VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO THỊ NGỌC HÀ
CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2019
Công trình được hoàn thành tại
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án
cấp Học viện
Địa điểm: Phòng bảo vệ luận án tiến sĩ – Phòng họp ….. Nhà
….., Học viện khoa học xã hội
Thời gian: vào hồi ……… giờ, ngày …… tháng ……. năm
………..…
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự trở nên cấp thiết trong bối cảnh BLTTHS 2015
ra đời và sắp có hiệu lực trên thực tế. Xét từ góc độ thực tiễn, việc thực
hiện các chức năng bào chữa, chức năng buộc tội và chức năng xét xử chưa
được phân biệt rõ ràng, còn xảy ra tình trạng chồng chéo nhau, các chủ thể
thực hiện chức năng nêu trên chưa làm hết chức năng của mình. Bên cạnh
đó, mặc dù trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người bào chữa ngày càng
được nâng cao, sự tham gia của người bào chữa ngày một nhiều hơn, nhưng
chất lượng giải quyết vụ án vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguyên
nhân dẫn đến thực trạng này bao gồm cả nguyên nhân chủ quan từ phía
người bào chữa, và nguyên nhân khách quan từ các cơ quan tiến hành tố
tụng và các quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, người bào
chữa chưa thực sự được cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện để hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn nữa, nhận thức của cơ quan
bảo vệ pháp luật về vai trò của người bào chữa chưa thực sự đúng đắn. Vị
trí của người bào chữa phải được xem là một bên tham gia tố tụng, ngang
hàng và bình đẳng với Viện kiểm sát. Cùng với các cơ quan tiến hành tố
tụng, các hoạt động của người bào chữa góp phần tìm ra chân lý khách quan
của vụ án. Nhận thức này phải được quán triệt trong đội ngũ cán bộ làm
công tác tư pháp, đặc biệt là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và mọi
công dân.
Các nội dung về bào chữa đã được nhiều tác giả quan tâm ở những
khía cạnh khác nhau, thể hiện qua các luận án, luận văn thạc sỹ, bài viết
trong tạp chí chuyên ngành, bài viết chuyên đề trong đề tài nghiên cứu khoa
học… Đó là các nội dung liên quan đến quyền bào chữa, việc bảo đảm thực
hiện quyền bào chữa, người bào chữa, vai trò của người bào chữa, chức
năng của tố tụng hình sự, chức năng xét xử của tố tụng hình sự, chức năng
buộc tội của tố tụng hình sự… Tuy nhiên, ở cấp độ tiến sỹ, vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách sâu rộng, toàn diện về chức năng bào
1
chữa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài « Chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự Việt Nam » là cấp thiết và tác giả đã lựa chọn đề tài này để nghiên
cứu dưới góc độ là một luận án tiến sỹ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng quy định của
pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS, luận án
đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp bảo đảm thực hiện
chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận như khái
niệm, đặc điểm, mục đích ý nghĩa, nội dung, cơ sở của chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự... ; các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến chức
năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam. Ngoài ra đối tượng của đề
tài là thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam, đánh giá thực tiễn để phân tích và làm rõ những vướng mắc, bất cập
của pháp luật hiện hành thông qua những số liệu, ví dụ điển hình trong thực
tiễn xét xử để đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
và tổ chức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và
quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng bào chữa
trong lĩnh vực tố tụng hình sự, thực trạng và giải pháp bảo đảm thực hiện có
hiệu quả chức năng bào chữa trong TTHS Việt Nam.
Về thời gian: Quy định của pháp luật về chức năng bào chữa được
nghiên cứu trong từng giai đoạn lịch sự cụ thể như giai đoạn trước khi
BLTTHS 1988 ra đời, giai đoạn BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003
và giai đoạn BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành.
Về không gian : Luận án nghiên cứu các vấn đề thực tiễn thông qua
việc nghiên cứu, tổng kết các vụ án có sự tham gia của NBC trong phạm vi
toàn quốc và phân tích thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS
2
trên cơ sở báo cáo của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, phiếu khảo sát một số luật sư ở Hà Nội và
địa phương.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận và cách tiếp cận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Ngoài ra, luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
Luật tố tụng hình sự kết hợp tiếp cận đa ngành, liên ngành.
