, dựa vào
máy móc tài nguyên thiên nhiên là chủ yếu nay chuyển sang nền kinh tế tri
thức, dựa vào tri thức và thông tin là chủ yếu, trong đó khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp và quan trọng hàng đầu. Qua công trình nghiên cứu
này, tác giả đã chỉ rõ khái niệm, bản chất và xu hướng phát triển cũng như tác
động của kinh tế tri thức với các nền kinh tế. Do đó, đây là cơ hội và cũng là
thách thức lớn mà nước ta phải đối mặt trong tiến trình phát triển.

9


Tác giả Dương Anh Hoàng với công trình: “Phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng” (2012). Qua
công trình nghiên cứu tác giả đã trình bày có hệ thống những vấn đề lý luận
về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực, phân tích và đánh giá thực
trạng phát triển nguồn nhâ lực ở Đà Nẵng, chỉ rõ những thành tựu và hạn chế
trong quá trình phát triển nguồn nhân lực của Thành phố. Thông qua đó, đề
xuất các giải pháp và định hướng phát triển nguồn nhân lực phục vụ quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Đà Nẵng hiện nay.
Tần Xuân Bảo với công trình: “Đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý
kinh nghiệm từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” (2012). Công trình được
tác giả nghiên cứu tổng kết và đưa ra những kiến nghị, đề xuất trong công tác
đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian
qua, theo chúng tôi công trình cung cấp những bài học kinh nghiệm cho các
địa phương trong vấn đề đào tạo sử dụng cán bộ quản lý các cấp.

Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu với công trình: “Tôn trọng trí thức
tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước” (2008) công trình đã
đề cập đến nội dung cơ bản: nhân tài là yếu tố then chốt của phát triển, đường
lối tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, những tư tưởng chiến lược về bồi
dưỡng và giáo dục nhân tài, về tuyển chọn nhân tài ưu tú và về tạo môi trường
cho nhân tài phát triên.
Thứ hai, các bài viết về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực
ở thành phố Đà Nẵng:
Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong quá
trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng có một số
công trình nghiên cứu sau:
Tác giả Trần Văn Minh: “Định hướng và giải pháp phát triển nhân lực
thành phố Đà Nẵng đến năm 2020” (2011). Bài viết góp phần làm rõ những

10


kết quả nổi bật cũng như những tồn tại bất cập trong công tác phát triển nguồn
nhân lực của Thành phố Đà Nẵng những năm qua, từ đó đề xuất mục tiêu và
định hướng phát triển nguồn nhân lực của Đà Nẵng đến 2020. Nguyễn Văn
Nam với bài viết: “Để phát huy hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng” (2011), qua bài viết tác giả đã nêu lên thực
trạng phát triển của đội ngũ trí thức của thành phố Đà Nẵng đồng thời gợi mở
một số biện pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò bộ phận lao động nói trên
trong công cuộc xây dựng phát triển của địa phương. Tác giả Lê Hữu Ái,
Nguyễn Phước Phúc: “Những đột phát của Đà Nẵng về thu hút, đào tạo và sử
dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cho tái cấu trúc kinh tế” (2012). Qua bài
viết các tác giả đã tiến hành phân tích thực trạng về thu hút, đào tạo và sử
dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cho mục đích tái cơ cấu nền kinh tế
trong thời gian qua tại thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề xuất các nhóm

giải pháp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó trong quá trình tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi cũng tham
khảo: “Đề án quy hoạch (điều chỉnh) phát triển nguồn nhân lực thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2011-2020” của UBND thành phố Đà Nẵng (2012).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1.

Mục đích nghiên cứu:

Làm rõ chính sách nhân tài của thành phố Đà Nẵng từ 1997 đến nay, sở
dĩ chúng tôi chọn thời điểm nói trên là do từ 1997 Quốc hội đã biểu quyết
thông qua việc cho phép Đà Nẵng tách khỏi tỉnh Quảng Nam thành lập cơ
quan hành chính riêng.
Đề xuất một số giải pháp nhằm làm tốt hơn nữa công tác nhân tài, phát
triển đội ngũ nhân tài, phục vụ yêu cầu phát triển thành phố Đà Nẵng trong
những năm tiếp theo.

11


3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để hoàn thành được mục đích nghiên cứu nói trên luận văn thực hiện 3
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những luận điểm khoa học về vị trí, vai trò của nguồn nhân
lực, đặc biệt là đội ngũ nhân tài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá đưa ra những kết luận về thực trạng công tác nhân
tài của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay.

- Đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
nhân tài trong quá trình phát triển của thành phố Đà Nẵng trong những năm
tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1.

Đối tƣợng nghiên cứu

Hệ thống chính sách nhân tài ở thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến
nay và phương hướng giải pháp phát triển nhân tài trong thời gian tới.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Chính sách của thành phố Đà Nẵng trong việc phát huy vai trò của
nhân tài trong sự nghiệp xây dựng, phát triển thành phố Đà Nẵng từ năm 1997
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1.

Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận là những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và trọng dụng nhân tài.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện chúng tôi còn tham khảo một số
công trình nghiên cứu, những bài báo khoa học của nhiều nhà nghiên cứu về
vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn.

12



Bên cạnh đó, luận văn còn tham khảo một số tài liệu về vấn đề tuyển
chọn, sử dụng nhân tài của một số quốc gia trên thế giới, kinh nghiệp của một
số địa phương trong nước về đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức và
nguồn nhân lực chất lượng cao.
5.2.

Về phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp trong nghiên cứu chính trị
học: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, lịch sử và
logic, phép biện chứng duy vật. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng cơ sở lí luận
về chính sách công khi giải quyết những vấn đề đặt ra trong để tài của mình.
6. Những đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: luận văn làm rõ hơn vị trí, vai trò và những đóng góp
của nhân tài đối với việc phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng.
Về mặt thực tiễn: luận văn làm rõ những thành quả, hạn chế của công
tác nhân tài của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua. Đề xuất một số giải
pháp nhằm phát huy vai trò của nhân tài vào việc xây dựng thành phố Đà
Nẵng phát triển năng động, bền vững.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan trong nghiên cứu về nguồn nhân lực, chính sách nhân tài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương 6 tiết.

13



NỘI DUNG
Chƣơng 1
VAI TRÒ CỦA NHÂN TÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1.1. Một số quan điểm về nhân tài trong lịch sử
Hiện nay các nhà nghiên cứu đang có nhiều cách tiếp cận khác nhau về
khái niệm nhân tài. Tại phương Tây, theo nghĩa thông thường: “nhân tài được
hiểu là những người có tài năng” [45, tr. 25]. Theo Robert Albert – học giả
người Mỹ, nhân tài có ba đặc trưng: “Một là tính sáng tạo, hai là tính kiệt
xuất, ba là có tầm ảnh hưởng lớn” [45, tr. 26].
Tại Trung Quốc, ngay từ rất sớm nhân tài được coi là những người có
tài và có học. Khái niệm nói trên đã góp phần hình thành nên truyền thống
trọng hiền tài trong lịch sử Trung Quốc. Khái niệm nhân tài trong giai đoạn
hiện nay được thông qua tại Hội nghị Trung ương Trung Quốc về công tác
nhân tài đó là: “Nhân tài là những người có tri thức và năng lực nhất định, có
thể tiến hành lao động sáng tạo, đem lại những cống hiến và sáng tạo nhất
định cho sự phát triển kinh tế và xã hội” [45, tr.29]. Theo Thẩm Vinh Hoa –
Ngô Quốc Diệu: “nhân tài là người mà trong những điều kiện xã hội nào đó,
bằng lao động sáng tạo của mình, có thể làm nên những công hữu lớn cho xã
hội”[19, tr. 11].
Tại Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: “nhân tài:
người có tài năng xuất sắc” [47, tr. 688], hoặc là: “nhân tài” (nhân là người,
tài là tài năng). Người có tài năng, có thể đảm đương những việc khó, trong
bất kỳ lĩnh vực cụ thể hay trong một lĩnh vực nào đó khi có vấn đề nảy sinh
mà có người giải quyết được thì đó được gọi là người tài. Tài năng là một
trong những giá trị quý giá nhất của con người. Một cách hiểu khác vẫn
thường được dùng: “nhân tài là những người có tài năng vượt trội trong một
lĩnh vực hoạt động nào đó. Khái niệm “nhân tài” thường gắn với khái niệm

