Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dung đồ dùng dạy học ở trường tiểu học trung lý 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.42 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Chương mục

Trang

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng
3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học
4. Kết quả đạt được
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Danh mục SKKN đã được Hội đồng Khoa học ngành xếp loại

1
2
2
3
3
3
4
4
4
6


11
12
12
13
15

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình dạy học ở bậc Tiểu học, đồ dùng dạy học có vai trò rất
quan trọng, nó vừa mang tính minh họa vừa mang nguồn tri thức để học sinh
khám phá và phát huy tính tích cực trong học tập. Hầu hết các tiết dạy ở Tiểu
học đều cần có đồ dùng dạy học để đạt hiệu quả cao. Đặc biệt, đồ dùng dạy học
nó còn quan trọng hơn nữa khi nhà trường có nhiều học sinh dân tộc thiểu số.
Bởi vì các em khi bước vào nhà trường, nhất là khối lớp 1và khối lớp 2 vốn
1


tiếng Việt của các em còn rất nhiều hạn chế. Với lại, nhiều giáo viên lại không
phải là người cùng dân tộc với các em, chưa hiểu được nhiều tiếng mẹ đẻ của
học sinh nên dẫn đến tình trạng bất đồng ngôn ngữ. Do đó học sinh không hiểu
hết được yêu cầu của bài học nên dẫn đến các em tiếp thu bài học chậm và hiệu
quả tiết dạy chưa cao. Chính vì điều đó, đồ dùng dạy học cũng đóng góp một
phần là sự giải thích thay ngôn từ của giáo viên cho học sinh hiểu được ý nghĩa,
nội dung của kiến thức cần truyền tải. Trong những năm vừa qua, phòng Giáo
dục và Đào tạo, nhà trường cũng đã quan tâm đầu tư, mua sắm trang bị thêm
nhiều trang thiết bị, đồ dùng dạy học. Ngoài ra, hàng năm giáo viên cũng đã tự
làm một số đồ dùng dạy học nhằm phục vụ tiết dạy. Tuy nhiên, qua kiểm tra, dự
giờ thăm lớp tôi thấy vẫn còn rất nhiều vấn đề như: có một số giáo viên còn ngại
sử dụng đồ dùng dạy học, lên lớp còn dạy chay với cuốn sách giáo khoa. Khi
tìm hiểu thì lí do là công tác chuẩn bị và nghiên cứu sử dụng đồ dùng mất nhiều

thời gian, tốn kém kinh phí. Vì thế họ rất ít khi sử dụng đồ dùng dạy học mà
thường chỉ sử dụng khi có người dự giờ, khi thao giảng. Còn lại đa số giáo viên
có sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy nhưng còn rất ít, một số đồ dùng dạy
học chuẩn bị còn chưa được phù hợp như: đồ dùng quá nhỏ hoặc quá to chưa
phù hợp với yêu cầu của nội dung kiến thức, đồ dùng chưa đảm bảo tính mĩ
quan…, sử dụng còn chưa hợp lý trong bài dạy như: treo đồ dùng nhưng khi sử
dụng xong lại cất quá muộn hay vị trí treo, đặt đồ dùng chưa hợp lý, có tiết giáo
viên nghiên cứu cách sử dụng đồ dùng trong tiết dạy chưa kỹ nên khi sử dụng
còn lúng túng, thậm trí bị rối… nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng tiết dạy.
Thực tế thì giáo viên chưa được tập huấn nhiều về kỹ năng sử dụng đồ
dùng dạy học, nhân viên phụ trách thiết bị cũng chưa được tập huấn chuyên sâu
về nghiệp vụ, một bộ phận giáo viên chưa nhận thấy hết vai trò của đồ dùng dạy
học nên ít sử dụng và khi sử dụng thì do công tác chuẩn bị chưa chu đáo nên
hiệu quả sử dụng chưa cao.
Trong quá trình dạy - học, học sinh tiếp thu nội dung bài học dưới sự tổ chức,
dẫn dắt của giáo viên và minh họa cụ thể của đồ dùng dạy học. Theo các chuyên gia
của Hiệp hội nghe nhìn quốc tế thì khi nghe, con người chỉ tiếp nhận và lưu giữ
được 10% – 30% nội dung thông tin. Khi nhìn, thì đạt được 20% - 40%. Nhưng nếu
kết hợp cả nghe và nhìn thì hiệu quả sẽ đạt tới 60 % - 80%. Chính vì vậy việc sử
dụng thiết bị, đồ dùng dạy học vào dạy học là tất yếu. Nó giúp các em quan sát sự
vật, hiện tượng một cách trực quan, học sinh nhận thức sâu hơn nội dung bài học,
giúp cho học sinh hứng thú học tập, làm cho hoạt động dạy của giáo viên trở nên
hấp dẫn, nhẹ nhàng hơn, hình thành tốt kỹ năng thực hành.
Xác định đúng tầm quan trọng của đồ dùng dạy học trong quá trình hình
thành tri thức cho học sinh, nên Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội nước
ta về đổi mới chương trình Giáo dục phổ thông đã nêu rõ: “Đổi mới nội dung,
chương trình, sách giáo khoa, phương pháp phải thực hiện đồng bộ với việc
nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học” (Trích Nghị quyết 40/2000/QH10).
Vậy, làm thế nào để nâng cao hiệu quả hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học
trong nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục? Đây là vấn đề làm tôi trăn