Cách tiếp cận: Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên
ngành Luật tố tụng hình sự, Luật hình sự, Lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật, Khoa học điều tra hình sự, Tội phạm học và phương pháp tiếp cận lịch sử,
tiếp cận đa ngành, liên ngành; tiếp cận dưới khía cạnh luật so sánh…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học
xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của luật học để nghiên cứu
đề tài.Trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác, luận án sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, cụ thể là: phương pháp hệ thống,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp điều tra xã hội
học, phương pháp lịch sử, so sánh, logic, tổng hợp…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu toàn diện dưới góc độ lý luận và
thực tiễn về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Kết quả của luận án
đã đóng góp mới về mặt khoa học như sau :
- Thứ nhất: Luận án làm rõ và bổ sung một số vấn đề lý luận quan
trọng của chức năng bào chữa trong TTHS, đồng thời, phân tích để luận
giải sâu sắc hơn các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong TTHS qua
từng thời kỳ lịch sử nhất định để thấy được lịch sử lập pháp của chức năng
bào chữa trong TTHS Việt Nam.
3
- Thứ hai: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa
trong TTHS Việt Nam trong 10 năm trở lại đây, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên
cứu định tính và định lượng nhằm tạo ra độ tin cậy cho các kết luận.
- Thứ ba: Luận án đã đưa ra các giải pháp đề xuất mang tính khả thi
nhằm bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa có hiệu quả trên thực tế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án bổ sung và làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. Luận án có ý nghĩa
thực tiễn rất lớn và là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cá nhân, cơ quan, tổ
chức tham khảo, nghiên cứu trong quá trình góp ý, hoàn thiện quy định của
pháp luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được chia thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam
Chương 3: Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn thực hiện
Chương 4: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào
chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các vấn đề về bào chữa được nghiên
cứu từ nhiều khía cạnh, chẳng hạn về quyền bào chữa, người bào chữa, việc tham
gia tố tụng của người bào chữa… Đó là nền tảng khoa học cho việc xây dựng,
thực hiện các quy định pháp luật về chức năng bào chữa.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của mô hình tố tụng hình
sự là rất cần thiết đối với nghiên cứu sinh, bởi vì mô hình tố tụng hình sự là
4
phương thức để thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự. Các công
trình này bao gồm: “Major legal systems in world today” (tạm dịch: Những
hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại) của Rene David, John
E.C.Brierly, The Free Press năm 1978; Cuốn sách “Những mô hình tố tụng
hình sự trên thế giới” của tác giả Jean-Phillipe Rivaud năm 2000 … Cuốn
sách “Tư pháp hình sự so sánh” của tác giả Phillip.L.Reichel (bản dịch
tiếng việt của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý năm 1999; Bài viết
“Rethinking the functions of criminal Proceduce” (tạm dịch: bàn về các
chức năng của tố tụng hình sự) năm 2010 của tác giả Peter A Renella…
Các bài viết về chức năng bào chữa có thể kể đến như: bài viết
“Defense function” ( tạm dịch: chức năng bào chữa) của Đoàn luật sư Hoa
Kỳ đã nêu lên các tiêu chuẩn chung của người bào chữa và các chức năng
của luật sư bào chữa. Bài viết “Functions of the police, prosecutor, court
workers, defense counsel, Judge in aiding Juvenile Justice” (tạm dịch:
Chức năng của cảnh sát, công tố viên, công chức của tòa án, luật sư bào
chữa, thẩm phán) năm 2009 của tác giả Donald J.Newman, Ph.D (Lecturer
in law University Wiseunsin, Modison) đã khẳng định: Các chức năng bào
chữa có vai trò quan trọng gấp đôi trong giai đoạn điều tra của quá trình
TTHS so với các giai đoạn tố tụng khác, bởi chức năng bào chữa trong giai
đoạn điều tra với mục đích để hỗ trợ nghi can trong việc thu thập chứng cứ
và để bảo vệ anh ta từ hành vi vi phạm các quyền của mình trong tay những
người bảo vệ pháp luật (người tiến hành tố tụng)…
Một số công trình nghiên cứu có đề cập tới các nội dung của quyền
con người nói chung và quyền bào chữa nói riêng như: Bài viết “the
guarantees for accused peorsons under Article 6 of the European
convention on Human Righs” (tạm dịch: Đảm bảo quyền cho người bị buộc
tội theo điều 6 công ước châu âu về nhân quyền) của tác giả Stephanos
stavros (nhà xuất bản Sweet and maxwell, Anh quốc, năm 1993), trong đó
tập trung phân tích quyền tự bào chữa và quyền được nhờ người khác bào
chữa của người bị buộc tội. Cuốn sách “Criminal process and human
rights” (tạm dịch: Tố tụng hình sự và vấn đề quyền con người) của tập thể
5
tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của trường Đại học Luật tại Melbourne,
Australia, năm 2001 về các quyền con người nói chung và quyền bào chữa
của người bị buộc tội nói riêng, trong đó nhấn mạnh quyền được tiếp cận
người bào chữa, quyền được liên lạc với người bào chữa, quyền được có
người bào chữa miễn phí đối với nhóm người dễ bị tổn thương như người
chưa thành niên hoặc người khuyết tật….
