Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy tính tích cực học tập của HS trong dạy học mô khoa học lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.46 MB, 29 trang )

MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23

Đề mục

Trang


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài....................................................................
1
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................
2
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................
2
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................
2
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
3
1. Khái niệm phương pháp thí nghiệm.
3
2. Bản chất của phương pháp thí nghiệm.
3
3. Vai trò của phương pháp thí nghiệm trong việc vận dụng để
4
dạy môn khoa học lớp 5.
II. Thực trạng của việc sử dụng phương pháp thí nghiệm
5
trong dạy học môn khoa học lớp 5.
1. Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy thí nghiệm ở
5
các nhà trường:
2. Thực trạng học sinh học thí nghiệm:
5
3. Thực trạng dạy thí nghiệm của giáo viên:
5
4. Khảo sát học sinh:

6
III. Một số biện pháp phát huy tính tích cực học tập của
6
học sinh thông qua việc sử dụng phương pháp thí nghiệm
trong giờ khoa học.
1. Giáo viên phải xác định rõ mục đích, lựa chọn thí nghiệm
6
phù hợp
2. Chuẩn bị chu đáo dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho từng bài
8
dạy cụ thể
3. Xây dựng góc học tập môn Khoa học. Khuyến khích học
9
sinh, phụ huynh học sinh trong lớp cùng tham gia chuẩn bị
dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học.
3.1. Xây dựng góc học tập môn Khoa học
9
3. 2. Khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh trong lớp 10 cùng
tham gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học
4. Vận dụng kỹ thuật dạy học: Kỹ thuật “Trình bày một phút” 11 trong việc
hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm.
5. Sử dụng phương pháp thí nghiệm theo hướng phát huy tính 12 tích cực
học tập của học sinh
6. Một số hoạt động minh họa cho bài dạy cụ thể:13
24

6.1. Ví dụ 1

25
26

27
28

6.2. Ví dụ 2
6.3. Ví dụ 3
IV. Một số kết quả đạt được
1. Đối với giáo viên

13

14
16
18


29
30

2. Đối với học sinh
C. PHẦN KẾT LUẬN

18
18
20

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài

Khoa học là môn học về các sự vật hiện tượng tự nhiên, về cơ thể và sức
khỏe của con người. Có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa
học sơ đẳng ban đầu về các hiện tượng và sự vật gần gũi trong tự nhiên, bao
gồm cả con người và các hoạt động của con người tác động vào thế giới tự
nhiên; bước đầu hình thành một số kỹ năng quan sát, dự đoán và vận dụng kiến
thức khoa học vào cuộc sống.
Môn Khoa học ở lớp 5 được xây dựng trên cơ sở nối tiếp những kiến thức
về tự nhiên của môn Tự nhiên và Xã hội các lớp 1,2,3. Nội dung chương trình
được cấu trúc đồng tâm mở rộng và nâng cao theo các chủ đề: Con người và sức
khỏe; Vật chất và năng lượng; Thực vật và động vật. Các chủ đề này được mở
rộng và đào sâu ở lớp 5. Với trình độ phát triển tư duy của học sinh lớp cuối cấp
Tiểu học, chương trình môn Khoa học lớp 5 đã đưa vào những nội dung về tính
chất, đặc điểm của các quá trình, hiện tượng trong tự nhiên, trong cơ thể người.
Các hiện tượng hay quá trình diễn ra trong tự nhiên nhiều khi rất khó quan sát
trong điều kiện bình thường, bằng mắt thường. Bởi chúng thường diễn ra quá
nhanh hoặc quá chậm hoặc “vô hình”. Những kiến thức về tính chất và sự biến
đổi của các chất thì lại rất trừu tượng, muốn nhận thấy chúng, cần phải tạo ra sự
tương tác, phản ứng giữa các chất, nghĩa là phải tiến hành thí nghiệm. Bên cạnh
đó khoa học còn là môn học tiền đề để sau này các em học tốt môn hóa học, vật
lí ở THCS và THPT. Nhưng thực tế cho thấy nhiều học sinh mặc dù nắm chắc
phần lí thuyết nhưng khi thực hành thí nghiệm thì vô cùng lúng túng, chưa thành
thạo hoặc chưa biết cách thao tác thí nghiệm. Các em có rất ít trải nghiệm thực
tế về kĩ năng làm thí nghiệm. Việc lĩnh hội kiến thức của các em còn xa rời thực
tiễn, các em khó hình thành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. Mặt
khác học sinh đa phần là người dân tộc thiểu số, các em ít được tiếp cận với phát
triển khoa học. Không những thế Trường Tiểu học Cẩm Châu đóng trên địa bàn
xã vùng cao, trình độ dân trí của địa phương không đồng đều, điều kiện kinh tế
chưa phát triển nên việc chuẩn bị đồ dùng, sưu tầm đồ dùng phục vụ cho thí
nghiệm còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy để học sinh học tốt môn Khoa học ở lớp
5, giúp các em khai thác hết giá trị của dạy học thí nghiệm, phát huy được tính

tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, gắn lí thuyết với thực tiễn, thỏa mãn
nhu cầu tò mò, khám phá tri thức của các em, giúp học sinh hiểu rõ bản chất của
các sự vật hiện tượng, mạnh dạn trong các hoạt động,… thì giáo viên cần vận
dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực trong đó có thể lựa chọn và
phối hợp nhiều phương pháp khác nhau. Trong khuôn khổ đề tài này tôi chỉ đưa
ra một số kinh nghiệm trong việc “Sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm
phát huy tính tích học tập của học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5”
sao cho đạt hiệu quả cao nhất để góp một phần nhỏ vào việc thực hiện nâng cao
hiệu quả giáo dục nói chung, nâng cao chất lượng dạy và học Khoa học ở
Trường Tiểu học Cẩm Châu nói riêng.
2


II. Mục đích nghiên cứu:
- Vận dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 5
theo hướng phát huy tính cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học
của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua các thí
nghiệm.
III. Đối tượng nghiên cứu:
- Quá trình dạy học môn Khoa học lớp 5 bằng phương pháp thí nghiệm.
- Một số thí nghiệm nhằm giúp học sinh lớp học tốt môn Khoa học lớp 5.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp điều tra:
- Mục đích để tìm hiểu các phương pháp dạy học của giáo viên; tìm hiểu
tính tích cực nhận thức của học sinh.
2. Phương pháp thực nghiệm:
- Dạy thực nghiệm tại lớp 5A, để đối chiếu kiểm nghiệm với đầu năm,
đánh giá hiệu quả nghiên cứu.
3. Phương pháp trực quan:

- Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập…
- Trao đổi với giáo viên - học sinh để tìm hiểu thực trạng dạy - học môn
Khoa học lớp 5.

3


B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:

1. Khái niệm phương pháp thí nghiệm:
Thí nghiệm có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nhận thức
của con người về thế giới. Thí nghiệm là một phần của hiện thực khách quan được
thực hiện hoặc tái tạo lại trong những điều kiện đặc biệt, trong đó con người có thể
chủ động điều khiển các yếu tố tác động vào quá trình xảy ra để phục vụ cho các
mục đích nhất định. Thí nghiệm giúp con người gạt bỏ những cái phụ, không bản
chất để tìm ra cái bản chất của sự vật hiện tượng. Thí nghiệm giúp con người phát
hiện ra những quy luật còn ẩn náu trong tự nhiên. Mặt khác nó còn giúp con người
kiểm chứng, làm sáng tỏ những giả thuyết khoa học [ 9].

Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn, là tiêu chuẩn đánh giá
tính chân thực của kiến thức, hỗ trợ đắc lực cho tư duy sáng tạo. Nó là phương
tiện duy nhất giúp hình thành ở học sinh kỹ năng, kỹ xảo thực hành và tư duy
sáng tạo. Thí nghiệm được thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình dạy học.
Phương pháp thí nghiệm là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh
sử dụng các dụng cụ thí nghiệm để tái tạo lại những hiện tượng đã xảy ra trong
thực tế để tìm hiểu và rút ra những kết luận khoa học [9]. Qua đó tạo niềm tin
vào khoa học; nâng cao tính tự lực và khả năng tư duy khoa học khi tiếp xúc với
các hiện tượng thực tế; làm quen và hình thành ở học sinh kĩ năng sử dụng các
dụng cụ thí nghiệm. Như vậy phương pháp thí nghiệm có sự hợp tác giữa thầy

và trò để thực hiện thành công thí nghiệm phát hiện ra tri thức của bài học.
Phương pháp thí nghiệm làm thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận của giáo viên
và học sinh về vai trò của mình trong quá trình dạy học. Học sinh sẽ là người
trực tiếp thực hiện thí nghiệm từ đó phát hiện ra tri thức của bài học. Mục tiêu
của phương pháp thí nghiệm là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say
mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học,
phương pháp thí nghiệm còn chú ý nhiều đến việc phát triển tư duy và nâng cao
tính tự lực, tích cực của học sinh. Do vậy để sử dụng tốt phương pháp thí
nghiệm trong dạy học Khoa học đòi hỏi giáo viên phải nắm chắc bản chất của
phương pháp thí nghiệm.
2. Bản chất của phương pháp thí nghiệm:
Phương pháp thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn. Thí
nghiệm được sử dụng theo các cách khác nhau nhằm giúp học sinh thu thập và
xử lí thông tin qua đó rút ra được các khái niệm, quy luật, tính chất của các sự
vật, hiện tượng. Bản chất của phương pháp thí nghiệm là lấy học sinh làm trung
tâm thông qua đó giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các thí nghiệm đơn
giản từ đó phát hiện ra tri thức của bài học. Học sinh tích cực chủ động tham gia
vào các hoạt động thí nghiệm từ khâu nắm mục đích của thí nghiệm sau đó lựa
chọn thí nghiệm, lựa chọn dụng cụ, tiến hành thí nghiệm, quan sát và rút ra kết
quả. Qua các thí nghiệm, học sinh thể hiện sự hiểu biết của mình. Sự hiểu biết
4


ấy được chứng minh thông qua các quá trình học sinh tự lực làm thí nghiệm và
các kết quả của quá trình ấy. Với phương pháp thí nghiệm khả năng tư duy của
học sinh cũng được phát huy một cách tối đa. Học sinh có cơ hội tìm hiểu khám
phá tri thức thông qua các bài tập thực tế và các thí nghiệm thực hành. Học sinh
bước đầu được làm quen với hình thức nghiên cứu thỏa mãn nhu cầu tò mò
khám phá tri thức của mình. Học sinh mạnh dạn trong các hoạt động và tự tin
thể hiện khả năng sáng tạo của mình. Phương tiện thí nghiệm hỗ trợ, thúc đẩy

học sinh muốn được tham gia vào các hoạt động thí nghiệm điều đó rất có lợi
trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức của người học. Học sinh được chủ động sử
dụng các dụng cụ thí nghiệm và các chất tham gia vào thí nghiệm để tìm ra kiến
thức. Điều đó cũng rất thuận lợi cho các em phát triển các giác quan, đảm bảo
cho sự phát triển toàn diện. Trong phương pháp thí nghiệm giáo viên chỉ là
người hướng dẫn gợi mở mà không làm thay học sinh. Trên cơ sở đó học sinh
phát triển tư duy logic, năng lực cá nhân và hoàn thành tốt công việc được giao.
Như vậy với phương pháp thí nghiệm học sinh đã phát huy được sự sáng
tạo và khả năng hiểu biết của mình đem lại hiệu quả giáo dục rất lớn.
3. Vai trò của phương pháp thí nghiệm trong việc vận dụng để dạy
môn khoa học lớp 5:
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, bản chất của phương pháp thí nghiệm và
đặc điểm nội dung của môn Khoa học lớp 5 tôi thấy vận dụng phương pháp thí
nghiệm vào dạy môn Khoa học là rất cần thiết vì nó phù hợp với nội dung kiến
thức của môn. Do khoa học là một môn học tích hợp kiến thức của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội nên nội dung của nó mang tính thực tiễn cao. Những
hiểu biết mà học sinh tiếp thu được sẽ ứng dụng được rất nhiều vào trong cuộc
sống. Học sinh có thể tư duy tranh luận để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong
thực tế từ đó tìm ra kiến thức của bài học, hình thành niềm tin khoa học. Phương
pháp thí nghiệm đóng vai trò quan trọng giúp các em hiểu chúng và làm sáng tỏ
những giả thuyết khoa học này.
Quá trình nhận thức của học sinh mang tính trực quan cụ thể: Tri giác của
học sinh gắn liền với hoạt động thực tiễn, trí nhớ mang tính chất hình ảnh, cụ
thể, trực tiếp. Dạy học có sử dụng thí nghiệm luôn đặt học sinh vào những hoạt
động trực tiếp, lấy hoạt động của học sinh làm trung tâm, dưới sự hướng dẫn của
giáo viên học sinh thực hành thí nghiệm dựa vào kiến thức, kinh nghiệm có sẵn
để tiến hành thí nghiệm. Bằng các hoạt động tự lực thực hiện thí nghiệm học
sinh sẽ nắm bắt kiến thức một cách sâu sắc và vững chắc.
Thí nghiệm còn giúp học sinh hiểu được bản chất của vấn đề một cách
nhanh chóng và chính xác, học sinh được đặt vào tình huống có vấn đề và tự

mình lựa chọn thí nghiệm, tự tổ chức thí nghiệm thông qua sự hướng dẫn của
giáo viên. Học sinh tự thực hiện thí nghiệm rồi trình bày trước lớp, dù làm hỏng
hay làm tốt, các em đều được trình bày và giải thích kết luận của mình. Chính
qua những lần thử nghiệm liên tiếp ấy, qua những sai lầm học sinh sẽ rút ra kinh
nghiệm và hiểu sâu bản chất của vấn đề.
5


Thí nghiệm có tác dụng kích thích động cơ học tập của học sinh. Khi nhận
được các vấn đề, học sinh nảy sinh nhu cầu muốn tiến hành thí nghiệm để giải
quyết vấn đề được nêu ra. Học sinh sẽ tự nghiên cứu, nêu ra các ý tưởng, những
khả năng có thể xảy ra khi thực hiện thí nghiệm rồi dần dần chiếm lĩnh tri thức.
Hơn thế nữa, khi tiến hành thí nghiệm học sinh luôn ở trạng thái vận động, sử
dụng mọi giác quan, điều này không chỉ giúp học sinh lĩnh hội được nhiều thông
tin, kiến thức, kĩ năng mà còn giúp học sinh phát triển thể chất, thẩm mĩ… Đây
là mục tiêu phát triển toàn diện mà mục đích của giáo dục đề ra.
Vì vậy sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học góp phần quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học nhằm đạt được
mục tiêu dạy học đã đề ra.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5:

1. Thực trạng về cơ sở vật chất phục vụ cho dạy thí nghiệm môn
Khoa học ở nhà trường:
Hiện nay, đồ dùng thí nghiệm ở các nhà trường còn thiếu, chưa được đầu
tư về các vật dụng, đồ dùng phục vụ cho việc thực hành thí nghiệm của giáo
viên và học sinh. Bộ đồ dùng được cấp từ sau năm 2000 đến nay đã xuống cấp,
hầu như không sử dụng được. Phòng thiết bị dạy học không đảm bảo điều kiện
phục vụ cho giáo viên và học sinh làm thí nghiệm.
Nhà trường không có nhân viên chuyên trách riêng về thiết bị mà do giáo

viên văn hóa kiêm nhiệm không được đào tạo về chuyên môn. Bởi vậy đồ dùng
thí nghiệm do giáo viên giảng dạy tự chuẩn bị.
2. Thực trạng học sinh học thí nghiệm trong môn Khoa học:
Phần lớn học sinh ham thích học khoa học. Học sinh nắm rất tốt về lí
thuyết nhưng thiếu kĩ năng làm thí nghiệm. Các em có rất ít trải nghiệm thực tế
qua thực hành làm thí nghiệm. Chính vì vậy việc lĩnh hội kiến thức của học sinh
luôn xa rời thực tiễn, học sinh khó hình thành kĩ năng kĩ xảo thực hành và tư
duy kĩ thuật.
Việc chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm của học sinh chưa tích cực do các em
ngại tìm kiếm, ngại sưu tầm, …
3. Thực trạng dạy thí nghiệm của giáo viên trong môn Khoa học:
Một bộ phận không nhỏ giáo viên còn ngại đầu tư, công sức. Cho rằng
môn học này không quan trọng bằng môn Toán, Tiếng Việt, …
Bên cạnh đó khi làm thí nghiệm các tiết dạy rất dễ thất bại nếu không làm
thí nghiệm trước, không có sự chuẩn bị chu đáo kĩ càng về đồ dùng dạy học bởi
việc chuẩn bị đồ dùng mất rất nhiều thời gian, kinh phí, …

6


Một số giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm,
chưa biết cách khai thác nên chưa thu hút được học sinh tham gia, khiến cho
hiệu quả giờ học chưa cao.
4. Khảo sát học sinh:
Trong quá trình giảng dạy học về khoa học, tôi tiến hành khảo sát chất
lượng học sinh nắm được thí nghiệm và vận dụng vào thực tiễn lớp 5A và nhận
được kết quả như sau:

Lớp


TSHS

Số HS nắm chắc lí

Số HS nắm chắc

Số HS chưa nắm

thuyết và thực
hành tốt thí
nghiệm

lí thuyết nhưng
chưa thực hành
tốt thí nghiệm

chắc lí thuyết,
chưa thực hành tốt
thí nghiệm

SL
5A

33

7

TL

SL


TL

SL

TL

21%

16

48%

10

31%

Từ bảng kết quả trên cho thấy: Số học sinh nắm được lí thuyết và thực
hành thí nghiệm thành thạo, có hứng thú với thực hành thí nghiệm còn hạn chế.
Những học sinh có đam mê khoa học, thích nghiên cứu, tìm tòi và nắm chắc lí
thuyết từ đó biết vận dụng vào thực tiễn, có tư duy kĩ thuật còn rất ít.
Số học sinh trong lớp nắm được lí thuyết nhưng thực hành thí nghiệm
chưa tốt hoặc chưa nắm được lí thuyết và chưa biết cách thực hành thí nghiệm
còn nhiều.
Từ những thực trạng trên đây, việc sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm
phát huy tính tích cực học tập của học sinh vào dạy môn Khoa học ở nhà trường
Tiểu học là một việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các em say mê, hứng thú
trong học khoa học, lĩnh hội những tri thức khoa học một cách dễ dàng, tạo điều
kiện củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc. Tạo ra không khí học tập
sôi nổi, kích thích học sinh chủ động tìm kiếm tri thức trong nội dung từng bài

học cụ thể.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁP PHÁT HUY TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH THÔNG QUA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM TRONG GIỜ
KHOA HỌC:

1. Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu, lựa chọn thí nghiệm phù hợp:
Qua tìm hiểu, dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc áp
dụng phương pháp thí nghiệm trong môn Khoa học lớp 5 nói riêng và môn Khoa
học nói chung ở các trường Tiểu học có thể chia ra các cách tiến hành thí
nghiệm mà giáo viên thường dùng như sau:
Cách 1: Giáo viên nêu kiến thức khoa học.
7


- Giáo viên làm thí nghiệm để minh họa học sinh quan sát và đối chiếu kết
quả thí nghiệm với kiến thức khoa học.
Cách 2: Giáo viên nêu kiến thức khoa học.
- Yêu cầu học sinh dự kiến kết quả thí nghiệm.
- Giáo viên làm thí nghiệm.
- Học sinh giải thích diễn biến thí nghiệm.
Cách 3: Giáo viên nêu kiến thức khoa học.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm.
- Học sinh làm thí nghiệm và đối chiếu kết quả với kiến thức khoa
học. Cách 4: Giáo viên yêu cầu học sinh nêu kiến thức khoa học.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm.
- Học sinh làm thí nghiệm và đối chiếu kết quả với kiến thức khoa học.
Cách 5: Giáo viên nêu vấn đề: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí
nghiệm để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi.
Cách 1 thực chất là dạng thí nghiệm chứng minh do giáo viên tiến hành.
Khi tiến hành phương pháp thí nghiệm theo cách này, giáo viên chưa phát huy

được tính tích cực học tập của học sinh vì những lí do sau:
- Kiến thức khoa học đã nêu ra không còn kích thích được trí tò mò của
học sinh.
- Thí nghiệm do giáo viên tiến hành, học sinh chỉ cần quan sát theo dõi
nên khó tập trung chú ý.
- Thí nghiệm do giáo viên tiến hành nên xác xuất thành công thường rất
cao, ít có tình huống sư phạm xảy ra. Vì vậy, không kích ứng khả năng tư duy và
óc phán đoán của học sinh.
Ở cách 2, mặc dù vẫn là giáo viên làm thí nghiệm nhưng mức độ tham gia
của học sinh đã tích cực hơn so với cách 1. Làm theo cách 2, học sinh được dự
kiến kết quả thí nghiệm nên phần nào kích thích trí tò mò, khơi dậy khả năng
phán đoán của các em. Học sinh sẽ hào hứng theo dõi thí nghiệm để so sánh với
kết quả mà mình dự đoán. Ngoài ra, các em còn được giải thích diễn biến của thí
nghiệm nên không khí học tập sôi nổi hơn. Mỗi em đưa ra cách giải thích riêng
của mình sao cho phù hợp với kết quả tìm được.
Theo cách 3, HS bắt đầu được làm thí nghiệm, nhưng sự tích cực của HS lại
thể hiện ở các mức độ khác nhau. Khi được trực tiếp thực hành trên dụng cụ thí
nghiệm, các em sẽ rất hào hứng. Đặc biệt, HS được tiến hành thí nghiệm theo
nhóm sẽ tăng cường tinh thần tập thể, dễ thảo luận với nhau, cùng giúp đỡ nhau
thực hiện nhiệm vụ nhóm mình. Tuy vậy ở cách 3, GV vẫn là người đưa ra cách
tiến hành thí nghiệm, HS chưa thực sự được chủ động khám phá kiến thức mới.