trở, suy nghĩ. Qua tìm hiểu, trao đổi với giáo viên sau khi thăm lớp dự giờ, đóng
2


góp, chia sẻ ý kiến với cán bộ giáo viên nhà trường, qua nghiên cứu ở các tài
liệu liên quan và qua thực tế tôi thấy việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên
cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, với mong muốn mỗi giáo viên khi lên
lớp đều có và sử dụng đồ dùng dạy học phục vụ tiết dạy, dù đồ dùng đó tự làm
với vật liệu sẵn có, vật liệu rẻ tiền hay đồ dùng được cấp phát sao cho hiệu quả.
Tôi đã xây dựng sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng đồ dùng dạy học ở trường tiểu học Trung Lý 2” nhằm góp phần
nâng cao chất lượng dạy - học trong nhà trường.
2. Mục đích nghiên cứu
Khi xây dựng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi mong muốn đi sâu vào tìm
hiểu thực trạng và nguyên nhân vấn đề sử dụng đồ dùng dạy học. Từ đó, đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học
trong nhà trường nơi tôi đang công tác.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học ở trường Tiểu
học Trung Lý 2.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
4.1: Phương pháp quan sát, khảo sát
- Đọc các loại tài liệu, giáo trình, sách, báo ngành, … có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu trong đề tài.
- Khảo sát, thống kê kết quả để biết thực tế việc sử dụng đồ dùng dạy học
của giáo viên nơi tôi đang công tác.
- Thông qua thăm lớp, dự giờ tại các lớp học ở trường.
4.2: Phương pháp phân tích
- Phân tích chất lượng giờ dạy của giáo viên.

- Phân tích đặc điểm trình độ nhận thức của học sinh, kĩ năng sử dụng, tự
làm đồ dùng dạy học của giáo viên để có cách hướng dẫn phù hợp giúp cho học
sinh tự học và tự thực hiện các kỹ năng ứng dụng thực tiễn, giáo viên có kĩ năng
sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học trên lớp.
4.3: Phương pháp dạy thực nghiệm
Thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của đề tài, cùng những biện pháp đề
ra giúp giáo viên thực hiện tốt hơn trong việc dạy - học, học sinh tiếp thu tốt hơn
các kiến thức, kỹ năng trong học tập.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1: Khái niệm về đồ dùng dạy học
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên - Trung tâm từ điển ngôn
ngữ Hà Nội, Việt Nam thì:
- Đồ: Vật do con người làm ra để dùng vào một việc cụ thể nào đó trong
đời sống hàng ngày.
- Đồ dùng: Vật do con người tạo ra để dùng trong sinh hoạt, trong hoạt
3


động hàng ngày. Ví dụ: Đồ dùng nấu ăn, đồ dùng học sinh.
- Thiết bị: Tổng thể nói chung những máy móc, dụng cụ, phụ tùng cần thiết cho
một hoạt động nào đó. Ví dụ: Thiết bị nhà máy, thiết bị của phòng thí nghiệm,
thiết bị quân sự, thiết bị điện,……
Từ các ý trên, ta có thể khái quát được: Thiết bị và đồ dùng dạy học bao
gồm những phương tiện vật chất có chứa thông tin về nội dung dạy học.
Ví dụ: Bảng cài dùng để dạy học các môn, thẻ từ dùng để dạy học tiếng
Việt, Toán, máy chiếu dùng trong trình chiếu powerpoint trong dạy học, …
1.2: Vai trò của đồ dùng dạy học
Để thành công trong dạy - học thì người giáo viên phải chuẩn bị rất là
nhiều công việc và việc chuẩn bị đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu

trong quá trình dạy học. Nếu người giáo viên chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học thì
học sinh dễ dàng hơn trong tiếp cận, khám phá, thực hành… rút ra tri thức dưới
sự tổ chức, hướng dẫn, dẫn dắt của giáo viên.
Đối với học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, khả năng
nghe hiểu tiếng phổ thông của các em còn yếu, vì vậy đồ dùng dạy học đặc biệt
quan trọng vì nó giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan,
giúp học sinh nhận thức sâu hơn nội dung bài học.
2. Thực trạng
Trung Lý là một trong những xã miền núi cao thuộc huyện Mường Lát,
biên giới của tỉnh Thanh Hóa, giao thông đi lại khó khăn, đời sống của nhân dân
còn nghèo; phong tục, tập quán của một số bản trên địa bàn còn nặng nề. Trong
năm học vẫn còn tình trạng di dân làm cho sĩ số học sinh của nhà trường luôn
biến động.
- Trường Tiểu học Trung Lý 2 được tách ra từ trường Tiểu học Trung Lý
năm 2005. Hiện tại nhà trường có 6 điểm trường (01 điểm chính và 05 điểm
trường lẻ).
- Tổng số lớp: 22 lớp, trong đó có 6 lớp ghép.
- Tổng số học sinh trong nhà trường 365 em. Trong đó số học sinh dân tộc
chiếm 364/365 em = 99,73%.
- Tổng số cán bộ giáo viên của nhà trường: 25 đồng chí. Trong đó có 22
giáo viên. Giáo viên người dân tộc trong nhà trường chiếm tỷ lệ cao: 19/22 giáo
viên = 86,4 %, mặc dù có một số giáo viên đã chuẩn và trên chuẩn về bằng cấp
nhưng năng lực chuyên môn thực sự vẫn còn nhiều hạn chế, do đó việc nắm bắt
nội dung chương trình, sách giáo khoa còn chậm, việc tiếp cận và đổi mới
phương pháp dạy học, việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, chưa
khai thác hết tác dụng của đồ dùng dạy học còn phổ biến.
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã chỉ đạo thực hiện việc đổi mới
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Đồng thời, cũng
đã đầu tư cho giáo dục, đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị, đồ dùng dạy học
cho nhà trường,...nhưng đội ngũ giáo viên cũng chưa được tập huấn sâu về kỹ