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
1.2.1. Nhóm các công trình liên quan đến lý luận của chức năng
bào chữa trong tố tụng hình sự
Trong khoa học pháp lý, các vấn đề có liên quan đến cơ sở lý luận
của luận án đã có khá nhiều công trình, bài viết ở các cấp độ khác nhau
được công bố.
* Trước tiên phải kể đến nhóm các công trình khoa học nghiên cứu
lý luận về chức năng của TTHS, trong đó có chức năng bào chữa. Có thể kể
đến các công trình nghiên cứu như “Mô hình TTHS Việt Nam” do
VKSNDTC chủ trì soạn thảo trong Đề án về Mô hình TTHS Việt Nam
(năm 2010) ; Bài viết “Các chức năng của tố tụng hình sự và vấn đề hoàn
thiện mô hình TTHS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả PGS.TS Nguyễn
Thái Phúc ; Bài tham luận của tác giả TS. Đinh Thị Mai tại hội thảo khoa
học “Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay ” (năm 2015) ...
* Những công trình nghiên cứu về quyền con người trong mối quan
hệ với quyền bào chữa của người bị buộc tội :
* Các công trình nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của các chức
năng tố tụng hình sự: Bài viết “Bàn về chức năng buộc tội, bào chữa, xét
xử trong tố tụng hình sự” năm 2003 của tác giả Hoàng Thị Sơn; Báo cáo
tham luận của tác giả PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn tại Hội thảo khoa học
“ Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay ”(năm 2015) ...
* Các công trình nghiên cứu về tranh tụng cũng là nguồn tài liệu
hữu ích có liên quan đến cơ sở lý luận của luận án. Có thể kể đến luận án
6
tiến sĩ “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Hiển, năm 2010…
1.2.2. Nhóm các công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận án
* Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền bào chữa:
* Nhóm các công trình liên quan đến thực trạng, giải pháp hoàn
thiện chức năng bào chữa
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu
1.3.1. Các vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự
Trong các công trình nghiên cứu khoa học kể trên đã nêu lên được
khái niệm, vai trò, nội dung của chức năng bào chữa. Tuy nhiên: - Về cơ sở
quy định chức năng bào chữa : chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện
về nội dung này, một số rất ít công trình nghiên cứu về nguồn gốc, cơ sở
xuất hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. - Về khái niệm chức
năng bào chữa: vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau. - Về vai trò
của chức năng bào chữa : mới chỉ nêu lên một cách khái quát, chưa có sự
luận giải, phân tích; chưa đi sâu nghiên cứu về vai trò của chức năng bào
chữa. Các công trình nghiên cứu hầu như chưa có sự nhận thức mới về chức
năng bào chữa- là một trong ba chức năng cơ bản của TTHS. - Về nội dung
của chức năng bào chữa : mặc dù vẫn còn một vài quan điểm chưa thống
nhất về nội dung của chức năng bào chữa, nhưng hầu hết đều đã khẳng nội
dung của chức năng bào chữa chính là những hoạt động của chủ thể bào
chữa. - Về đặc điểm của chức năng bào chữa : vẫn chưa có công trình nào
khái quát được đặc điểm của chức năng bào chữa. - Về mối quan hệ giữa
các chức năng TTHS : Đa số các công trình nghiên cứu đều nêu lên được
mối quan hệ giữa các chức năng TTHS, đó là mối quan hệ giữa chức năng
buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Các chức năng này có
mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, việc phân tích mối quan hệ của chức năng bào chữa so với hai
chức năng còn lại trong TTHS vẫn chưa được nghiên cứu sâu sắc, cụ thể,
mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu khái quát, phân tích ngắn gọn...\
7
1.3.2. Về thực trạng của chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam
- Về thực trạng các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa :
Một số công trình nghiên cứu đã nêu lên khái quát sự ra đời của chức năng
bào chữa và chức năng bào chữa thể hiện trong các giai đoạn lịch sử nhất
định. Đặc biệt, chức năng bào chữa thể hiện trong BLTTHS 2015 thì chưa
có công trình nào viết và nghiên cứu về vấn đề này. Đối với các quy định về
chức năng bào chữa ở nước ngoài, một số công trình nghiên cứu ở ngoài
nước và trong nước đã nêu được khái quát quyền bào chữa, người bào
chữa… ở một số quốc gia như Nhật Bản, Pháp, Đức,… Tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu sâu rộng về chức năng bào chữa ở một số quốc
gia nhất định.
