SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 1
Người thực hiện: Nguyễn Thị Nụ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Minh Khai 1
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán
THANH HOÁ NĂM 2019
MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của giải Toán có lời văn ở Lớp 1
2.2. Thực trạng của việc dạy và học dạng Toán có lời văn ở
Lớp 1 trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nang cao chất lượng giải
Toán có lời văn ở Lớp 1.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1.Tổ chức thực nghiệm
2.4.2. Kết quả thực nghiệm:
3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2.Kiến nghị.
TRANG
2
3
3
3
3
4
5-11
11
11-12
12-13
13-14
14-15
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài SKKN
1
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Để hoà chung với sự đi lên của toàn cầu, đất nước đang chuyển mình
trong xu thế đổi mới và phát triển chủ của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
Để bước sang một thời đại mới, một thế kỷ mới. Thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa
học công nghệ thông tin với mục tiêu xây dựng đất nước ta: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Để theo kịp với các nước tiên tiến trên thế
giới, ngành giáo dục đã có đổi mới trong việc dạy và học.
Chương trình dạy học ở Tiểu học rất quan tâm rèn luyện cho học sinh phát
triển toàn diện các mặt: Đức, trí, thể, mỹ ... trong đó trọng tâm là giáo dục đạo
đức, phát triển trí tuệ học sinh. Có thể nói, Toán học là một trong những bộ môn
có vai trò chủ đạo trong việc giúp học sinh phát triển trí tuệ của mình. Bởi vì,
dạy học Toán và nhất là giải Toán, đòi hỏi học sinh phải tư duy một cách tích
cực và linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và kỹ năng đã có vào các tình
huống khác nhau. Học giải Toán học sinh phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo
để phát hiện những dữ kiện, điều kiện chưa được đưa ra môt cách tường minh.
Vì vậy, có thể nói giải Toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của trí
tuệ học sinh.
Qua dạy học giải Toán, giáo viên từng bước giúp học sinh phát triển tư
duy, đồng thời rèn luyện những đức tính và phong cách làm việc của con người
lao động thế kỷ XXI tính nhanh nhẹn, hoạt bát, tính làm việc có kế hoạch, tính
chăm chỉ cận thận, thói quen làm việc xét đoán có căn cứ khoa học, có kiểm tra
kết quả cuối cùng, từng bước hình thành phát triển và rèn luyện thói quen suy
nghĩ làm việc học độc lập, linh hoạt sáng tạo …
Trong quá trình học tập, giải Toán giúp học sinh tạo thói quen không thoả
mãn với kết quả tìm ra để học sinh say mê tìm tòi hơn nữa.
Quá trình dạy học giải Toán giúp học sinh biết trình bày bài làm rõ ràng,
mạch lạc, khoa học, đúng quy cách; biết sử dụng câu lời giải phù hợp ... Từ đó
giúp học sinh hiểu cái hay, cái đẹp trong Toán học.
Vì ý nghĩa giáo dục nhiều mặt của dạy học Toán nói chung, giải Toán nói
riêng, mà trong quá trình dạy học giải Toán phải làm sao cho các em thành thạo các
bài toán có lời văn trong chương trình Lớp 1 là một việc làm cần thiết mà chúng ta
phải bồi dưỡng cho học sinh để làm nền tảng, tạo đà cho các lớp trên. Thực tế giảng
dạy Toán Lớp 1 cho thấy, việc dạy học sinh giải toán có lời văn là việc làm khó
khăn, đòi hỏi giáo viên phải giải quyết tốt các vấn đề liên quan để khắc phục khó
khăn đó. Đồng thời, phối hợp vận dụng những kinh nghiệm của bản thân với kiến
thức và phương pháp dạy học để đạt kết quả tốt. Ngoài ra, phải nắm vững và phân
loại đối tượng học sinh để có kế hoạch dạy học phù hợp với trình độ học sinh, dạy
học phải biết cá thể hoá hoạt động học tập của học sinh để giúp học sinh có khả
năng phát triển tối đa hoạt động trí tuệ của mình. Đấy là
2
mục đích cuối cùng của việc dạy học Toán. Do đó, tôi chọn nghiên cứu “Một số
biện pháp nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn cho học sinh lớp 1” để tìm
ra những biện pháp hữu hiệu nhằm khắc phục các mặt hạn chế, giúp cho việc
giải Toán có lời văn của học sinh Lớp 1 đạt hiệu quả cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
+ Tìm biện pháp giúp học sinh giải Toán;
+ Trang bị thêm kiến thức cho bản thân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
+ Một số biện pháp nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn cho 50 học
sinh lớp 1B trường Tiểu học Minh Khai 1, Thành phố Thanh Hóa năm học 2018
- 2019;
+ Những nguyên nhân và giải pháp để nâng cao chất lượng giải Toán có
lời văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện tốt biện pháp nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn cho
học sinh Lớp 1, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu cơ sơ lí luận;
+ Phương pháp quan sát;
+ Phương pháp khảo sát, thực nghiệm.