14



“năng lực” – là khả năng của con người có thể hoàn thành tốt công việc [28,
tr. 38]. Cách tiếp cận nói trên cho thấy nhân tài khác người bình thường về
khả năng sáng tạo và sự đóng góp cho cộng đồng xã hội. Nhân tài thường có
động cơ hoạt động vì lợi ích xã hội, cộng đồng, biết kết hợp hài hòa nhiều lợi
ích, sử dụng tiềm năng và khả năng một cách sáng tạo, giải quyết nhiệm vụ
đạt kết quả cao. Trong xã hội nào cũng vậy, nhân tài phải là người thực sự có
tài năng và đức độ vượt trội, có những đóng góp được xã hội công nhận, hoặc
là những người có khả năng dùng người tài, có tầm nhìn chiến lược có uy tín
và tầm ảnh hưởng trong xã hội.
Một định nghĩa khác về nhân tài được tác giả Nguyễn Đắc Hưng trình
bày trong công trình: Nhân tài với tương lai đất nước (2013):
“Nhân tài là người say mê, nhiệt tình, tích cực trong hoạt động, có tác
động lớn đến xã hội; là người thông tuệ, giàu tính sáng tạo, có tâm hồn trong
sáng, giàu tính nhân văn và có một số phẩm chất nổi bật: giàu nghị lực, kiên
trì tự học, tự đào tạo, biết phát hiện ra những vấn đề mới, tìm cách giải quyết
vấn đề một cách sáng tạo. Điều quan trọng là kết quả công việc của nhân tài
phải có cống hiến nổi bật cho nhân dân, cho xã hội, được cộng đồng suy tôn,
thừa nhận” [28, tr.42].
Ngoài ra trong công trình nghiên cứu: Một số vấn đề về trí thức và
nhân tài, tác giả Đức Vượng cũng có một cách tiếp cận khác về nhân tài:
“Nhân tài là bộ phận ưu tú trong giới trí thức, là những người tài giỏi,
có những cống hiến, những công trình về lý luận chính trị, kinh tế, khoa học,
kỹ thuật, khả năng lãnh đạo, quản lý, nhà giáo dục, nhà ngoại giao, nhà thiết
kế, tổng công trình sư... thật sự có tài năng” [53, tr. 75].
Từ những quan niệm trên về nhân tài, trong giới hạn nghiên cứu của
luận văn, các tác giả cho rằng nhân tài là:

15



Nhân tài là bộ phận ưu tú trong xã hội, là người tài giỏi, vừa có đạo
đức, vừa có phẩm chất năng lực vượt trội, có những cống hiến cho xã hội. Đó
là các nhà khoa học, nhà lý luận, nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà giáo dục,
nhà thiết kế, tổng công trình sư, thầy thuốc, nghệ nhân, nghệ sỹ...thật sự có
tài năng, được cộng đồng ghi nhân và suy tôn.
Bản chất, nguồn gốc của nhân tài có thể xuất hiện do di truyền, Song,
có thể khẳng định rằng yếu tố quyết định đến việc hình thành đội ngũ người
tài phần nhiều là do quá trình giáo dục, sự khổ luyện, cần mẫn, chịu suy nghĩ
mà thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: con người ta “phần nhiều do giáo
dục mà nên” [23, tr. 413]. Do đó việc xác định nhân tài không thể đơn giản là
thông qua hồ sơ lý lịch, cũng không thể thông qua bằng cấp đạt được trong
một hệ thống giáo dục nhất định vì bằng cấp mới chỉ là sự phân biệt về trình
độ học vấn chứ không phải là đặc điểm để nhận diện nhân tài. Với quan niệm
cho rằng tài năng của một con người bao gồm: phẩm chất, trình độ và năng
lực thì thì nhân tài chỉ được phát hiện và khẳng định thông qua kết quả hoạt
động thực tiễn. Có phẩm chất, trình độ năng lực mới hoàn thành nhiệm vụ
được giao đạt kết quả cao.
Trong lịch sử, khi nghiên cứu về con người, Triết học Mác khẳng định:
“Con người không chỉ nhận thức được thế giới (tự nhiên - xã hội) mà còn cải
tạo thế giới, thúc đẩy xã hội tiến lên, và do đó con người làm nên lịch sử của
chính mình” [33, tr.29]. Sau này khi phân tích các yếu tố cấu thành nên lực
lượng sản xuất của xã hội, V.I.Lênin không những kế thừa những luận điểm
khoa học của C.Mác mà còn khẳng định:“Lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [57, tr. 430]. Con người
thông qua hoạt động thực tiễn của mình đã góp phần làm phong phú thêm thế
giới tự nhiên, tái tạo tự nhiên theo mục đích của mình. Hoạt động sản xuất vật
chất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của xã hội loài người, vừa là phương thức