năng sử dụng đồ dùng dạy học, chủ yếu tự mày mò thử nghiệm là chính. Mặc
dù, cán bộ quản lý cũng đã tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức cho giáo
viên về việc sử dụng đồ dùng dạy học, nhưng chưa đem lại hiệu quả cao. Đồ
4


dùng làm để sử dụng chưa có tính bền vững (thường dùng giấy A0 viết lên hoặc
giấy A4 để phô tô) những đồ dùng dạy học này chỉ phục vụ được một tiết học
sau đó bỏ đi gây tốn kém về kinh tế. Thậm chí, nhiều lúc chỉ biểu diễn trong tiết
có người dự giờ, bình thường thì dạy “chay” nên khi sử dụng đồ dùng thì cả
giáo viên và học sinh rất lúng túng. Bên cạnh đó, cán bộ quản lý, tổ chuyên môn
vận động giáo viên tự làm đồ dùng dạy học phục vụ các tiết dạy chỉ nói trên lý
thuyết, cũng chưa tư vấn sâu về nguyên vật liệu để làm, gợi dẫn ý tưởng thực
hiện, … nên hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học chưa đạt được hiệu quả như
mong muốn.
Qua những năm làm công tác quản lý, qua dự giờ các tiết giáo viên lên lớp
cũng như các tiết thao giảng, tôi nhận thấy việc sử dụng đồ dùng dạy học phục
vụ cho việc dạy - học của giáo viên và học sinh còn một số hạn chế như sau:
- Thứ nhất, đồ dùng dạy học ở Tiểu học chưa đủ cơ số cần thiết, một số đồ
dùng dạy học được cấp về chất lượng chưa cao ( lí do khách quan).
- Thứ hai, một số giáo viên chưa chủ động trong việc mượn và sử dụng đồ
dùng dạy học, kĩ năng sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế.
- Thứ ba, phong trào tự làm đồ dùng dạy học trong các năm trước đây chưa
mạnh, chưa sâu rộng. Chưa biết khai thác các vật liệu sẵn có ở địa phương để
làm đồ dùng.
- Thứ tư, việc quản lí và bảo quản, sử dụng đồ dùng dạy - học của một bộ
phận giáo viên và học sinh chưa tốt, dẫn đến tình trạng thất thoát, hư hỏng đồ
dùng dạy - học.
- Thứ năm, ít sử dụng đồ dùng dạy học, thường là khi có người dự giờ thì
mới sử dụng nên trong quá trình dạy – học cả giáo viên và học sinh còn lúng

túng. Đồ dùng chỉ sử dụng được cho tiết học hôm đó,…
Nguyên nhân của thực trạng trên chủ yếu là:
- Công tác tuyên truyền, vận động, những buổi sinh hoạt của chuyên môn
chưa đi sâu vào vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học nên giáo
viên chưa tích cực, tự giác trong việc nâng cao ý thức sử dụng đồ dùng dạy học.
Và cũng chưa có “chế tài” nghiêm khắc đối với những giáo viên thường hay
“dạy chay” nên họ không tự giác.
- Giáo viên chưa hình thành được thói quen thường xuyên sử dụng đồ dùng
dạy học do lo ngại mất nhiều thời gian mượn, trả và hướng dẫn học sinh.
- Giáo viên chưa nắm vững về nguyên tắc, kĩ năng sử dụng đồ dùng dạy
học (sử dụng lúc nào, sử dụng như thế nào,...).
- Chưa mạnh dạn trong cải tiến, tự làm đồ dùng dạy học để nghiên cứu
thêm về cách sử dụng đồ dùng dạy học sao cho phù hợp và có hiệu quả.
- Công tác quản lý, duy tu, bảo quản đồ dùng dạy học chưa tốt…
* Qua thống kê việc thăm lớp dự giờ (không báo trước) trong tháng 10 năm
2018 của Ban giám hiệu đối với giáo viên thì số lượng giáo viên sử dụng đồ
dùng dạy học và số lượng giáo viên không sử dụng đồ dùng dạy học (chỉ sử
dụng sách giáo khoa) cụ thể như sau:
TT Tổng
Tổng Số tiết sử Tỉ lệ số
Số tiết
Tỉ lệ số
Ghi chú
5


số GV
1

số tiết

dự giờ

dụng đồ

44

11

22

dùng

tiết sử
dụng đồ
dùng

không sử
dụng đồ
dùng

tiết không
sử dụng
đồ dùng

25 %

33

75 %


* Kết quả đánh giá các tiết dạy như sau:
Loại Giỏi
TT Tổng
số
GV
1

22

Tổng
số tiết
dự giờ

44

Số Tỉ lệ
tiết số tiết
đạt
đạt
loại
loại
Giỏi Giỏi
5

11,4%

Loại Khá
Số
tiết
đạt

loại
Khá
25

Loại Trung bình

Tỉ lệ số Số tiết
tiết đạt
đạt
loại
loại
Khá
Trung
bình

Tỉ lệ số
tiết đạt
loại
Trung
bình

56,8%

31,8%

14

Ghi
chú


* Thống kê về số lượt mượn đồ dùng dạy học của giáo viên trong tháng 10
năm 2018 (Qua sổ sách của nhân viên thiết bị - thư viện) như sau:
TT
Tổng số GV
Số lượt mượn đồ Bình quân số lượt mượn Ghi chú
dùng/1 tháng
đồ dùng/1 tháng
1