2. NỘI DUNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 1
2.1. Cơ sở lí luận của việc giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 1
Trong phân phối chương trình Toán 1, nội dung giải Toán có lời văn chính
thức ở tuần 22 mới có bài cụ thể, vì giai đoạn này học sinh đã học gần hết các
vần, đọc được tương đối nhiều từ ngữ. Nhưng trước đó (từ bài phép cộng trong
phạm vi 4 ở tuần 7) học sinh đã được làm quen với dạng Toán giải ở mức độ
quan sát tranh, nêu miệng bài toán rồi mới viết phép tính thích hợp vào các ô
trống; và đến tuần thứ 16 học sinh tiếp tục được làm quen dạng toán này dựa
vào tóm tắt bài toán để viết phép tính. Như vậy có thể nói, mạch Toán có lời văn
xuyên suốt và chiếm lĩnh thời lượng tương đối lớn ở sách Toán 1. Vì vậy, để
nâng cao chất lượng giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 1 cần có những giải
pháp hữu hiệu nhất.
Môn Toán, đặc biệt là giải Toán có lời văn còn góp phần giáo dục ý thức
tìm tòi sáng tạo và nhiều kỹ năng tính toán cần thiết để con người phát triển toàn
diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới.
Bậc Tiểu học, một yêu cầu quan trọng là dạy cho trẻ cách học nhằm xây dựng
cho học sinh những kỹ năng cơ sở giao tiếp; đặc biệt, giải Toán có lời văn giúp
học sinh phát triển về nhân cách, óc sáng tạo một cách nhẹ nhàng hơn, tự nhiên
hơn và chất lượng hơn.
3
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học phải thiết thực, góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học, tạo điều kiện để cá thể hoá dạy học và khuyến
khích dạy học phát triển ra nội dung của bài học.
2.2. Thực trạng của việc dạy và học về dạng Toán có lời văn Lớp 1
trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Về phía giáo viên:
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã chú ý đến việc phát huy tính tích
cực của học sinh, học sinh tự tìm ra tri thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Hình thức dạy học đa dạng, phong phú, các trò chơi đã được đưa vào dạy
học một cách có hiệu quả nhằm giúp học sinh "học mà chơi, chơi mà học”, từ
đó giúp học sinh nắm chắc bài một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
Bên cạnh đó vẫn còn có phần ít giáo viên do tuổi tác, do trình độ nhận
thức nên việc sáng tạo trong dạy học vẫn có phần hạn chế. Chủ yếu là chuyển tải
nội dung trong Sách giáo khoa, hình thức dạy học tẻ nhạt. Quy trình lên lớp chủ
yếu rập khuôn vào Sách giáo viên do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành nên học
sinh chưa thực sự ham học; phương pháp dạy học của giáo viên chưa phù hợp
với trình độ và tâm lí học sinh, đôi khi còn máy móc, cứng nhắc chưa phát huy
được sự sáng tạo của học sinh.
2.2.2. Về phía học sinh:
Đối với học sinh Lớp 1, tư duy logic chưa phát triển, cơ bản là tư duy cụ
thể nên giải các bài Toán có lời văn đối với các em là rất khó khăn, tỉ lệ làm
đúng còn ít và chưa chặt chẽ. Trong thực tế ở trường tiểu học Minh Khai 1, việc
giải các bài tập về dạng Toán có lời văn ở Lớp 1 học sinh còn lúng túng rất
nhiều. Đa số các em đọc đề là làm ngay, bỏ qua các bước giải Toán có lời văn.
Tỉ lệ biết tóm tắt bài toán còn thấp, cách giải nghèo nàn, thậm chí bị bế tắc khi
giải bài toán.
Thực tế giảng dạy cho thấy nguyên nhân chủ yếu các em vấp phải khi giải
Toán có lời văn:
+ Nguyên nhân 1: Các em chưa đọc kỹ đề bài.
+ Nguyên nhân 2: Phần lớn các em chưa biết sàng lọc những yếu tố nào cơ
bản, yếu tố nào không cơ bản cần phải loại bỏ để tóm tắt bài toán.
+ Nguyên nhân 3: Các em chưa biết phát hiện từ "chìa khoá", dẫn đến làm
sai phép tính.
+ Nguyên nhân 4: Khi viết câu lời giải của bài toán các em chưa biết dựa
vào câu hỏi làm câu lời giải cho bài toán.
Đứng trước thực trạng đó, tôi băn khoăn trăn trở phải làm thế nào để chất
lượng môn Toán năm sau cao hơn năm trước, nhất là giải Toán có lời văn. Qua
theo dõi chất lượng môn Toán ở lớp 1B trong năm học 2018 – 2019 tôi tổng hợp
được như sau:
4
HỌC KÌ I
GIỮA HỌC KÌ II
Số lượng
Tỉ lệ %
Số lượng
Tỉ lệ %
Hoàn thành Tốt
20
40
16
32
Hoàn thành
26
52
28
56
Chưa hoàn thành
4
8
6
12
Qua bảng tổng hợp trên ta thấy, chất lượng môn Toán cuối kỳ I cao hơn ở
giữa học kỳ II. Vì sao vậy?