- Về thực trạng thực hiện chức năng bào chữa: Các công trình
nghiên cứu đều đã nêu lên được thực trạng thực hiện quyền bào chữa, thực
trạng hoạt động bào chữa của người bào chữa trong các giai đoạn TTHS
như trong giai đoạn điều tra, giai đoạn xét xử tại thời điểm áp dụng
BLTTHS 2003. Đa số đều chỉ ra thực trạng thực hiện quyền bào chữa như:
Thực trạng của việc cấp giấy chứng nhận bào chữa; Thực trạng trong việc thu
thập tài liệu, đồ vật, tình tiết của người bào chữa; Thực trạng trong việc luật sư
tiếp xúc với người bị buộc tội, bị can, bị cáo; Thực trạng của luật sư tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm, đặc biệt trong phần tranh luận, đối đáp với đại diện VKS…
Đa số các công trình đều viết về thực trạng thực hiện dưới góc độ quyền bào
chữa là chủ yếu. Rất ít các công trình viết về thực trạng hoạt động bào chữa của
người bào chữa, đặc biệt thực trạng của những người bào chữa khác như : bào
chữa viên nhân dân, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo rất hiếm. Đặc biệt,
chưa có công trình nào viết về thực trạng thực hiện chức năng bào chữa của
người bào chữa và người bị buộc tội theo BLTTHS 2015.
1.3.3. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực
hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Các công trình nghiên cứu đã nêu lên được một số biện pháp hoàn
thiện các quy định về quyền bào chữa, nâng cao hiệu quả hoạt động bào
8
chữa của người bào chữa. Ví dụ: Bổ sung một số quyền và cơ chế để bảo
đảm cho người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định;Mở rộng một số
quyền năng của người bào chữa như quyền thu thập chứng cứ…Quy định
trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành tố tụng phải tôn trọng kết
quả bào chữa, trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện quyền của người
bào chữa, biện pháp xử lý trong trường hợp vi phạm; Sửa đổi, bổ sung các
quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa nhanh chóng tham
gia tố tụng, tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án theo hướng đơn giản hóa
các thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa và các thủ tục tham gia bào
chữa…Tuy nhiên, việc đánh giá các quy định của BLTTHS 2015 về chức
năng bào chữa, những nội dung chưa hợp lý về chức năng bào chữa được
pháp điển hóa trong BLTTHS 2015 …thì chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu về vấn đề này. Từ đó, việc đưa ra các biện pháp nhằm bảo đảm
thực hiện chức năng bào chữa và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
chức năng bào chữa trong BLTTHS 2015 cũng chưa được nghiên cứu một
cách toàn diện.
1.3.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất : Luận án cần tiếp tục nghiên cứu một số vấn đề về lý
luận như : khái niệm chức năng bào chữa tuy đã đươc một số nhà nghiên cứu
trong nước sử dụng, đề cập nhưng lại chưa có sự thống nhất và chưa nghiên
cứu luận giải để đưa ra khái niệm và phân tích nội hàm của khái niệm này; Đặc
điểm của chức năng bào chữa trong TTHS cũng chưa có công trình nghiên cứu
khoa học nào đề cập đến.Vai trò của chức năng bào chữa được nhắc đến thông
qua vai trò của chức năng TTHS nói chung, do đó, vẫn chưa có sự khái quát và
phân tích sâu hơn về nội dung này. Một số vấn đề lý luận đã có công trình
nghiên cứu đề cập đến nhưng chưa có sự phân tích, luận giải chuyên sâu như:
Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS ; Sự tồn tại của chức
năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự được nhắc đến thông qua việc
phân tích chức năng TTHS trong các mô hình TTHS nhưng còn mờ nhạt; mối
quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử.
9
Thứ hai: Các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định cần được phân tích và luận giải sâu sắc hơn, đặc biệt là
việc đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về chức năng bào chữa.
Việc nghiên cứu thực trạng thực hiện chức năng bào chữa theo BLTTHS năm
2015 cần tiến hành trên cơ sở thu thập số liệu báo cáo từ các cơ quan tiến hành
tố tụng, liên đoàn luật sư Việt Nam và tiến hành khảo sát, phỏng vấn môt số
luật sư ở Hà Nội và địa phương.