22

77 lượt

3,5 lượt

Để khắc phục các tồn tại và khó khăn trên, nhằm nâng cao ý thức và hiệu
quả sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp cho các năm học tiếp theo như sau:
3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học
Trên cơ sở khảo sát, thống kê, phân tích thực trạng và từ đó đề xuất ý tưởng
chỉ đạo việc nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học của nhà trường, tôi đã
áp dụng một số giải pháp sau để chỉ đạo việc nâng cao hiệu quả sử dụng đồ
dùng dạy học của nhà trường:
3.1: Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức về sử
dụng đồ dùng dạy học
* Công tác tuyên truyền
Nghị quyết 40/2000/QH10, ngày 9/12/2000 của Quốc Hội khoá X nêu rõ:
“Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải
được thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”
(Trích Nghị quyết của Quốc Hội khóa X). Đồ dùng dạy học vừa mang tính minh

họa vừa là nguồn tri thức để học sinh tìm tòi, khám phá và phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo trong học tập. Thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học
sẽ tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên và học sinh đa dạng hoá các hình thức tổ
chức dạy học và hoạt động học theo hướng tích cực hoá, cá thể hóa hoạt động
của người học trong hoạt động học tập và rèn luyện. Phát huy hết năng lực của
mỗi giáo viên và tiềm năng ở mỗi học sinh, và sử dụng đồ dùng dạy học sẽ tiết
kiệm được thời gian và công sức của giáo viên và học sinh.
6


Muốn đạt được những yếu tố trên, ngay từ đầu năm học tôi đã chỉ đạo nhân
viên phụ trách thiết bị - thư viện căn cứ vào tình hình thực tế của nhà trường để
xây dựng kế hoạch, tham mưu với Ban giám hiệu để có kế hoạch mua sắm thêm
đồ dùng dạy học. Kết hợp với các tổ trưởng tổ chuyên môn tuyên truyền sâu
rộng đến từng giáo viên về vị trí và vai trò của đồ dùng dạy học trong nhà
trường. Làm cho mỗi giáo viên hiểu được:
- Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình dạy học.
Đồ dùng dạy học không chỉ thực hiện chức năng minh họa mà còn là nguồn tri
thức để học sinh khám phá và phát huy tính tích cực trong học tập.
- Đồ dùng dạy học sẽ tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên và học sinh sử
dụng linh hoạt các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học và hoạt động theo
hướng tích cực hoá, cá thể hóa hoạt động của người học trong hoạt động học tập
và rèn luyện. Phát huy hết năng lực của mỗi giáo viên và tiềm năng ở mỗi học
sinh. Tạo hứng thú cho học sinh học tập…
- Sử dụng đồ dùng dạy học sẽ tiết kiệm được thời gian và công sức của
giáo viên và học sinh.
Dẫn chứng: Tranh ảnh không mang tính nhất thời, lời giải thích dài dòng
có thể biến mất khi được nói ra, lời nói không thể treo trên không trung để trẻ có
thể nhìn thấy và học được. Nhưng tranh ảnh treo ở một chỗ, trẻ có thể học các
đặc điểm và trở nên quen thuộc và hiểu rõ. Giáo viên có thể đặt một bức tranh

vẽ một đồ vật và đồ vật thật được thể hiện trong bức tranh cạnh nhau để trẻ thấy
được sự liên hệ giữa chúng.
Để cho công tác tuyên truyền thêm sinh động, trong những buổi sinh hoạt
chuyên môn của nhà trường, của tổ chuyên môn, tôi tham dự và phát cho mỗi
giáo viên một phiếu tham khảo ý kiến sau:
PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN
Bạn hãy cho biết ý kiến về tác dụng của đồ dùng dạy học. Bạn hãy đánh
dấu X vào ô trống cuối mỗi dòng mà bạn cho là đúng, dấu - nếu theo bạn ý kiến
đó là sai:
a. Đồ dùng dạy học chứa các thông tin chủ yếu về: các hiện tượng, sự vật
có liên quan trong nội dung bài học của học sinh:
b. Đồ dùng dạy học làm tăng hứng thú nhận thức của học sinh:
c. Đồ dùng dạy học đảm bảo tính trực quan, tạo cho học sinh khả năng tiếp
cận nội dung bài học:
d. Đồ dùng dạy học tạo điều kiện mở rộng nội dung sách giáo khoa cho học
sinh:
e. Đồ dùng dạy học nâng cao độ khó ở mỗi bài học:
f. Đồ dùng dạy học tạo điều kiện cho học sinh tự lực chiếm lĩnh kiến thức,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo:
Hình thức này rất phù hợp cho hoạt động tuyên truyền của cán bộ quản lý
đối với việc sử dụng và tự làm đồ dùng dạy học của giáo viên. Nó gây hứng thú
cho người tham gia tìm hiểu, lại ngắn gọn, dễ hiểu, dễ tác động đến mọi giáo
viên trong nhà trường. Ngoài ra hình thức này có thể điều chỉnh thành nội dung
thảo luận nhóm,…trong buổi sinh hoạt chuyên môn.
7