Như đã nói trước, ở tuần 22 học sinh bắt đầu học giải Toán có lời văn. Đến
tuần thứ 25 tôi đã cho học sinh làm bài kiểm tra chất lượng. Kết quả khảo sát
cho thấy chất lượng ở giữa học kỳ II thấp hơn là do có dạng toán giải có lời văn.
Xem thực tế bài làm của học sinh nhiều em bị mất điểm ở phần này.
Để khắc phục được các nguyên nhân trên, tôi đã trăn trở tìm tòi và đúc rút
kinh nghiệm trong việc giải Toán có lời văn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để nâng cao chất lượng giải Toán có lời
văn ở Lớp 1
2.3.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức các dạng
Toán đơn về cộng, trừ.
Trường hợp 1 : "Tìm tổng khi biết hai số"
Ví dụ 1: Bài 4, trang 125 Toán 1
MỨC ĐỘ
Đoạn thẳng AB dài 3cm và đoạn thẳng BC dài 6cm. Hỏi đoạn thẳng AC dài mấy xăng-ti-mét?
Bước 1: Tóm tắt bài toán.
A 3cm B
6cm
C
... cm?
Bước
2:
Bài giải:
§o¹n th¼ng AC dài số cm là:
3 + 6 = 9 (cm)
Đáp số: 9 cm.
Ví dụ 2: Một hộp bút có 12 bút xanh và 3 bút đỏ. Hỏi hộp đó có tất cả bao
nhiêu cái bút?
Bước 1 : Tóm tắt bài toán.
Có : 12 bút xanh.
Có :
3 bút đỏ.
Có tất cả: … cái bút ?
Bíc 2:
Bài giải
Có tất cả số bút là :
5
12 + 3 = 15 (cái bút)
Đáp số : 15 cái bút
Trêng hîp 2 : " Tìm hiệu khi biết số bị trừ và số trừ ".
Ví dụ : Bài tập 2 – trang 149 - Toán 1
An có 8 quả bóng, An thả 3 quả bay đi. Hỏi An còn lại mấy quả bóng?
Bước 1: Tóm tắt bài toán.
An có : 8 quả bóng.
Thả đi : 3 quả bóng.
Còn lại … quả bóng ?
Bước 2:
Bài giải:
Số bóng An còn lại là:
8 – 3 = 5 (quả bóng)
Đáp số: 5 quả bóng.
Nhận xét : Trong chương trình học Toán của Lớp 1 hiện nay, chỉ có hai
loại toán bài giải như vừa nêu trên. Thực tế đây là bài thuộc dạng Toán đơn giản
nhất của kiểu bài: Giải bài Toán có lời văn. Chính vì thế khi dạy, giáo viên cần
khắc sâu cho học sinh biết mối quan hệ giữa các thành phần trong đề toán. Từ
đó để tìm ra thành phần chưa biết dựa trên các thành phần đã biết, như thế là ta
đã giúp học sinh trả lời câu hỏi của đề toán.
Trong thực tiễn ở các trường Tiểu học, khi dạy cho học sinh giải các bài
toán có lời văn, các em còn rất lúng túng trong việc ghi tóm tắt bài toán, cách
trình bày và nhất là tìm ra được câu lời giải thích hợp với mỗi đề toán. Chỉ có 10
- 15 % học sinh có thể tự ghi tóm tắt và tìm được câu lời giải thích hợp, còn đa
số học sinh không tóm tắt đề bài mà dập khuôn từ một dạng nào đó áp dụng vào
giải các bài tập nên kết quả chưa cao.
Các em chưa biết dựa vào tóm tắt và chưa thấy được tầm quan trọng của
việc tóm tắt, đây là bước đầu tiên, quyết định cách giải bài toán.
Qua các vấn đề trình bày trên đây và những khó khăn mà học sinh mắc
phải khi giải bài Toán có lời văn, tôi xin củng cố lại một số mẹo nhỏ bên cạnh
đường lối chung như sau:
2.3.2. Biện pháp 2: Giúp học sinh tìm ra các bước, tiến hành giải bài
Toán có lời văn.
Từ các ví dụ cụ thể và qua việc học sinh thực hành làm bài tập, giáo viên
giúp học sinh tiến hành giải bài Toán có lời văn qua 4 bước sau:
1. Đọc - tìm hiểu bài toán;
2. Tóm tắt bài toán;
3. Phân tích các đại lượng liên quan;
4. Thực hiện bài giải.
6
Bước 1: Yêu cầu học sinh nhất thiết phải đọc kỹ đề bài (3 lần trở lên), tìm
hiểu để biết được cái đã cho và cái phải tìm, đến đây là điều quan trọng không
thể bỏ qua được. Giáo viên cần nhắc nhở học sinh tránh thói quen xấu là vừa
đọc đầu bài xong hoặc chưa hiểu kỹ bài đã vội vàng giải toán. Như vậy là không
tránh khỏi sự bế tắc khi giải toán hoặc làm lạc đề toán.