Thứ ba: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp tổ chức thực
hiện chức năng bào chữa trong TTHS phù hợp với tình hình Việt Nam hiện nay
và phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo đảm thực hiện chức
năng bào chữa trong TTHS định hướng phát triển đến năm 2030.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự
2.1.1. Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
* Nhận thức về chức năng
Chức năng TTHS là một bộ phận hợp thành TTHS. Do đó, cần nhận
thức các chức năng của TTHS nói chung và chức năng bào chữa trong
TTHS nói riêng dựa trên nền tảng chức năng luận để luận giải sâu sắc hơn
vấn đề nghiên cứu.
* Khái niệm chức năng tố tụng hình sự
*Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Cơ sở hình thành chức năng bào chữa trong TTHS: Sự xuất hiện và
ra đời của chức năng bào chữa trong TTHS là một tất yếu khách quan. Có
thể nói, bản chất dân chủ, nhân văn của chế độ xã hội là cơ sở để xuất hiện
chức năng bào chữa trong TTHS. Bản chất của xã hội dân chủ cho thấy, nếu
có chức năng buộc tội thì phải có chức năng gỡ tội – bào chữa để đảm bảo
một sự vật, hiện tượng, một hành vi được đánh giá nhiều chiều khác nhau,
để xác định sự thật khách quan, không làm oan người vô tội; đồng thời,
10
đảm bảo tính công minh trong việc áp dụng pháp luật. Trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự, không phải lúc nào việc áp dụng pháp luật của các
cơ quan THTT cũng đúng và sự nhận thức về nội dung các điều luật không
phải lúc nào cũng được hiểu một cách thống nhất. Điều đó sẽ ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị buộc tội. Do vậy, chức
năng bào chữa xuất hiện với mục đích cao cả là bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền và lợi ích của người bị buộc tội; với mong muốn là quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội không bị vi phạm hoặc được khoan hồng
theo quy định cua pháp luật.
Dưới góc độ là chức năng tố tụng, chức năng bào chữa có phạm vi
rộng hơn và phức tạp hơn. Về mặt lý luận, chức năng pháp luật được phân
loại thành chức năng điều chỉnh và chức năng bảo vệ. “Chức năng bảo vệ
của hệ thống pháp luật được xác định bởi sự cần thiết trong việc bảo vệ
quan hệ xã hội, bảo vệ các lợi ích của công dân, của nhóm xã hội, của các
tầng lớp, giai cấp và toàn xã hội” [78, tr.108]. Đặc trưng cơ bản của các
quan hệ xã hội bảo vệ là ở trong phạm vi của các quan hệ đó các biện pháp
cưỡng chế nhà nước được áp dụng, trách nhiệm pháp lý được thực hiện.
Theo PGS.TS Võ Khánh Vinh, trong lĩnh vực các quan hệ TTHS, chức
năng bảo vệ của pháp luật thể hiện ở ba dạng của việc thực hiện trách
nhiệm: ở dạng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp bảo vệ, các biện pháp
phục hồi. Từ sự phân tích trên có thể thấy, chức năng bào chữa trong TTHS
thuộc chức năng bảo vệ. Chức năng bào chữa xuất hiện là một tất yếu khách
quan với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội, bảo vệ
chủ thể yếu thế trong xã hội trước những quyết định mang tính quyền lực
nhà nước và bảo đảm cho quyền của người bị buộc tội được thực thi trên
thực tế. Khía cạnh bảo vệ trong chức năng bào chữa được thể hiện ở chỗ chỉ
ra các phương án cho các hoạt động bào chữa, bảo vệ và việc thực hiện các
hoạt động này mang tính lợi ích chung, phòng ngừa các vi phạm pháp luật
đến từ những người tiến hành tố tụng, đặc biệt là các chủ thể buộc tội.
Để hiểu rõ hơn về chức năng bào chữa trong TTHS cần phải đặt nó
trong mối quan hệ với mục đích, nhiệm vụ của TTHS, nguyên tắc TTHS.