8


Trong sách giáo viên (SGV) Khoa học 5, phần lớn các thí nghiệm được
gợi ý tiến hành theo cách 3, đó là: GV nêu kiến thức khoa học - GV hướng dẫn
HS làm thí nghiệm - HS làm thí nghiệm đối chiếu kết quả thí nghiệm với kiến
thức khoa học. Như vậy, theo kết quả điều tra nói trên, GV đã có sự sáng tạo,
linh hoạt (so với SGV) trong việc sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát

huy tính tích cực học tập của HS.
Với 5 cách tiến hành thí nghiệm đã nêu, tuy cách sau có nhiều ưu điểm
hơn cách trước, nhưng vẫn chưa phát huy tối đa tính tích cực học tập của HS.
Các em chỉ quan sát là chủ yếu, chưa được trực tiếp sử dụng và thao tác trên các
dụng cụ thí nghiệm. Ở cách 3 và cách 4, HS được làm thí nghiệm để tìm ra kiến
thức dưới sự hướng dẫn của GV. Song cách làm việc của HS vẫn được GV chỉ
dẫn khá cụ thể nên các em chỉ việc áp dụng một cách máy móc, không có sự
sáng tạo, mặc dù HS có thể có cách làm khác. Ngoài ra, khi tất cả các nhóm
cùng làm theo một cách thì khó có sự so sánh, đối chiếu kết quả đa dạng giữa
các nhóm tổ.
Trong khi đó giờ Khoa học, làm thí nghiệm không phải chỉ để thay đổi
hình thức học tập, làm thí nghiệm cho vui mà thông qua thí nghiệm giúp học
sinh lĩnh hội các kiến thức khoa học một cách rõ ràng, dễ hiểu và có thể nhớ lâu.
Do đó khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm giáo viên cần xác định rõ mục
đích của thí nghiệm, phải suy nghĩ xem mình tổ chức thí nghiệm nhằm mục đích
gì? nhằm rút ra kiến thức, kỹ năng nào? Để từ đó có hướng thiết kế một cách
phù hợp. Vì vậy khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm trong dạy học Khoa
học chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết
học cụ thể để thiết kế thí nghiệm cho phù hợp. Muốn tổ chức được cho học sinh
làm thí nghiệm trong dạy học Khoa học có hiệu cao thì đòi hỏi mỗi giáo viên
phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau :
- Cần xác định rõ mục đích, nhiệm vụ, thời gian làm thí nghiệm.
- Lựa chọn thí nghiệm phù hợp với nội dung bài học và phải được chuẩn
bị chu đáo.
2. Chuẩn bị chu đáo dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho từng bài dạy cụ
thể:
Để chuẩn bị cho một bài dạy môn Khoa học đòi hỏi giáo viên phải đầu tư
nhiều thời gian, công sức, từ việc chuẩn bị bài dạy, nghiên cứu nắm vững kiến thức
khoa học, đến việc sưu tầm tài liệu, chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài
dạy. Chính vì vậy, đối với những bài Khoa học cần phải chuẩn bị dụng cụ thí

nghiệm tôi nghiên cứu rất kỹ xem mình cần chuẩn bị những dụng cụ nào. Nếu bài
nào khó, còn phân vân thì tôi sẽ đưa ra trong buổi sinh hoạt tổ chuyên môn để
thống nhất xây dựng kế hoạch cụ thể về việc nên chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm đối
với từng bài dạy cụ thể trong chương trình khoa học lớp 5 (có sử dụng phương
pháp thí nghiệm). Sau đó phân công chuẩn bị và chia sẻ cùng nhau về đồ

9


dùng dạy học, tư liệu cho từng bài học. Qua nghiên cứu bài dạy, chúng tôi đã
thống nhất phương án chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm cho các bài cụ thể sau đây:

1

Đá vôi, xi măng

Tiết
(theo
PPCT)
Tiết 26, 27

2

Gạch, ngói

Tiết 28

Gạch, ngói, chậu nước.

3


Thủy tinh

Tiết 29

Cốc, chén, lọ thủy tinh

TT

Tên bài

Dụng cụ TN cần chuẩn bị
Đá vôi, đá cuội, a xít, dấm, xi măng,
nước.

4

Cao su, chất dẻo

Tiết 30, 31

Bóng cao su, sợi dây bằng cao su;
nước sôi, nước lạnh, xăng, nến, bật
lửa.

5

Chất dẻo

Tiết 31


Các đồ dùng bằng nhựa

6

Sự chuyển thể của

Tiết 35

Nến, nước đá

7

chất
Hỗn hợp và dung
dịch

Tiết 36, 37,
38

Muối, mì chính, hạt tiêu, xi măng,
cát, thìa, cốc, bếp, nồi, dầu ăn, nến

8

Sự biến đổi

9

học

Năng lượng

10

Sử dụng
lượng điện

hóa Tiết 39, 40
Tiết 41
năng Tiết 45

Nến (hoặc đèn cồn), giấy, dấm,
chanh
Nến, pin, ô tô đồ chơi
Pin, bóng đèn, dây điện.

3. Xây dựng góc học tập môn Khoa học. Khuyến khích học sinh, phụ
huynh học sinh trong lớp cùng tham gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục
vụ cho bài học Khoa học:
3.1. Xây dựng góc học tập môn Khoa học:
Trong lớp học, góc học tập chính là nơi để các đồ dùng học tập, đồ dùng
phục vụ cho việc dạy và học của học sinh như sách vở, tranh ảnh, đồ dùng thí
nghiệm, … do giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh cùng sưu tầm chuẩn bị.
Ngoài ra đây cũng là nơi trưng bày sản phẩm học tập của học sinh theo từng
tuần, từng tháng hoặc cả năm học. Góc học tập chính là nơi thu hút, lôi cuốn học
sinh, giúp các em ghi nhớ, khắc sâu kiến thức sau mỗi giờ học, tạo cho các em
niềm say mê cũng như hứng thú khi tham gia các hoạt động học tập.