Để giúp học sinh hiểu rõ đề hoặc tránh việc học sinh bỏ qua việc tìm hiểu
đề, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi để giúp học sinh hiểu đề hơn.
Ví dụ:
+ Bài toán cho biết những gì?
Hay: Bài toán yêu cầu ta tìm gì?
Cũng có thể yêu cầu học sinh nhắc lại đề toán mà không cần phải nhìn
sách vở. Nếu các em nhớ đề, đọc lại được cũng có nghĩa là các em đã hiểu đề.
Bước 2: Tóm tắt bài toán.
Đây là bước rất quan trọng nó là kết quả ban đầu của bước 1; lúc này bài
toán được tóm gọn lại, chủ yếu bằng lược đồ đơn giản. Nhờ đó mà mối quan hệ
giữa các số đã cho và số phải tìm hiện rõ hơn, dễ hiểu hơn.
Học sinh cần tóm tắt được bài toán, biết phân tích tổng hợp, xác định được
yêu cầu của bài ra, tìm ra cách giải thích hợp.
Ở chương trình Lớp 1, giáo viên dạy cho học sinh những cách tóm tắt như
sau:
+ Tóm tắt bằng chữ :
Ví dụ: Mai gấp được 6 cái thuyền, Hà gấp được 3 cái thuyền. Hỏi 2 bạn gấp
được mấy cái thuyền?
Tóm tắt:
Mai gấp : 6 cái thuyền.
Hà gấp : 3 cái thuyền.
Có tất cả … cái thuyền ?
+ Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ví dụ:
6 cái thuyền
3 cái thuyền
...cái thuyền?
+ Tóm tắt bằng sơ đồ ven :
Ví dụ : Hằng có 7 quả cam, Nga có 2 quả cam. Hỏi cả hai bạn có tất cả bao
nhiêu quả cam?
7
7
?
2
+ Tóm tắt bằng chữ và dấu : (Thường là mũi tên hoặc dấu ngoặc)
Ví dụ : Lan có 10 điểm 9 và 8 điểm 10, Hỏi Lan có tất cả bao nhiêu điểm 9,
10 ?
Tóm tắt:
Có 10 điểm 9.
Điểm 9, 10 ?
Có 8 điểm 10.
Trên đây là 4 cách tóm tắt bài toán mà tôi thường áp dụng để dạy học
sinh Lớp 1. Tuy nhiên đối với học sinh Lớp 1 hiện nay thì kiểu tóm tắt bằng chữ
là chủ yếu và thông dụng nhất. Các cách tóm tắt trên giúp cho các em học sinh
dễ hiểu và khi học sinh đã tóm tắt được bài toán thì các em sẽ dễ dàng tìm ra
cách giải.
Bước 3: Phân tích đề bài toán.
Đây là bước quan trọng trong quá trình giải Toán tập trung cao độ tư duy
của học sinh. Để lập được mối liên quan giữa các đại lượng, trong bước này giáo
viên giúp các em biết suy luận. Muốn biết được yêu cầu của đề bài là gì thì ta
phải làm như thế nào?
Để thực hiện được điều đó, giáo viên cần tổ chức cho học sinh đọc kỹ đề
toán, hiểu rõ một số từ khóa quan trọng như: “Thêm, và, tất cả,…” hoặc “Bớt,
bay đi, ăn mất, còn lại,…” (Có thể quan sát tranh vẽ để hỗ trợ).
Trong thời kỳ đầu (Tiết 81, 82) giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt bằng
cách đàm thoại: “Bài toán cho biết gì?,Bài toán hỏi gì?” và dựa vào câu trả lời
của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề
toán. Đây là cách rất tốt để học sinh ngầm phân tích đề toán.
Ví dụ : Nhà Lan có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà Lan có tất cả
mấy con gà?
Qua ví dụ trên, ta phân tích như sau:
+ Bài toán cho biết gì? (nhà Lan có 5 con gà)
+ Còn cho biết gì nữa? (mẹ mua thêm 4 con gà).
+ Bài toán hỏi gì? (nhà Lan có tất cả mấy con gà?).
+ Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết nhà Lan có tất cả mấy con gà, em làm
tính gì ?” (tính cộng).
- Mấy cộng mấy? (4 + 5); 4 + 5 bằng mấy? (4 + 5 = 9).
8
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp: “9 này là 9 con gà”, nên ta
viết “con gà” vào trong dấu ngoặc đơn:
4 + 5 = 9 (con gà).
Trong các bước phân tích bài toán, giáo viên cần hướng dẫn học sinh qua
các câu hỏi cụ thể để đi đến yêu cầu được giải quyết tránh tình trạng lan man
thiếu trọng tâm và hướng học sinh đi lệch vấn đề.