16


làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt các quy luật lịch
sử xã hội con người thông qua hoạt động vật chất, tinh thần thúc đẩy xã hội
phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt
ra. Khẳng định vai trò của con người trong quá trình kiến tạo lịch sử, xã hội
trong điều kiện đảng lãnh đạo chính quyền V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Đối với
chúng ta, một “chuyên gia khoa học và kỹ thuật” dù là chuyên gia tư sản
nhưng thạo công việc của mình, thì cũng vẫn mười lần quý hơn người đảng
viên cộng sản huênh hoang” [57, tr. 434]. Người còn khẳng định:
“Người đảng viên cộng sản nào không tỏ rõ được khả năng của mình
biết kết hợp và khiêm tốn hướng dẫn công tác của các chuyên gia, đồng thời
đi sâu vào thực chất của vấn đề và nghiên cứu vấn đề một cách chi tiết, thì
người đảng viên cộng sản đó thường có hại. Chúng ta có nhiều đảng viên
cộng sản như vậy, và tôi có thể đổi hàng tá những người cộng sản đó lấy một
chuyên gia tư sản thành thạo và nghiêm túc nghiên cứu nghiệp vụ của mình”
[59, tr. 110].
Với những khẳng định nói trên có thể thấy rằng V.I.Lênin đặc biệt coi
trọng, đề cao vai trò của những người có năng lực thực sự, chỉ những người
tài năng mới đóng góp được nhiều công sức cho viêc xây dựng đất nước, kiến
thiết xã hội mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc
và nhà văn hóa kiệt xuất là sự ghi nhận của thế giới giành cho Người. Tư
tưởng của Người trở thành tài sản tinh thần quý báu của dân tộc ta. Khi
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài cần lưu ý rằng trong sau thẳm
tư tưởng của Người luôn thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bởi mọi
nhân tài đều sinh ra từ nhân dân và chính nhân dân là người tôn vinh và sử
dụng nhân tài, nhân dân cũng chính là nguồn cảm hứng sáng tạo, lao động
cho nhân tài. Xuyên suốt trong quá trình hoạt động của mình, Hồ Chí Minh


17


luôn coi trọng vai trò của trí thức và nhân tài đối với vận mệnh của dân tộc,
điều này được thể hiện qua việc: trên hành trình từ Liên Xô tới Quảng Châu
(Trung Quốc) trực tiếp đào tạo lớp cán bộ trí thức và cán bộ công nông cho
cách mạng Việt Nam gây dựng cơ sở cách mạng cũng như chỉ đạo phong trào
cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài được
thể hiện qua những nội dung sau:
Thứ nhất, quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân tài. Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên, đào tạo họ trở thành những cán bộ có nhân cách phát triển toàn diện về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Những phẩm chất nhân cách đó của người cán bộ, đảng viên được Người khái
quát ngắn gọn trong hai chữ “đức” và “tài”. Đây là chuẩn mực để mỗi cán bộ,
đảng viên tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, đồng thời là tiêu chuẩn để xem xét,
đánh giá, sử dụng cán bộ của Đảng ta hiện nay.
Nhân tài là người vừa có đức, vừa có tài, là một con người phát triển
toàn diện có sự kết hợp giữa đức và tài, trong đó đức được nói đến trước vì
đây là nền tảng của con người và xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng người có tài
mà không có đức thì vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó. Đức ở đây chính là đạo đức “Là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó
không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc,
của loài người” [21, tr. 252]. Tài được Người quan niệm: “là năng lực của
con người để giải quyết nhiệm vụ được giao phó. Năng lực ấy thể hiện tập
trung ở trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật và lý luận” [22, tr. 36].
Với quan niệm về phẩm chất của một con người toàn diện như trên
Người cho rằng: “Nhân tài: Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào
việc ấy. Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ


18


rèn, người giỏi nghề thợ rèn thì lại giao cho việc thợ mộc, như thế thì hai
người đều thất bại cả hai” [21, tr.230].
Thứ hai, sử dụng nhân tài phục vụ sự nghiệp cách mạng. Trong quá
trình chuẩn bị những điều kiện để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, từ
rất sớm Người đã quan tâm đến việc đào tạo người tài cho cách mạng. Qua
“Chương trình Việt Minh” khi nói đến nhiệm vụ của văn hóa giáo dục “Lập
các trường chuyên môn huấn luyện chính trị, quân sự, kỹ thuật để đào tạo các
lớp nhân tài” [23, tr. 630]. Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, Người
kêu gọi tầng lớp trí thức tham gia cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi nhiều trí
thức đã nhiệt tình tham gia trong đó có cả một số trí thức nước ngoài cũng trở
về nước, đi vào đời sống của quần chúng nhân dân, cùng dân tộc tiến hành
công cuộc kháng chiến và kiến quốc.
Hồ Chí Minh hiểu rõ giá trị của người trí thức đặc biệt là những người
tài đức, họ là lực lượng và động lực không thể thiếu trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, phải thực sự coi trọng,
sử dụng trí thức một cách đúng đắn và trọng dụng người tài. “Nhân tài nước
ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối,
khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều” [22, tr.114]. Người
kêu gọi quần chúng nhân dân tham gia vào việc phát hiện người tài. Bên cạnh
đó, các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương phải điều tra nơi nào có người
tài đức, có thể làm được việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho
Chính phủ biết. “Báo cáo phải rõ: tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện
vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương
phải báo cáo cho đủ” [22, tr. 504]. Chỉ những người tôn trọng tri thức, tôn
trọng nhân tài mới đưa ra những tư tưởng về tìm người tài đức để kiến thiết
nước nhà như Hồ Chí Minh.