10



Khi dạy các bài dạy khoa học có thí nghiệm, cuối mỗi giờ học tôi sẽ tổ
chức từng nhóm thảo luận, thống nhất lại nội dung kiến thức đã học được trong
bài học, chia sẻ trước lớp kết quả mình thu được cũng như cách vận dụng vào
thực tiễn cuộc sống. Sau đó các em cùng thảo luận, bàn bạc, phân công các đồ
dùng cần chuẩn bị cho tiết học sau (nếu có) phù hợp với khả năng của từng em.
3. 2. Khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh trong lớp cùng tham
gia chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm phục vụ cho bài học Khoa học:
Học sinh chủ động chuẩn bị từ ở nhà các loại đồ dùng phục vụ cho các
hoạt động dạy và học trên lớp là nhân tố rất quan trọng quyết định đến sự thành
bại của từng bài dạy cụ thể. Do đó để mỗi giờ học Khoa học thực sự hiệu quả và
lôi cuốn học sinh thì ngoài bản thân mỗi giáo viên phải tự thân vận động và luôn
luôn có ý chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ thí nghiệm để phục vụ bài giảng của mình.
Bên cạnh đó, giáo viên nên khuyến khích học sinh, phụ huynh học sinh cùng
tham chuẩn bị phục vụ cho việc học tập môn Khoa học. Đây là việc làm rất cần
thiết vì qua tìm hiểu, chuẩn bị học sinh đã phần nào đó nắm được một số kiến
thức liên quan đến nội dung bài học từ đó giúp các em nhớ lâu kiến thức hơn vì
kiến thức tự học sinh tìm tòi khám phá bao giờ cũng ấn tựơng sâu sắc trong tâm
trí các em. Để vận động phụ huynh cùng tham gia chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm
với học sinh ngay từ đầu năm học tôi đã nghiên cứu chương trình, triển khai các
nội dung cần chuẩn bị đến phụ huynh, kêu gọi phụ huynh cùng tham gia vào quá
trình chuẩn bị đồ dùng học tập của học sinh trong đó có các đồ dùng phục vụ
cho thí nghiệm khoa học. Sau khi được sự thống nhất đồng ý của phụ huynh, với
các tiết học có sử dụng đồ dùng thí nghiệm tôi sẽ lên kế hoạch, gửi phiếu đề
nghị các dụng cụ thí nghiệm cần sự hỗ trợ của phụ huynh trước một tuần và có
ghi rõ những dụng cụ cần phụ huynh hỗ trợ cũng như thời gian học sinh mang
đến lớp phục vụ cho các hoạt động học tập. Ví dụ:
Phiếu đề nghị phụ huynh hỗ trợ đồ dùng thí nghiệm:
STT


1

Tên bài

Hỗn hợp và
dung dịch

Hoạt

Đồ dùng cần chuẩn

Ngày

Thời gian

động
DH

bị

dạy

mang đến
lớp

5.2.2018

2.2.2018

HĐ 2


Muối, nước, dầu ăn,
cốc, thìa.
HĐ 5 và Bếp ga mi ni, muối,

HĐ2
cốc, thìa, nồi, đĩa
(HĐTH) nhỏ, nến.
Việc vận động phụ huynh cùng tham gia vào việc chuẩn bị đồ dùng thí
nghiệm giúp phụ huynh hiểu được một phần quá trình học tập của các em.
Học sinh có thể nhờ cha mẹ giúp hoặc cùng các em, hỗ trợ các em chuẩn bị
đồ dùng thí nghiệm. Qua đó giúp giáo viên hoàn thành tốt mục tiêu bài học.
11


HS chuẩn bị đồ dùng thí nghiệm

Trưng bày đồ dùng góc Khoa học

4. Vận dụng các kỹ thuật dạy học tích cực: Kỹ thuật “Trình bày một
phút”; Kĩ thuật “Viết tích cực” trong việc hướng dẫn học sinh làm thí
nghiệm:
Trong dạy học nói chung và dạy học khoa học nói riêng việc vận dụng các
kỹ thuật dạy học tích cực là vô cùng quan trọng. Do đó tùy thuộc vào nội dung
từng bài học mà giáo viên lựa chọn các kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp.
Để phát huy tính tích cực của học sinh trong thực hành thí nghiệm tôi
thường sử dụng kỹ thuật “Trình bày một phút”. Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho
HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn
khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng
nhóm, cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra sẽ giúp củng cố

quá trình học tập của các em và cho GV thấy được các em đã hiểu vấn đề như
thế nào.
Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau:
- Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học hoặc sau một hoạt động thí nghiệm
nào đó), GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau:
Điều quan trọng nhất các em học đuợc sau khi làm thí nghiệm là gì?
Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp sau khi
làm thí nghiệm?...
- HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau.
- Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em
đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các
em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm sau khi làm thí nghiệm.
Bên cạnh đó nhằm giúp học sinh tóm tắt nội dung đã học, phản hồi cho
giáo viên về việc nắm kiến thức của các em và những chỗ các em còn băn khoăn
thắc mắc hoặc hiểu sai sau khi thực hành thí nghiệm, giáo viên nên sử dụng kĩ
thuật viết tích cực trong tiết học. Giáo viên có thể tiến hành như sau:
12


- Giáo viên đặt câu hỏi: Các em đã nắm được gì sau khi thực hành thí
nghiệm? Các em còn băn khoăn gì sau khi làm thí nghiệm? các em hãy suy nghĩ
viết ra giấy trong thời gian 2, 3 phút.
- Học sinh chia sẻ. Giáo viên cùng học sinh giải đáp (nếu có) và chốt lại.

Học sinh hào hứng tham gia phát biểu ý kiến:Trình bày một phút

* Một số lưu ý khi sử dụng các kỹ thuật dạy học 1 phút:
- Câu hỏi của GV không nên đề cập đến nhiều vấn đề, tránh việc trình bày
của HS bị phân tán, dài dòng, thiếu tập trung.

- Bên cạnh đó, cần khích lệ HS khi trình bày để HS tự tin, hứng thú. Chỉ đạo
HS lắng nghe và chia sẻ sản phẩm của bạn về cả nội dung và cách thức trình bày.

- Mỗi HS chỉ trình bày trong thời gian một phút, không nên cho nhiều HS
trình bày cùng một nội dung để tránh mất thời gian cho những hoạt động khác.
5. Sử dụng phương pháp thí nghiệm theo hướng phát huy tính tích
cực học tập của học sinh:
Để sử dụng phương pháp thí nghiệm theo hướng phát huy tích cực học tập
của HS, có thể tiến hành thí nghiệm theo cách sau:
- GV nêu vấn đề (kiến thức khoa học được nêu ra dưới dạng câu hỏi mở).
- HS đưa ra cách tiến hành, dự kiến kết quả.
- HS làm thí nghiệm, giải thích hiện tượng và rút ra kiến thức khoa học.
[6]
Đây là cách làm có thể đòi hỏi những điều kiện nhất định (HS có khả
năng tiếp thu nhanh, GV có trình độ vững vàng về Khoa học tự nhiên, có khả
năng xử lí tốt các tình huống về chuyên môn và sư phạm…) Song, nếu GV
mạnh dạn tìm tòi suy nghĩ và vận dụng cách hướng dẫn nói trên, hiệu quả dạy
học nhất định sẽ từng bước được nâng cao. Có thể cụ thể hóa trình tự tiến hành
thí nghiệm theo cách trên như sau:
Bước 1. Nêu vấn đề: GV nêu vấn đề (kiến thức khoa học) dưới dạng câu hỏi.

13


Bước 2. HS thảo luận và đưa ra các phương án tiến hành thí nghiệm.
Bước 3. Tiến hành thí nghiệm:
- HS đưa ra cách tiến hành thí nghiệm của mình. HS có cùng cách làm thì
tập hợp thành một nhóm, như vậy trong lớp sẽ tạo được nhiều nhóm, mỗi nhóm
có cách tiến hành khác nhau. Các HS cùng nhóm cùng bàn bạc, thảo luận về thí
nghiệm của mình và dự kiến những dụng cụ cần thiết.