Bước 4 : Trình bày bài giải:
Đây là bước cụ thể hóa của vấn đề tư duy trên, nó được thể hiện rõ nét kỹ
năng, kỹ xảo giải bài tập của học sinh. Học sinh dựa vào sơ đồ phân tích trên để
viết bài toán, nó được chuyển dịch tư duy ngược lại khi phân tích.
Nhìn vào bảng tóm tắt phân tích ví dụ trên, ta đi đến trình bày bài giải như
sau:
Bài giải:
Nhà Lan có tất cả số gà là :
4 + 5 = 9 (con gà).
Đáp số : 9 con gà.
Lưu ý : Khi giải bài Toán có lời văn thông thường, các em chỉ cần viết bước 4,
còn lại các bước 1, 2, 3 là bước suy nghĩ và làm miệng. Song cũng cần phải tỉ
mỉ, cẩn thận, chính vì việc không để cho các em suy nghĩ cho nên dẫn đến đa số
các em làm qua loa, đại khái, dẫn đến kết quả sai, bế tắc trong khi giải.
Trong quá trình giảng dạy bài Toán có lời văn, có hai điều mà tôi cần lưu ý
là:
+ Luôn củng cố ý thức nắm các bước giải toán.
+ Thành thạo kỹ năng tính toán, học thuộc bảng cộng, bảng trừ; biết làm
cộng trừ trong phạm vi 100 không nhớ.
+ Nếu trong quá trình giải Toán, học sinh không nắm được các quy tắc và
tiến trình các bước thì không thể tránh được sự nhầm lẫn, bài toán có thể bế tắc
hoặc tìm ra cách giải chưa hay, chưa nhanh nhất. Cho nên giải một bài Toán có
lời văn dù là đơn giản hay phức tạp thì học sinh cần phải tuân thủ các bước tiến
hành, không thể qua loa đại khái bước nào thì kết quả mới cao được. Điều này
giáo viên và học sinh cần ghi nhớ.
Nếu trong quá trình giải toán, học sinh không thuộc bảng cộng, trừ thì kết
quả không tránh khỏi sự sai sót. Đây chính là kỹ năng quan trọng trong tính
toán. Vì thế cho nên bất cứ bài toán nào cũng đòi hỏi đến kỹ năng tính toán. Vì
vậy giáo viên phải luôn rèn luyện cho học sinh đọc đúng các phép tính cộng, trừ
(không nhớ) và vận dụng thành thạo.
Qua một số biện pháp kể trên ta có thể nhận thấy dễ dàng: Muốn giải một
bài Toán có lời văn tốt thì học sinh phải:
+ Nắm chắc đường lối chung giải bài toán;
9
+ Nhớ các bước và vận dụng thành thạo.
2.3.3. Biện pháp 3 : Tổ chức cho học sinh cách thực hiện các bước tóm
tắt đề toán, trình bày lời giải, phép tính trong dạng "Giải toán có lời văn".
Đối với Lớp 1, bài toán có lời văn chỉ đơn thuần là bài toán đơn, các em
chủ yếu làm quen với hai loại bài (như đã nói ở trên), và trong chương trình này
yêu cầu học sinh khi giải phải viết thêm lời giải. Đối với bài toán đơn thì các em
sẽ dựa vào yêu cầu của bài toán để viết câu lời giải:
Ví dụ: Tóm tắt đề toán (Bài tập 2 - trang 149 - Toán 1)
Lan có : 8 quả bóng
Lan thả : 3 quả bóng
Còn lại: … quả bóng?
Sau khi tính xong: 8 - 3 = 5 (quả bóng), giáo viên chỉ vào 5 và hỏi : "5
quả bóng" ở đây là số bóng của ai "còn lại"? (Là số bóng của Lan còn lại). Từ
câu trả lời của các em ta giúp học sinh chỉnh sửa thành câu lời giải: " Số bóng
của Lan còn lại là ".
Ở đây, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh nêu nhiều câu lời giải
khác nhau, sau đó cùng bàn bạc, thảo luận để tìm câu trả lời thích hợp nhất.
Không nên bắt buộc học sinh nhất thiết phải tuân theo một kiểu nhất định. Ngoài
ra, từ tuần học thứ 7 (ở học kỳ I) ta đã ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề
để giải bài toán có lời văn sau này, ở đây có sự chuẩn bị từ xa cho việc viết câu
lời giải.
Ví dụ : Từ bức tranh "3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới" ở trang
47 Toán Lớp 1, sau khi học sinh quan sát tranh và điền phép tính vào dãy ô
trống:
3
+
1
=
4
Giáo viên nên định hình dần cho các em bằng việc đặt thêm các câu hỏi:
"Vậy có tất cả mấy con chim?" hoặc "Số chim có tất cả là bao nhiêu con?",
("Số chim có tất cả là 4 con").
Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng
miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
Việc trình bày một bài toán có lời văn được thống nhất của dạng bài này
là:
+ Bài giải viết vào giữa vở (có gạch chân).
+ Câu lời giải viết lùi vào 2 hoặc 3 ô (tùy vào câu lời giải dài hay ngắn) so
với lề vở. Sau câu lời giải có dấu ( : ).