* Chuyển hóa thành thói quen, nhu cầu sử dụng đồ dùng dạy học
Khi công tác tuyên truyền vận động nâng cao nhận thức về vai trò, tầm
quan trọng của việc sử dụng đồ dùng dạy học trong quá trình dạy học đạt được

hiệu quả. Mỗi giáo viên đã nhận thức được đồ dùng dạy học là yếu tố không thể
thiếu khi dạy học. Tôi tiến hành thực hiện các hoạt động sau:
- Yêu cầu tổng hợp, thống kê, báo cáo: Tôi chỉ đạo cho nhân viên thiết bị
cập nhật thông tin thường xuyên về việc mượn và sử dụng đồ dùng dạy học của
giáo viên. Đều đặn hàng tuần nhân viên thiết bị thống kê báo cáo cho tôi nắm số
liệu và tuyên dương các giáo viên thường xuyên sử dụng và tự làm đồ dùng dạy
học. Công việc này không khó, song đòi hỏi sự chuyên cần của nhân viên phụ
trách thiết bị của nhà trường. Có như thế thì các thông tin về mượn, sử dụng đồ
dùng dạy học của giáo viên mới có tác dụng. Nó tác động đến ý thức và trách
nhiệm, quyền và nghĩa vụ của giáo viên. Nó còn tác động đến nền nếp, thói quen
thành nhu cầu không thể thiếu của giáo viên đối với đồ dùng dạy học.
3.2: Nâng cao kỹ năng sử dụng đồ dùng dạy học
Để thực hiện được giải pháp này, cần tuân thủ 3 bước:
* Bước 1: Làm cho giáo viên nắm vững, hiểu rõ nguyên tắc sử dụng đồ
dùng dạy học
Trong khi tham dự sinh hoạt chuyên môn Tổ, tôi tiến hành nêu vấn đề để
giáo viên thảo luận thông qua phiếu ghi ý kiến sau:
Việc sử dụng đồ dùng dạy học cần:
a. Gắn với nội dung của sách giáo khoa, sách giáo viên:
b. Phù hợp với hình thức dạy học bộ môn:
c. Phù hợp với phương pháp dạy học bộ môn:
d. Phù hợp với kế hoạch bài học:
e. Chỉ ở phần thực hành:
f. Chỉ ở những bài khó:
g. Đúng mục đích:
h. Đúng lúc, đúng chỗ:
Sau khi có kết quả qua phiếu thăm dò, tôi cho một số giáo viên phân tích
theo các ý trên, ý kiến nào là đúng, ý kiến nào chưa đúng để từ đó họ tự suy
ngẫm và thực hiện.
* Bước 2: Hỗ trợ cho giáo viên kỹ năng, thao tác sử dụng đồ dùng dạy học

Sau khi giáo viên thực hiện thảo luận và cho kết quả. Chắc chắn mỗi giáo
viên sẽ nắm vững và hiểu hơn về nguyên tắc sử dụng đồ dùng dạy học. Song cái
khó trong thực tế là:
- Do xác định không đúng mục đích sử dụng hoặc đúng mục đích nhưng
khi sử dụng không đúng lúc, không đúng chỗ, hiệu quả sử dụng sẽ không cao,
thậm chí phản tác dụng.
Ví dụ: Khi giải nghĩa từ ở phân môn Luyện từ và Câu, thông thường giáo viên
sẽ dùng tranh minh họa để học sinh hiểu rõ hơn về từ đó. Do sử dụng không đúng
lúc như: trước, hoặc sau khi giới thiệu từ hoặc để quá lâu tranh ảnh trên bảng, sẽ
làm cho học sinh mất tập trung vì chỉ nhìn tranh không tập trung học.
8


- Do sử dụng không đúng thao tác, không thuần thục khi sử dụng, không
tính đến an toàn khi sử dụng do giáo viên chưa được tập huấn chuyên sâu cách
sử dụng đồ dùng dạy học, thời gian tập huấn quá ít, không đủ để thực hành thí
nghiệm, nhân viên phụ trách thiết bị cũng chưa được tập huấn chuyên ngành, …
sẽ làm cho tính minh họa của đồ dùng giảm tác dụng, có khi phản tác dụng,
không đảm bảo tính khoa học.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Dung dịch” môn khoa học lớp 5. Giáo viên cho học
sinh pha đường vào nước ở hoạt động 1 thì cần chú ý ít nước, chỉ một ít đường
để học sinh nếm, tránh cho học sinh tự do pha, uống quá nhiều. Ở hoạt động 2,
giáo viên nên thực hiện trên bàn để ở giữa lớp cho học sinh ngồi theo hình chữ
U quan sát để đảm bảo an toàn cho học sinh, nhắc các em không được hé mở để
xem, trong thời gian 5 phút vì các em tò mò muốn biết kết quả sớm.
Để khắc phục khó khăn này, không có gì khác ngoài tư vấn cho giáo viên,
hoặc chính nhân viên phụ trách thiết bị đóng vai trò trợ giảng sẽ làm thí nghiệm.
Nếu giáo viên thực hiện thì phải thử nhiều lần trước để kiểm tra tính chính xác
khoa học và độ an toàn,... Khi thuần thục rồi, giáo viên sẽ tự tin thực hiện vừa
không mất thời gian, vừa an toàn, khắc phục được hiện tượng ngại khó, ngại thất