- Các nhóm lấy những dụng cụ cần thiết, tiến hành thí nghiệm.
Bước 4. Thu thập kết quả: Các nhóm trình bày kết quả và trao đổi các kết
quả thu được.
Bước 5. Giải thích kết quả: HS đối chiếu kết quả thu được với các giả
thuyết ban đầu theo phiếu học tập sau: Phiếu học tập:
Thí nghiệm tiến hành

Dự đoán kết quả

Kết quả thu được

…………………………. …………………………. ………………………….
- Giải thích một số hiện tượng.
- HS tự rút ra kết luận tạm thời, phù hợp với sự vận dụng kiến thức của
các em.
- Bước 6. Kết luận: HS đối chiếu kết quả tìm được với kiến thức trong
SGK.
6. Một số hoạt động minh họa cho bài dạy cụ thể:
6.1. Ví dụ 1: Bài 14: Đá vôi, xi măng – HDH Khoa học 5 (Tập 1)
Hoạt động 2: Tính chất của đá vôi, xi măng:
Bước 1: Nêu vấn đề: GV nêu: Qua hoạt động 1, các em đã biết nước ta có
nhiều vùng núi đá vôi với những hang động nổi tiếng như: Hương Tích (Hà
Tây), Bích Động (Ninh Bình), Phong Nha (Quảng Bình) và các hang động khác.
Ngoài ra chúng ta còn biết được lợi ích của đá vôi đối với đời sống con người.
Vậy đá vôi có những tính chất gì?
- GV yêu cầu HS mô tả bằng lời những hiểu biết của mình về tính chất
của đá vôi : + Tất cả những thắc mắc của các em là đều muốn biết: một số tính
chất của đá vôi.
+ Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này, theo em chúng ta tiến hành cách thí
nghiệm - nghiên cứu nào?

Bước 2: HS thảo luận và đưa ra các phương án tiến hành thí nghiệm
- Lấy đá vôi cọ sát lên hòn đá cuội rồi lấy đá cuội cọ sát đá vôi
- Nhỏ một vài giọt axit loãng hoặc dấm lên một hòn đá cuội và một hòn
đá vôi Bước 3: Tiến hành thí nghiệm
14


- Những HS có chung cách tiến hành thí nghiệm sẽ tập hợp lại thành
nhóm, cùng bàn bạc, thảo luận về thí nghiệm của nhóm mình và dự kiến những
dụng cụ cần thiết. HS ghi (hoặc vẽ) những gì định làm vào vở.
- Các nhóm lấy dụng cụ thí nghiệm cần thiết và tiến hành thí nghiệm. GV
đến từng nhóm quan sát, giúp đỡ HS nếu cần thiết.
- Nhóm trưởng điều khiển nhóm mình làm thực hành.

(Hình ảnh học sinh đang thực hành làm thí nghiệm trên đá vôi)

Bước 4: Thu nhập kết quả
Các nhóm trình bày kết quả và trao đổi về các kết quả đạt được. So sánh
kết luận với ý kiến ban đầu để khắc sâu kiến thức: VD:
Nhóm 1: Cọ sát một hòn đá vôi vào một hòn đá cuội: Trên mặt đá vôi chỗ
cọ sát với đá cuội bị mòn. Trên mặt đá cuội chỗ cọ sát có màu trắng đó đá vôi
vụn ra dính vào.Vì vậy đá vôi mềm hơn đá cuội (đá cuội cứng hơn đá vôi).
Nhóm 2. Nhỏ a xít, dấm lên đá vôi, đá cuội.
- Đá vôi sủi bọt, có khí bay lên: Đá vôi tác dụng với dấm (a xít) tạo thành
một chất khác và có khí các bô- ních sủi lên.
- Đá cuội không sủi bọt, không có khí bay lên, a xít và dấm chảy đi: Đá
cuội không phản ứng với a xít.
Bước 5 : Kết luận : Đá vôi không cứng lắm, dưới tác dụng của a xít đá vôi
bị sủi bọt.
6.2. Ví dụ 2: Bài 17: Cao su, chất dẻo – HDH Khoa học 5 (Tập 1)

Hoạt động 2: Tính chất của cao su:
Bước 1: Nêu vấn đề
GV nêu: Qua hoạt động 1, các em đã biết một số dụng cụ được làm bằng
cao su. Bây giờ muốn biết được tính chất của cao su chúng ta phải làm như thế
nào?
- Em có băn khoăn, thắc mắc hãy đưa ra những câu hỏi.
1
5


+ GV ghi bảng:
VD: Cao su có bị biến đổi khi gặp nóng không?
+ Khi lạnh cao su có bị biến đổi không?
+ Cao su có tan trong nước không?
+ Cao su có tính đàn hồi không?
+ Cao su có cách nhiệt, cách điện không?
- Chúng ta cần làm gì giải quyết thắc mắc trên? Vậy phương án tối ưu
nhất bây giờ là làm thí nghiệm.
Bước 2: HS thảo luận và đưa ra các phương án tiến hành thí nghiệm
- Ném quả bóng cao su xuống sàn nhà hoặc vào tường.
- Kéo căng một sợi dây cao su rồi buông tay ra.
- Thả một miếng cao su vào trong nước lạnh, sau đó lấy ra và thả vào cốc
nước nóng.
- Cho một chiếc thìa nhôm và một đầu dây cao su vào cốc nước nóng.
Bước 3: Tiến hành thí nghiệm: Những HS có chung cách tiến hành thí
nghiệm sẽ tập hợp lại thành nhóm, cùng bàn bạc, thảo luận về thí nghiệm của
nhóm mình và dự kiến những dụng cụ cần thiết. HS ghi (hoặc vẽ) những gì định
làm vào vở.
- Các nhóm lấy dụng cụ thí nghiệm cần thiết và tiến hành thí nghiệm.
GV đến từng nhóm quan sát, giúp đỡ HS nếu cần thiết.

Bước 4: Thu nhập kết quả
Các nhóm trình bày kết quả và trao đổi về các kết quả đạt được. VD:

Hình ảnh HS làm thí nghiệm để tìm ra tính chất của cao su

- Nhóm 1,2: Cao su có tính đàn hồi tốt.
- Nhóm 3: Cao su ít bị biến đổi khi gặp nóng lạnh. Không tan trong nước
mà tan trong một số chất lỏng khác.
16


- Nhóm 4: Cao su có tính cách điện, cách nhiệt.
Bước 5 : Kết luận: Cao su có tính đàn hồi, ít bị biến đổi khi gặp nóng lạnh,
cách điện cách nhiệt, không tan trong nước, tan trong một số chất lỏng khác.
6.3. Ví dụ 3: Bài 20: Hỗn hợp và dung dịch – HDH Khoa học 5 (Tập 2)

Hoạt động 2: Cách tách các chất trong dung dịch
Bước 1: Nêu vấn đề: GV nêu: Qua hoạt động 1, các em đã biết cách tạo ra
một dung dịch. Bây giờ muốn tách các chất ra khỏi dung dịch, chúng ta phải làm
như thế nào? Hãy đưa ra phương án tách muối ra khỏi nước để có nước tinh
khiết và muối.
Bước 2: HS thảo luận và đưa ra các phương án tiến hành thí nghiệm
Dự kiến các phương án HS có thể đưa ra:
- Úp đĩa lên một cốc nước muối nóng;
- Đổ dung dịch vào một đĩa nóng rồi phơi nắng;
- Cho dung dịch vào chảo rồi đun cho nước bốc hơi.
Bước 3: Tiến hành thí nghiệm: Những HS có chung cách tiến hành thí
nghiệm sẽ tập hợp lại thành nhóm, cùng bàn bạc, thảo luận về thí nghiệm của
nhóm mình và dự kiến những dụng cụ cần thiết. HS ghi (hoặc vẽ) những gì định
làm vào vở.