+ Xuống dòng lùi vào một ô so với lời giải để viết phép tính, tên đơn vị viết
trong dấu ngoặc đơn.
10
+ Xuống dòng lùi vào bên phải 1 ô so với phép tính để viết đáp số. Sau từ
“Đáp số” là dấu hai chấm, lúc này tên đơn vị tên đơn vị không phải đặt trong
dấu ngoặc đơn, gạch chân từ “Đáp số”.
Ví dụ:
Bài giải.
Lan còn lại số quả bóng là:
8 – 3 = 5 (quả bóng)
Đáp số: 5 quả bóng.
Trong thực tế, khi mới làm quen với dạng bài toán này có một số học sinh
viết phép tính cùng dòng với câu lời giải.
Ví dụ:
Lan còn lại số quả bóng là : 8 – 3 = 5 (quả bóng).
Viết như thế bài giải không được rõ ràng, sáng sủa, hay có khi các em
thường trình bày cả bài giải, phép tính và đáp số thẳng cột dọc với nhau. Như
vậy không được đẹp mắt.
Ví dụ :
Bài giải.
Lan còn lại số quả bóng là:
8 – 3 = 5 (quả bóng)
Đáp số: 5 quả bóng.
Như vậy, để học sinh ttrình bày bài giải được đúng, đủ, giáo viên phải
luôn nhắc nhở học sinh cách trình bày, hoặc yêu cầu học sinh nhắc lại việc cần
làm khi giải một bài toán.
Lưu ý: học sinh khi viết phép tính không viết dài dòng như:
8 quả bóng - 3 quả bóng = 5 quả bóng.
Mà viết: 8 – 3 = 5 (quả bóng).
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1.Tổ chức thực nghiệm
Từ những lý luận phân tích, nghiên cứu về “ Giải Toán có lời văn” trong
chương trình Toán 1, để kiểm tra kết quả học tập của học sinh tôi, đã trực tiếp
khảo sát chất lượng học sinh ở 2 lớp 1B và 1C (Lớp 1B tôi trực tiếp giảng dạy;
Lớp 1C do giáo viên khác giảng dạy) bằng các bài tập trong tiết "Luyện tập"
(Trang 121 – Sách giáo khoa Toán 1). Cụ thể như sau:
I. Đề bài (Thời gian 40 phút).
Bài 1: Trong vườn có 12 cây chuối, bố trồng thêm 3 cây chuối. Hỏi trong
vườn có tất cả bao nhiêu cây chuối?
Tóm tắt:
Có
: ... cây
Thêm : ... cây
Có tất cả: ... cây?
11
Bài 2: Trên tường có 14 bức tranh, người ta treo thêm 2 bức tranh nữa.
Hỏi trên tường có tất cả bao nhiêu bức tranh?
Tóm tắt:
Có
: ... bức tranh
Thêm : ... bức tranh
Có tất cả: ... bức tranh?
Bài 3 : Giải bài toán theo tóm tắt sau:
Tóm tắt:
Có
: 5 hình vuông
Có
: 4 hình tròn
Có tất cả: ... hình vuông và hình tròn?
II. Cách đánh giá.
- Hoàn thành Tốt: Làm đúng cả 3 bài tập trong khung thời gian quy định,
lời giải chính xác, cách trình bày đẹp. Biết thêm dữ liệu vào phần tóm tắt của
bài toán.
- Hoàn thành: Làm được bài giải ở mức độ cơ bản, tính đúng kết quả
nhưng chưa linh hoạt trong cách ghi câu lời giải và trình bày chưa đẹp.
- Chưa hoàn thành: Làm được bài 1 và bài 2, chưa tính đúng kết quả bài
3, chưa linh hoạt trong cách ghi câu lời giải và trình bày chưa đẹp ở các bài tập.
2.4.2. Kết quả thực nghiệm:
Sau khi tiến hành thực nghiệm, kết quả thu được như sau:
Lớp
Tổng số
học
sinh
Hoàn thành Tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn
thành
SL
(em)
TL (%)
SL
(em)
TL (%)
SL
(em)
TL (%)
1B
50
35
70
15
30
0
0
1C
50
25
50
21
42
4
8
So sánh kế quả làm bài của học sinh 2 lớp ta thấy, hiệu quả giữa 2 phương
pháp (phương pháp thông thường và phương pháp mới) về "Giải Toán có lời
văn ở Lớp 1" tuy có sự chênh lệch không lớn lắm, song chất lượng làm bài của
lớp 1B (lớp thực nghiệm ) cao hơn so với lớp 1C (lớp đối chứng).
Cụ thể là, Lớp thực nghiệm có số bài Hoàn thành Tốt nhiều hơn lớp đối
chứng 10 bài ( chiếm 70%) và không còn bài Chưa hoàn thành. Lớp đối chứng
vẫn còn 4 em Chưa hoàn thành (chiếm 8%). Như vậy, với phương pháp mới tôi
đã thử nghiệm trong suốt quá trình giảng khi dạy dạng Toán này ở lớp tôi chủ
nhiệm, tôi thấy các em tiến bộ đáng kể so với phương pháp dạy học thông
thường.