bại của giáo viên khi sử dụng đồ dùng dạy học.
Cán bộ quản lý cũng nên tư vấn cho giáo viên cách thao tác khi sử dụng, dù
chỉ những thao tác nhỏ. Chẳng hạn, treo tranh ở đâu, vào lúc nào, cất tranh khi
nào; hay tay nào cầm đồ dùng dạy học, tay nào cầm phấn viết để tránh các thao
tác thừa, chuyển tay mất thời gian dễ làm giáo viên lúng túng khi thao tác. Đứng
ở góc nào để mỗi học sinh đều có thể quan sát được.
Ví dụ : Khi hướng dẫn học sinh tô chữ, giáo viên không nên dùng tay trái,
không nên đứng bên phải của mẫu chữ ( trừ trường hợp hướng dẫn riêng cho
học sinh thuận tay trái).
* Bước 3: Cải tiến bộ đồ dùng dạy học được cấp cho phù hợp mục tiêu,
nội dung, phương pháp, … và điều kiện thực hiện của giáo viên, phù hợp đối
tượng học sinh
Như trên đã nêu, đồ dùng dạy học được cấp không đủ về cơ số, lại có
những đồ dùng không phù hợp điều kiện và hoàn cảnh người sử dụng (bảng cài,
thẻ từ…). Để tiện trong sử dụng, lại phù hợp với điều kiện của địa phương,
không tốn nhiều tiền của và công sức, vẫn đảm bảo tính chính xác và khoa học
thì người cán bộ quản lý nên tư vấn, hỗ trợ và cả đi học hỏi thêm ở các đơn vị
bạn về cải tiến đồ dùng dạy học.
Chẳng hạn: Để tiện dụng và linh hoạt trong sử dụng bảng cài, các thẻ cài
không bị đổ, gọn nhẹ, giáo viên nên cải tiến bằng cánh tự làm với nhiều kiểu
dáng, mẫu mã khác nhau, miễn sao đúng mục đích sử dụng là làm bảng cài.
3.3: Phát động phong trào tự làm đồ dùng dạy học
Đây cũng là giải pháp để cho giáo viên nghiên cứu, hiểu rõ hơn về mối liên
hệ của đồ dùng mình làm với kiến thức cần truyền đạt cho học sinh. Góp phần
nâng cao ý thức và hiệu quả trong việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên
khi lên lớp. Vì vậy, khi phát động phong trào tự làm đồ dùng dạy học, tôi xây
dựng kế hoạch làm đồ dùng dạy học bằng các hình thức sau:
9



+ Phát động phong trào tự làm đồ dùng dạy học, giáo viên làm các các
bảng biểu, bảng nhóm bằng bìa cứng, tờ giấy lịch, giấy Rôki rồi ép plastic bên
ngoài khi dùng xong xóa được để tổ chức cho học sinh trò chơi củng cố âm vần,
các tiếng có chứa vần vừa học, dùng để làm bảng nhóm, bảng phụ,…. Đặc biệt
là vẽ tranh phóng to tranh trong sách giáo khoa phục vụ các bài dạy: luyện nói,
tập đọc , kể chuyện,... Tranh vẽ đảm bảo tính sư phạm, tính thẩm mĩ, tính hiệu
quả, tính tiện lợi và sử dụng lâu dài.
+ Tư vấn hỗ trợ tự làm đồ dùng dạy học thông qua gợi ý, hướng dẫn:
Sưu tầm tranh ảnh có ở các loại sách, báo, họa báo, tạp chí, bìa lịch,…
Sưu tầm các vật dụng như: vỏ hộp, can, chai nhựa, dây thép, dây vải, đinh,…
Chọn các vật liệu sẵn có ở địa phương như gỗ, tre, nứa, rơm, đất sét,…
Sưu tầm tranh ảnh theo chủ đề về quê hương, về đất nước, núi rừng,…
Tổ chức các nhóm tổ trong lớp (đối với học sinh), trong khối (đối với giáo
viên) thi đua trưng bày sản phẩm, tập hợp sản phẩm chung của lớp, của tổ để
dạy theo chủ đề thích hợp, làm phong phú thêm nguồn đồ dùng dạy học.
Bên cạnh việc tự làm đồ dùng dạy học của giáo viên, tôi xác định: không
phải giáo viên nào cũng có đủ thời gian, điều kiện và lúc nào cũng tham gia vào
việc tìm kiếm cũng như làm được đồ dùng dạy học. Do đó, tôi vận động giáo
viên có thể cung cấp cho gia đình học sinh, cộng đồng thông tin về đồ dùng dạy
học có thể tự làm bằng cách nào, từ đó thêm một nguồn đồ dùng dạy học nhờ
vận động xã hội hóa mà có.
Sau khi làm xong đồ dùng dạy học, cho giáo viên thuyết trình trong tổ,
nhóm về đồ dùng của mình: sử dụng vào nội dung nào, cách sử dụng, bảo quản
đồ dùng… để các giáo viên khác cùng tham gia góp ý.
3.4: Quản lí và bảo quản đồ dùng dạy - học
Dựa trên cơ sở nhu cầu và khả năng phục vụ của nhân viên thiết bị, tôi tiến
hành một số nghiệp vụ quản lý cụ thể như sau:
- Yêu cầu nhân viên thiết bị làm tốt khâu tiếp nhận, bàn giao và nhanh
chóng đưa thiết bị dạy học vào sử dụng. Tham mưu với Ban giám hiệu xây dựng
kế hoạch quản lý và sử dụng thiết bị dạy học.