19


Thứ ba, Hồ Chí Minh chú trọng đến việc sử dụng nhân tài hợp lý để
phát huy giá trị, sở trường. Người chỉ ra rằng việc sử dụng đúng người đúng
việc là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác, thực tiễn cho thấy
nếu dùng cán bộ không đúng với tài năng của họ cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho hiệu quả công việc thấp, lãng phí tài năng: “Việc dùng
nhân tài, ta không nên căn cứ vào các điều kiện quá khắt khe. Tài to ta dùng
làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực việc gì, ta đặt ngay vào
việc ấy” [22, tr. 39].
Bên cạnh đó Người cũng nhấn mạnh rằng ứng xử với người tài đức cần
có sự khách quan, công tâm: “Mình có quyền dùng người thì phải dùng những
người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào chức nọ
chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ tài năng hơn mình” [21, tr.
105]. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng nước ta Người nhận thấy rằng:
“Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng.
Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật đoàn kết với
họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp
ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước” [21, tr. 276]. Hồ Chí Minh coi đoàn
kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng trong đó có nội dung đoàn
kết, tập hợp những người tài đức, phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi
người có ích cho công việc chung.
Thứ tư, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến vấn đề đào tạo cán bộ trí
thức, bồi dưỡng nhân tài. Vấn đề này đã được thể hiện trong nhiều tác phẩm,
bài viết, bài nói của Người trong đó có những tác phẩm “Đường cách mệnh”,
xuất bản năm 1927, “Sửa đổi lối làm việc” xuất bản năm 1947, “Thường thức
chính trị”, xuất bản năm 1953 và bài “Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần
thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập”, ngày 6-5-1950. Trong thư gửi

Hội nghị giáo dục toàn quốc Người căn dặn: “Chúng ta phải sửa đổi cách dạy

20


cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc” [21, tr. 575].
Nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo cán bộ, dạy và học là công việc quan trọng của
Đảng và Nhà nước, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun
trồng những cây cối quý báu” [24, tr. 356]. Muốn đào tạo tốt yêu cầu phải
hiểu cho rõ hai yếu tố quan trọng là dạy và học.
Đối với người dạy: phải là người có tư cách, có sự hiểu biết rộng và
sâu, mọi lời nói đều phải chính xác, hấp dẫn; tuyệt đối không được định kiến
coi thường người học. Đối với người học: yêu cầu phải xác định rõ mục đích
học để sửa chữa tư tưởng học cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động mới
khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng. Học để tin tưởng vào đoàn
thể, vào quần chúng nhân dân, vào tương lai của dân tộc và tương lai của cách
mạng.
1.2. Đặc trƣng, vai trò của nhân tài
1.2.1. Đặc trưng của nhân tài
Trên thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về con người
nhìn chung đều có xu hướng cho rằng tất cả trẻ em phát triển bình thường đều
tiềm ẩn những năng khiếu khác nhau, đều có khả năng trở thành nhân tài. Do
đó, vấn đề giáo dục toàn diện cho học sinh, tạo điều kiện và cơ hội cho các
em bộc lộ năng khiếu, sở trường, tính đam mê sáng tạo là việc làm mang tính
nhân văn, giúp cho mọi trẻ em đều có cơ hội phát triển tốt nhất để có thể trở
thành nhân tài trong tương lai. Đây được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của ngành giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu về nhân tài, người ta thấy ở lớp
người này mang một số đặc trưng như sau:
Về năng lực trí tuệ
Những người được coi là tài năng thường có trí thông minh, học giỏi,

có năng lực tư duy ở tầm chiến lược, có năng lực suy đoán, thường không bị

21


×