12
Quá trình rèn luyện, ứng dụng sáng kiến và dạy thực nghiệm, chất lượng
học tập của học sinh nâng lên rõ rệt. Đến cuối năm học sinh lớp tôi chủ nhiệm
đã biết tự tóm tắt bài toán, biết tìm ra cách giải hợp lý, lời giải chính xác, trình
bày rõ ràng, cẩn thận, sạch sẽ hơn trước nhiều.
Qua kết quả trên cho thấy: Nếu có những biện pháp cụ thể cải tiến
phương pháp dạy học thì sẽ nâng cao chất lượng học của học sinh, các em nắm
vững kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo và làm bài một cách tự tin, câu lời
giải chặt chẽ, trình bày bài khoa học, lí luận chặt chẽ, lôgíc hơn.
Vậy, qua nghiên cứu giảng dạy ta cần chú ý đến các bước sau:
Bước 1: Đọc hiểu đề bài toán;
Bước 2: Tóm tắt đề toán;
Bước 3: Phân tích đề toán tìm ra phép tính giải toán;
Bước 4: Trình bày bài giải.
Và điều không kém phần quan trọng là: “Tính đúng kết quả”.
Kiểm tra vấn đáp học sinh ở một bài toán cụ thể cho đến nay, khi được
hỏi các em trả lời:
Khi giải bài Toán có lời văn phải thực hiện theo 4 bước:
+ Học sinh trả lời được các bước cụ thể (trước đây học sinh còn lúng túng
khi giải bài toán có lời văn).
+ Học sinh có hướng giải nhanh nhẹn, kết quả chính xác.
+ Học sinh thuộc bảng cộng, trừ cao hơn (Tỉ lệ trước đây còn thấp).
+ Học sinh vận dụng thành thạo vào các bài tập toán.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua quá trình áp dụng những phương pháp, những kinh nghiệm của bản
thân vào quá trình dạy học môn Toán nói chung và dạy giải Toán có lời văn ở
Lớp 1 nói riêng, trước hết học sinh phải đọc thông, viết thạo, phải phân biệt rõ
bài toán thuộc dạng nào, nhất là với những bài toán không có từ "chìa khoá" đặc
trưng. Đồng thời phải có óc phân tích, suy luận, phải biết tổng hợp các dữ kiện
để giải Toán. Mặt khác, phải vận dụng linh hoạt sự hiểu biết thực tế của bản thân
với các bài toán tương tự để giải Toán. Cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân
học sinh, giáo viên phải thật sự tâm huyết, luôn tìm tòi đổi mới phương pháp,
linh hoạt, mềm dẻo trong dạy học. Có như vậy mới mong muốn đạt chất lượng
cao.
Dạy Lớp 1, đầu tiên là phải tìm hiểu kỹ tâm sinh lí của từng em trong lớp,
tổ chức lớp có nền nếp ngay từ đầu. Bởi vì học sinh Lớp 1, các em bắt đầu bước
vào môi trường mới, có quá nhiều điều lạ lẫm với các em, tâm lý lo sợ, rụt rè,
ảnh hưởng nhiều đến kết quả học tập, hơn nữa ý thức tự giác của các em chưa
13
có, tính hiếu động còn cao nên nhiều em không tập trung, không nhập tâm khi
học. Do vậy giáo viên phải thường xuyên tổ chức các trò chơi gây hứng thú cho
các em, giáo viên vừa là người truyền thụ tri thức, vừa phải làm công tác ổn
định tư tưởng, giáo dục ý thức tự giác học tập, giúp các em nhanh chóng làm
quen với trường lớp, thầy cô, bạn bè và với mọi hoạt động khác để các em chủ
động học tập.
Từ thực trạng học sinh, nhà trường, gia đình và xã hội và bằng sự quyết tâm
nỗ lực tìm tòi và phát hiện những nguyên nhân dẫn đến học sinh tiếp thu chậm
trong học Toán, nhất là giải Toán có lời văn; năm học 2018 - 2019 tôi đã tìm ra
các biện pháp tối ưu nhất để nâng cao chất lượng học sinh về Giải toán có lời
văn cho học sinh Lớp 1.
Một là, giáo viên phải nắm vững khả năng về môn Toán của từng em, phân
tích loại đối tượng để có biện pháp bồi dưỡng hợp lý nhất, nhằm phát huy hết trí
tuệ của học sinh.
Hai là, bản thân giáo viên cũng phải tự trau dồi học tập bồi dưỡng để nâng
cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, phải tận tâm tận sức với nghề, không nôn
nóng, phải hướng dẫn cụ thể từng học sinh.
Bà là, phải phân loại rõ ràng hai dạng toán cơ bản ở Lớp 1, tìm ra những
điểm khác biệt của hai dạng toán giải giúp học sinh nắm vững hơn không nhầm
lẫn hai dạng với nhau.