- Căn cứ vào số lớp, số học sinh trong từng khối, từng điểm trường yêu cầu
nhân viên thiết bị lập kế hoạch tổ chức cho giáo viên mượn. Riêng bộ đồ dùng
thực hành của học sinh thì giáo viên chủ nhiệm lớp trực tiếp mượn, phân phối
cho học sinh sử dụng và bảo quản tại lớp.
- Cùng phối hợp với tổ trưởng tổ chuyên môn và giáo viên trực tiếp đứng
lớp thảo luận chuyên đề về thiết bị dạy học từng môn đánh giá ưu điểm, hạn chế
đồ dùng dạy học hiện có, lập kế hoạch khắc phục, phát huy tối đa vai trò đồ
dùng dạy học. Chỉ đạo cho tổ trưởng chuyên môn giám sát nề nếp ý thức mượn,
trả, sử dụng thiết bị dạy học trong mỗi bài giảng, đối chiếu việc thực hiện trên sổ
theo dõi mượn, sử dụng, trả thiết bị dạy học với giáo án và thực tế giờ dạy (vì có
khi thể hiện trong sổ sách nhưng lên lớp thì dạy chay), khắc phục tư tưởng ngại
sử dụng đồ dùng dạy học nhất là các đồ dùng dạy học khó sử dụng, phức tạp.
- Trong quá trình sử dụng, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
có những thiết bị dạy học hư hỏng, yêu cầu nhân viên thiết bị chủ động đề xuất
10


với Ban giám hiệu nhà trường các phương án sửa chữa, khắc phục nhằm phục
hồi và phát huy tối đa giá trị sử dụng của mỗi thiết bị dạy học. Nhờ vậy tỉ lệ hao
hụt do hư hỏng, thất thoát rất thấp.
Đối với bộ đồ dùng thực hành của học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp
thường xuyên quán triệt nhắc nhở học sinh có ý thực kiểm tra đồ dùng sau tiết
học tránh thất thoát các chi tiết nhỏ, các con chữ bằng bìa các tông khi sử dụng
nhiều lần dễ bị bong, giáo viên hướng dẫn học sinh bằng cách tự dùng keo dán
để dán lại.
Cuối năm học thiết bị, đồ dùng dạy học được thu về bảo quản tại phòng
thiết bị với hệ thống tủ, giá hiện có đảm bảo cho việc quản lý thiết bị, sử dụng,
bảo trì, sửa chữa…
3.5: Khi lên danh mục mua sắm thiết bị, đồ dùng dạy học tôi cho giáo
viên tự đề xuất những đồ dùng dạy học còn thiếu, hoặc cần bổ sung đủ cơ số

thì mới mua. Tránh tình trạng mua về mà không sử dụng được, chất lượng
kém,… gây lãng phí.
Với những việc làm trên đã góp phần nâng cao ý thức quản lý và sử dụng
đồ dùng dạy học của giáo viên và học sinh. Đồng thời sau mỗi tháng tiến hành
kiểm tra đánh giá việc mượn và sử dụng thiết bị dạy học của giáo viên thông qua
lịch báo giảng, sổ sử dụng thiết bị dạy học của nhân viên thiết bị để tổng kết và
rút kinh nghiệm.
4. Kết quả đạt được
Qua một thời gian chỉ đạo và thực hiện những giải pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng đồ dùng dạy học của trường tiểu học Trung Lý 2 tôi nhận thấy:
- Cho đến nay, việc sử dụng đồ dùng dạy học của nhà trường đã đi vào nền
nếp. Đồ dùng dạy học trong nhà trường ngày càng phong phú hơn về chủng loại
và số lượng, từng bước đáp ứng về nhu cầu phục vụ đắc lực cho việc dạy và
học, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Giáo viên
trong nhà trường đều có ý thức sử dụng đồ dùng dạy học khi lên lớp. Tất cả giáo
viên đều có danh sách mượn, trả đồ dùng dạy học trong phòng thiết bị - thư viện
của nhà trường.
- Giáo viên tích cực tham gia phong trào tự làm đồ dùng dạy học phục vụ
tiết dạy. Họ xem đây như là một công việc thường ngày trước khi lên lớp.
- Ngoài ra, giáo viên còn hướng dẫn học sinh chuẩn bị các đồ dùng dạy
học có ở địa phương, hoặc tự làm để học tập. Từ đó hiệu quả tiết học được nâng
lên rõ rệt, các em hứng thú hơn trong học tập. Nhiều sản phẩm đồ dùng các em
tự làm các em rất là thích và biết bảo quản hơn.
* Kết quả thống kê việc thăm lớp dự giờ (không báo trước) trong vòng một
tháng (Từ 15/3/2019 đến 14/4/2019) của Ban giám hiệu đối với giáo viên thì số
lượng giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học và số lượng giáo viên không sử dụng
đồ dùng dạy học (chỉ sử dụng sách giáo khoa) so với đầu năm cụ thể như sau:
TT