- Các nhóm lấy dụng cụ thí nghiệm cần thiết và tiến hành thí nghiệm. GV
đến từng nhóm quan sát, giúp đỡ HS nếu cần thiết.

HS làm thí nghiệm tách các chất ra khỏi dung dịch

Bước 4: Thu nhập kết quả
Các nhóm trình bày kết quả và trao đổi về các kết quả đạt được. Sau đó so
sánh các chất mà từng nhóm tách được sau quá trình thí nghiệm, VD:
- Nhóm 1: Thu được nước tinh khiết và muối.
- Nhóm 2: Thấy nước muối còn lại ít hơn và mặn hơn dung dịch ban đầu.
17


- Nhóm 3: Thu được muối.
Bước 5: Giải thích kết quả:

- Nhóm 1: Úp đĩa lên cốc nước muối nóng, những giọt nước đọng lại trên
đĩa không có vị mặn như nước muối trong cốc. Vì chỉ có hơi nước bốc lên, khi
gặp lạnh sẽ ngưng tụ lại thành nước, muối vẫn còn ở dung dịch trong cốc.
- Nhóm 2: Khi phơi nắng dung dịch, nước bốc hơi và bay vào không khí.
Vì nhiệt độ và thời gian chưa đủ để nước bốc hơi hoàn toàn nên nước muối còn
lại trong cốc sẽ mặn hơn.
- Nhóm 3: Khi dung dịch được đun lên, ở nhiệt độ cao, nước bốc hơi
nhanh và nhiều. Vì vậy, ta thu được muối kết tinh ở đáy chảo.
Bước 6: Kết luận
Bằng cách chưng cất nước muối, ta thu được muối và nước tinh khiết.
Tương tự như vậy, ta có thể tách được đường và nước ra khỏi nước đường. Vậy,
chưng cất là một cách dùng để tách các chất ra khỏi dung dịch.
Liên hệ thực tế: Để sản xuất muối từ nước biển, người ta dẫn nước biển
vào các ruộng làm muối, dưới ánh nắng mặt trời, nước sẽ bốc hơi và còn lại

muối. Người ta cũng chưng cất nước ép từ cây mía để sản xuất ra đường…
Có thể nói, qua cách sử dụng phương pháp thí nghiệm của 3 bài học minh
họa nêu trên, HS không những được trực tiếp làm thí nghiệm mà còn được đưa
ra những phương án tiến hành riêng của mình, được dự kiến các kết quả đạt
được. Cách tiến hành như vậy sẽ kích thích trí tò mò và phát huy được tính tích
cực nhận thức của HS.
Bên cạnh đó, HS cũng sẽ có cơ hội đặt ra nhiều câu hỏi và thấy có nhiều
điều lí thú để tìm tòi. Từ người quan sát thụ động như ở cách các thí nghiệm
khác, các em sẽ trở nên chủ động hơn. GV không định hướng các giả thiết mà để
HS tự nghĩ ra chúng, tự phát biểu các bước tiến hành thí nghiệm cụ thể để thực
hiện được điều các em muốn tìm ra. Trong một số trường hợp, GV chỉ yêu cầu
các em tự phác họa hay vẽ sơ đồ thiết bị thí nghiệm, tìm ra vật liệu và đối chiếu
kết quả thí nghiệm. Sau đó, qua thảo luận, bàn bạc trước lớp, HS sẽ có một kết
quả toàn diện, chính xác hơn và các giả định còn lại sẽ bị bác bỏ. HS luôn tin
vào GV, song những khẳng định của GV cũng khó xóa nhòa được những gì các
em cho là đúng. Chỉ có đối chiếu với thực tế thì mới thay đổi được một cách sâu
sắc nhận thức của các em. VD: Với người lớn thì hiện tượng nước sôi ở 100 0C
được coi như một điều hiển nhiên, song với HS lại là một điều mới lạ. Có thể
nhiều em chỉ nghĩ đơn giản là càng đun sôi lâu thì nhiệt độ của nước càng tăng
lên. Vì vậy, nếu HS được trực tiếp đo nhiệt độ của nước đang sôi thì các em sẽ
dễ dàng chấp nhận kiến thức: nước chỉ sôi ở 1000C.
Với cách tiến hành thí nghiệm nêu trên, có thể SGK không còn đóng vai
trò chỉ dẫn thao tác thí nghiệm mà trở thành nơi để các em đối chiếu kết quả
nhằm chính xác hóa kiến thức do bản thân tự rút ra. Việc cho HS tham gia đề
18


xuất cách tiến hành thí nghiệm và tự làm thí nghiệm chính là tạo cho các em cơ
hội nhớ lại và suy nghĩ về những hiện tượng tự nhiên, tìm cách giải thích chúng
để khám phá nhiều điều kì thú của khoa học.

Tuy nhiên khi học sinh thực hành làm thí nghiệm giáo viên cần hướng dẫn
học sinh chú ý đến độ an toàn. Giáo viên luôn luôn nhắc nhở các em đọc kỹ
hướng dẫn và suy nghĩ trước khi làm thí nghiệm. Luôn luôn nhận biết nơi để các
trang thiết bị an toàn, không để những điều xấu xảy ra trong khi làm thí nghiệm.
IV. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

1. Đối với giáo viên:
Trước đây khi chưa tìm hiểu sâu về tác dụng, vai trò của phương pháp thí
nghiệm, bản thân cũng như những giáo viên trong tổ chuyên môn chỉ tổ chức
dạy học dựa trên định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên. Hiện nay,
không chỉ bản thân tôi mà mỗi giáo viên ở Trường Tiểu học Cẩm Châu đã quan
tâm thường xuyên đến việc sử dụng phương pháp thí nghiệm nhằm phát huy
tính tích học tập của học sinh trong dạy học môn Khoa học.
2. Đối với học sinh:
Các tiết học môn Khoa học có các hoạt động thí nghiệm đã trở nên hấp
dẫn hơn, thu hút học sinh, giúp các em tiếp thu bài một cách dễ dàng. Học sinh
được tri giác trực tiếp đối tượng cần nghiên cứu trong quá trình thí nghiệm qua
đó phát triển năng lực nhận thức của học sinh. Đặc biệt là khả năng quan sát tư
duy giúp học sinh hình thành cảm giác thẩm mỹ được hấp dẫn bởi cái đẹp, cái
đơn giản, tính chính xác của thông tin thu được từ thí nghiệm ... Phương pháp thí
nghiệm không những làm sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng thú học
tập bộ môn, nâng cao niềm tin của học sinh vào khoa học mà còn là động lực
thúc đẩy học sinh yêu thích môn khoa học.
Trong giờ học các em đã có hứng thú và làm việc tích cực. Các em biết tư
duy, vận dụng lí thuyết vào thực hành thí nghiệm một cách thành thạo, biết vận
dụng vào thực tiễn cuộc sống. Tiết học khoa học không còn là tiết học khô cứng
mà trở nên hấp dẫn và thu hút học sinh. Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh và
nhận được kết quả như sau:

Lớp


5A

TS
HS

33

Số HS nắm chắc lí

Số HS nắm chắc lí

Số HS chưa

thuyết và thực
hành tốt thí
nghiệm

thuyết nhưng chưa
thực hành tốt thí
nghiệm

nắm chắc lí
thuyết, chưa
thực hành tốt
thí nghiệm

SL

TL


23

70%

SL
7

TL
21%

SL

TL

3

9%
19


Bảng kết quả trên cho thấy: Số học sinh nắm được lí thuyết và thực hành
thí nghiệm thành thạo, có hứng thú với thực hành thí nghiệm đã có tiến bộ rõ rệt.
Từ những học sinh chưa có đam mê khoa học các em lại ham thích khoa học,
thích nghiên cứu, thích tìm tòi và nắm chắc lí thuyết từ đó biết vận dụng vào
thực tiễn và có tư duy kĩ thuật.
Số HS trong lớp nắm được lí thuyết nhưng chưa biết cách thực hành thí
nghiệm, hoặc chưa nắm được lí thuyết, chưa biết cách thực hành thí nghiệm
cũng như hứng thú với các tiết học có thí nghiệm còn lại rất ít. Những học sinh
này do chưa tích cực trong giờ học, chưa chịu nghiên cứu, tìm tòi, ngại vận động

nên việc nắm kiến thức một cách mơ hồ hoặc chưa nắm được kiến thức trong
các giờ học có thực hành thí nghiệm.
Như vậy một tiết học khoa học có thực hành thí nghiệm nếu giáo viên
chịu khó nghiên cứu, khéo léo sử dụng cũng như kết hợp các biện pháp sao cho
phù hợp với đối tượng học sinh sẽ lôi cuốn được nhiều học sinh tham gia, học
sinh sẽ không cảm thấy lúng túng khi làm thí nghiệm cũng như ngại tham gia
vào các hoạt động học tập. Các em đã nắm được các kiến thức, biết vận dụng
những kiến thức đó vào thực tiễn cuộc sống.
Một số hình ảnh của tiết học có sử dụng phương pháp thí nghiệm trong
giờ khoa học:

Học sinh làm thí nghiệm: Biến đổi hóa học

Học sinh làm thí nghiệm:
Tách chất ra khỏi dung dịch

Học sinh làm thí nghiệm bài: Sử dụng năng lượng điện

20


C. PHẦN KẾT LUẬN
Có thể nói phương pháp thí nghiệm là một phương pháp rất quan trọng và
cần thiết khi dạy học môn Khoa học vì học sinh được tri giác trực tiếp đối tượng
cần nghiên cứu trong quá trình thực hành thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu, học
sinh tri giác không phải chỉ bản thân đối tượng nghiên cứu mà tri giác cả những
hình ảnh, biểu tượng phản ảnh một bộ phận nào đó của đối tượng. Nó vừa kích
thích tính tò mò, ham học hỏi của học sinh. Nó tạo ra sự hứng thú muốn tìm ra
những kiến thức khoa học chính xác nhất sau khi học sinh đưa ra những kết luận
ban đầu. Phương pháp thí nghiệm còn giúp học sinh phát triển năng lực nhận

thức. Đặc biệt là khả năng quan sát, khă năng tư duy giúp học sinh hình thành
cảm giác thẩm mỹ được hấp dẫn bởi cái đẹp, cái đơn giản, tính chính xác của
thông tin thu được từ thí nghiệm ... Và chính phương pháp làm thí nghiệm là con
đường nhanh nhất để học sinh lĩnh hội các kiến thức khoa học một cách rõ ràng,
dễ hiểu và có thể nhớ lâu qua sự so sánh, đối chiếu với dự đoán ban đầu. Tuy
nhiên không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hoàn toàn. Giáo viên phải
biết áp dụng linh hoạt các phương pháp, các hình thức tổ chức lớp học phong
phú, các biện pháp cũng như các kĩ thuật dạy học phù hợp với từng bài học, phù
hợp với từng đối tượng học sinh của mình. Bên cạnh đó muốn có giờ dạy học
tốt, giáo viên phải thực sự có lòng yêu nghề mến trẻ, không ngại khó, ngại khổ
mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm tòi cái mới, chuẩn bị kĩ đồ dùng
dạy học, …. Có được như vậy tất yếu tiết học sẽ thành công. Từ đó mới đạt được
mục tiêu giáo dục đề ra.
Trên đây chỉ là một số biện pháp cơ bản được rút ra từ thực tiễn quá trình
giảng dạy của cá nhân tôi ở Trường Tiểu học Cẩm Châu, chắc chắn rằng sẽ chưa
đảm bảo được sự toàn diện và không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến và bổ sung thêm của các đồng nghiệp để
sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Cẩm Châu, ngày 26 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

21



Cao Thị Huyền
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
STT

Tài liệu tham khảo

Nhà xuất bản, chủ biên

1

Sách HDH Khoa học lớp 5

NXB Giáo dục Việt Nam

2

Sách giáo viên Khoa học lớp 5

NXB Giáo dục- Bùi Phương
Nga chủ biên.

3

Sách thiết kế bài giảng Khoa học lớp 5
tập 1, 2

NXB Hà Nội- Phạm Thu Hà
chủ biên.

4


Tài liệu HDGV môn Khoa học lớp 5

NXB Giáo dục Việt Nam

5

Tập san Giáo dục hàng tháng ở trường
Tiểu học

Bộ Giáo dục và Đào tạo

6

Phương pháp dạy học các môn học ở
tiểu học

NXB Giáo dục

7

Tư liệu dạy học khoa học 5

NXB Giáo dục - Nguyễn
Thanh Giang - Nguyễn Thu
Hạ.

8

Tài liệu hướng dẫn tham gia cộng đồng

theo mô hình trường học mới.

NXB Giáo dục Việt Nam

9

Phương pháp dạy học thí nghiệm.

Tài liệu BDTX chu kì 19972000 NXBGD 1999

10

Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các
môn học lớp 5- Tập 1

11

Một số tài tiệu khác

NXB Giáo dục

22


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Cao Thị Huyền.
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường Tiểu học Cẩm Châu

STT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá

Kết quả

Năm học

xếp loại

đánh giá
xếp loại

đánh giá
xếp loại

Loại B

Năm học
2007-2008

Loại B

Năm học
2009-2010

Loại B


Năm học
2011-2012

Loại C

Năm học
2013-2014

( Phòng, Sở,
Tỉnh)
1
2
3

4

Một vài biện pháp so sánh
phân số.

Phòng GD&ĐT
Cẩm Thủy

Một số trò chơi trong dạy
học Tiếng Việt lớp 3.

Phòng GD&ĐT
Cẩm Thủy

Một vài biện pháp khắc
phục học sinh yếu kém

môn Toán.

Phòng GD&ĐT
Cẩm Thủy

Một số kinh nghiệm dạy
học có hiệu quả về các
yếu tố hình học cho học
sinh lớp 5 - Trường Tiểu
học Cẩm Châu.

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

23


Phần đánh giá, xếp loại SKKN của Hội đồng khoa học
Trường Tiểu học Cẩm Châu
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
24


×