Bốn là, khi lập kế hoạch phải dự định trước được lỗi học sinh thường mắc
phải, từ đó có cách chữa lỗi cho học sinh. Trong giờ dạy không nên áp đặt nặng
nề, không nên gay gắt đối với những em thường mắc lỗi để từ đó có cách chữa
lỗi.
Đối với bài có cấu trúc giống nhau trong quá trình giải học sinh dễ nhầm
lẫn máy móc, giữa bài toán này với bài toán khác. Vì vậy, giáo viên giúp các em
so sánh và phân biệt từng dạng toán là một việc làm rất cần thiết.
Năm là, phải giúp các em hiểu bằng cách giao việc cho các em thông qua
gợi ý hoặc lập hệ thống câu hỏi. Do đó yêu cầu giáo viên phải nắm vững được
từng đối tượng học sinh để từ đó giúp các đối tượng học sinh nắm bài tốt hơn.
3.2. Kiến nghị
Qua một thời gian nghiên cứu, với vốn kiến thức ít ỏi của bản thân nhưng
với sự giúp đỡ tận tình của đồng nghiệp và lòng ham mê nghiên cứu nhằm nâng
cao chất lượng dạy học ở Tiểu học; tôi đã nghiên cứu, phân tích và cho rằng:
Dạy học tốt bài Toán có lời văn có ý nghĩa quan trọng, làm nền tảng học tốt các
môn khác. Bài Toán có lời văn còn giúp cho học sinh Lớp 1 phát huy cao độ tính
logic, tư duy trừu tượng. Cho nên, nó có vai trò, ý nghĩa quan trọng làm nền
tảng cho học sinh học tốt các môn học khác.
Chính vì vậy, giúp các em khắc phục khó khăn khi giải các bài Toán có lời
văn là một vấn đề không thể thiếu được đối với người giáo viên.
14
* Đối với nhà trường:
+ Tăng cường dự giờ rút kinh nghiệm cho giáo viên khi dạy giải Toán có
lời văn.
+ Kiểm tra kế hoạch bài học của giáo viên một cách chặt chẽ, yêu cầu kế
hoạch phải cận thận, thể hiện đầy đủ bài học.
* Đối với giáo viên:
Nắm vững vị trí của môn Toán đối với học sinh Tiểu học nói chung và học
sinh Lớp 1 nói riêng, có thái độ đúng đắn với bộ môn. Nắm vững các nguyên tắc
và phương pháp trong dạy Toán.
Khi hướng dẫn học sinh làm bài cần hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn thận. Không
“Đốt cháy giai đoạn” dễ gây cho học sinh tính cẩu thả khi giải Toán sau này …
Trong kế hoạch bài học, giáo viên phải thể hiện đầy đủ chi tiết bài dạy để
khi lên lớp thực hiện tiết dạy có hiệu quả.
* Đối với học sinh:
+ Không bỏ qua một bước nào.
+ Không mĩ mãn với việc tìm ra một cách giải mà phải tìm ra nhiều cách
giải. Từ đó chọn ra phương pháp duy nhất, trí tuệ nhất.
+ Điều không thể thiếu được là học thuộc và vận dụng thành thạo bảng
cộng trừ, kỹ năng tính toán tinh thông.
* Đối với cấp quản lý:
Cần quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ.
Trên đây là những biện pháp nâng cao chất lượng giải bài Toán có lời văn
cho học sinh Lớp 1 mà tôi đã nghiên cứu. Tuy nhiên, do vốn kinh nghiệm giảng
dạy Lớp 1 chưa nhiều nên chưa tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhất. Song
qua thực nghiệm tôi rút ra được một số biện pháp giúp các em học tập hăng say
hơn và giải các bài Toán có lời văn đạt kết quả cao hơn.
Tôi kính mong Ban giám hiệu nhà trường, các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp
đóng góp ý kiến để tôi tiếp tục hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm này và được áp
dụng rộng rãi hơn trong Giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 1.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2019
CAM KẾT KHÔNG COPPY.
Người viết
Đào Thị Yên
Nguyễn Thị Nụ
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa toán 1 Nhà xuất bản giáo dục 2005.
2. Sách giáo viên toán 1. Nhà xuất bản giáo dục 2005.
3. Thông tư 30, Thông tư 22.
4. Phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học Trường ĐHSP Hà Nội 1.
5. Các tạp chí, chuyên đề, tài liệu có liên quan.
DANH MUC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Nụ
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Minh Khai
1 – Thành phố Thanh Hóa.
TT
1
2
Tên đề tài SKKN
Một số giải pháp giúp
học sinh lớp 1 học tốt
môn Đạo Đức
Một số biện pháp để dạy
tốt các số từ 1 đến 10
môn Toán lớp 1
Cấp đánh
Kết quả
giá xếp loại đánh giá xếp
(Phòng,
loại (A, B
Sở,
hoặc C)
Tỉnh…)
Phòng
GD&ĐT
B
Sở
GD&ĐT
C
Năm học
đánh giá xếp
loại
2012 - 2013
2013-2014
16