Thời điểm


Tổng
số GV

Tổng
số tiết
dự giờ

Số tiết Tỉ lệ số Số tiết
sử
tiết sử
không
dụng dụng đồ sử dụng

Tỉ lệ số
tiết sử
không

Ghi chú

11


đồ
dùng

dùng

đồ dùng


dụng đồ
dùng

1

Đầu năm

22

44

11

25 %

33

75 %

2

Cuối năm

22

44

31

70,4 %


13

29,6 %

* Kết quả đánh giá các tiết dạy cuối năm so với đầu năm như sau:
Loại Giỏi
Tổng
TT

số

GV

Tổng
số tiết
dự
giờ

Thời
điểm

Loại Khá

Loại Trung bình

Số
tiết

Tỉ lệ số

tiết đạt

Số
tiết

Tỉ lệ số
tiết đạt

Số tiết
đạt

Tỉ lệ số
tiết đạt

loại
Giỏi

Giỏi

loại
Khá

Khá

Trung
bình

Trung
bình


đạt

loại

đạt

loại

loại

loại

1

22

44

Đầu năm

5

11,4%

25

56,8%

14


31,8%

2

22

44

Cuối năm

12

27,3%

26

59,1%

6

13,6%

Ghi
chú

* Kết quả khảo sát cuối năm (Thời điểm: Từ 15/3/2009 đến 14/4/2019) về
số lượt mượn đồ dùng dạy học so sánh với đầu năm học (thời điểm tháng
10/2018) thông qua sổ sách của nhân viên thiết bị - thư viện cụ thể như sau:
TT Thời điểm
Tổng số Số lượt mượn đồ Bình quân số lượt mượn Ghi chú

1

Đầu năm

GV
22

2

Cuối năm

22

dùng/1 tháng
77 lượt

đồ dùng/1 tháng
3,5 lượt

165 lượt

7,5 lượt

Qua số liệu so sánh trên đã chứng minh được rằng giáo viên đã có ý thức
chuẩn bị và sử dụng đồ dùng dạy học khi lên lớp. Kỹ năng sử dụng đồ dùng dạy
học của giáo viên được nâng cao. Hiệu quả của các tiết dạy và chất lượng giáo
dục của nhà trường từng bước cũng được nâng lên.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua việc nghiên cứu các cơ sở lý luận về trang thiết bị và đồ dùng dạy học.

Qua phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên và
qua chỉ đạo việc nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học trong nhà trường
năm học 2018- 2019, tôi nhận thấy đa số giáo viên tổ chức, thực hiện việc sử
dụng đồ dùng dạy học khá tốt, bài bản. Điều này xuất phát từ việc giáo viên đã
nhận thức đúng vai trò không thể thiếu của đồ dùng, thiết bị dạy học. Đã có các
biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học thích hợp. Rõ ràng, giáo viên đã coi trọng
việc sử dụng đồ dùng dạy học bằng chính hoạt động giảng dạy thực tế trên lớp,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Tất nhiên, các giải
pháp trên chưa hoàn toàn mĩ mãn, bởi đối tượng học sinh là cụ thể, đặc điểm địa
phương mỗi nơi mỗi khác. Nhưng nói chung các giải pháp này đã có những tiến
bộ nhất định, đạt được những yêu cầu cơ bản không thể phủ nhận.
12


2. Kiến nghị
2.1: Đối với giáo viên
Phải thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học, tích cực nghiên cứu và tự làm
đồ dùng dạy học thường xuyên để phục vụ giảng dạy, coi đây là một công việc
trước khi lên lớp.
2.2: Đối với Nhân viên thiết bị
Nhiệt tình và làm tốt công tác tham mưu cho lãnh đạo nhà trường trong
việc mua sắm, theo dõi giáo viên sử dụng, mượn - trả và tự làm đồ dùng dạy
học. Học hỏi, trau dồi thêm kiến thức về cách phát huy tác dụng của thiết bị, đồ
dùng học tập và cách bảo quản trang thiết bị dạy học.
2.3: Đối với cán bộ quản lý nhà trường
Để đạt được hiệu quả phục vụ tốt, phát huy vai trò hỗ trợ trong giảng dạy
và học tập đối với giáo viên và học sinh của đồ dùng dạy học trong nhà trường,
người cán bộ quản lý cần phải:
+ Phân công, phân nhiệm gắn với trách nhiệm và quyền lợi đối với nhân
viên thiết bị của nhà trường, họ phải thật sự yêu thích công việc của mình, cần

mẫn và cẩn thận đối với công việc được phân công.
+ Trân trọng đối với những đồ dùng dạy học tự làm của giáo viên, học sinh,
của phụ huynh học sinh, dù là đồ dùng dạy học nhỏ, rẻ tiền, dễ tìm.
+ Chịu khó lắng nghe ý kiến đóng góp của giáo viên, năng động trong cách
làm, cách nghĩ; chịu khó học và tự học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
quản lý của mình để chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ.
+ Hàng năm cần trích một phần kinh phí mua thêm trang thiết bị, đồ dùng
dạy học bổ sung vào phòng thiết bị.
+ Cuối mỗi năm học cần phải thành lập ban kiểm kê tài sản thiết bị, đồ
dùng dạy học.
+ Cần biểu dương, khen thưởng những giáo viên có nhiều ý tưởng sáng tạo
trong việc làm đồ dùng dạy học có tính bền vững và sử dụng được cho nhiều
môn học. Tuyên truyền và nhân rộng cho nhiều giáo viên khác học tập.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng đồ dùng dạy học ở trường Tiểu học Trung Lý 2 - huyện Mường Lát. Kinh
nghiệm này đã được áp dụng vào thực tế, đem lại hiệu quả tương đối cao mang
tính khả thi và bền vững. Rất mong quý đồng nghiệp đóng góp ý kiến để kinh
nghiệm này càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 16 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép của người khác.
NGƯỜI VIẾT

13


Nguyễn Tiến Hiệp


14



×