Về khái niệm chức năng bào chữa trong TTHS vẫn chưa có sự
thống nhất và hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau. Có thể thấy rằng, tố
11
-
tụng hình sự là tổng hợp hoạt động của nhiều nhóm chủ thể khác nhau như
cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, người bào chữa. Các chủ thể này khi
tham gia vào TTHS bị chi phối bởi nhiệm vụ và lợi ích khác nhau nên định
hướng hoạt động của họ cũng khác nhau. Hoạt động TTHS của các chủ thể
này có sự ràng buộc và liên kết với nhau bởi mục đích chung của TTHS và
mang tính thống nhất với nhau. Chức năng bào chữa là một trong các chức
năng cơ bản của TTHS, do đó, xuất phát từ cách tiếp cận chức năng TTHS
như đã phân tích ở trên, tác giả cho rằng “chức năng bào chữa là những
phương diện hoạt động mang tính định hướng lớn, cơ bản của tố tụng hình
sự được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho bên bị buộc tội khả năng đưa
ra chứng cứ và lý lẽ chống lại sự buộc tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, pháp nhân thương mại
phạm tội, giúp vụ án được giải quyết khách quan, toàn diện và đầy đủ”.
2.1.2. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
- Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự:
Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa cũng có những đặc thù nhất
định, với mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buôc
tội. Khác với chủ thể của quyền bào chữa, chủ thể thực hiện chức năng bào
chữa là: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Người bị buộc tội và
Người bào chữa.
Phạm vi của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự:
Chức năng bào chữa xuất hiện từ khi có người hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội bị buộc tội.
Thời điểm kết thúc chức năng bào chữa được xác định khi không
còn sự buộc tội. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi những căn cứ của
việc buộc tội không còn, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ
án thì chức năng bào chữa sẽ kết thúc sớm hơn. Hoặc trong trường hợp
phán quyết đã có hiệu lực pháp luật bị xem xét, giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì chức năng bào chữa lại xuất
hiện cho đến khi có một phán quyết có hiệu lực pháp luật mới.
- Nội dung của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự:
Nội dung của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự là bên bào
chữa sử dụng các quyền năng mà pháp luật cho phép bằng việc đưa ra
12
chứng cứ và lập luận nhằm mục đích chống lại hoặc bãi bỏ sự buộc tội;
giảm nhẹ TNHS cho bên bị buộc tội và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người bị buộc tội. Để thực hiện đươc điều đó, bên bào chữa phải thực hiện
hoạt động bào chữa, thông qua các quy định về quyền của người bào chữa
nhằm mục đích bảo vệ cho người bị buộc tội. Nội dung của các chức năng
cơ bản trong TTHS thể hiện ở các hoạt động của các chủ thể tương ứng
được pháp luật quy định. Nội dung của chức năng bào chữa trong TTHS thể
hiện ở những hoạt động của người bào chữa và người bị buộc tội mà pháp
luật TTHS quy định cho họ, nhằm góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Đặc thù về mặt nội dung của
chức năng bào chữa chính là đặc thù trong các hoạt động bào chữa của chủ
thể bào chữa nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội.
2.2. Vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các
chức năng cơ bản khác của tố tụng hình sự
2.2.1. Vai trò của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Thứ nhất: Chức năng bào chữa có vai trò trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Thứ hai: Sự tồn tại của chức năng bào chữa, chức năng buộc tội và
chức năng xét xử là yếu tố hợp thành và mang tính bản lề của TTHS, quyết
định mô hình TTHS và bị chi phối bởi mục đích, nguyên tắc TTHS.
2.2.2. Mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc
tội và chức năng xét xử
TTHS bao gồm ba chức năng cơ bản, đó là chức năng buộc tội,
chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Mỗi chức năng có vị trí, vai trò,
bản chất khác nhau, chủ thể thực hiện khác nhau, hoạt động đặc trưng khác
nhau và đặc biệt là giữa chúng có sự độc lập với nhau. Tuy vậy, giữa các
chức năng này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau, thống
nhất với nhau để đi đến mục đích cuối cùng là tìm ra được sự thật khách
quan của vụ án. Tùy vào giai đoạn tố tụng cụ thể, có những giai đoạn mà
nếu thiếu một trong ba chức năng cơ bản thì TTHS không thể vận hành tốt
được. Cho dù dưới mô hình tố tụng nào (xét hỏi, thẩm vấn, tranh tụng ...)
thì cả ba chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử vẫn luôn xuất hiện và tồn
13
tại. Mỗi một chức năng tồn tại, vận động vì sự tồn tại và vận động của hai
chức năng còn lại [4, tr.31].
2.3. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự và chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự
2.3.1. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự
Chức năng bào chữa trong TTHS được thực hiện thông qua hình
thức trực tiếp như: Tự thực hiện chức năng bào chữa, do chính người bị
buộc tội tự thực hiện hoặc hình thức gián tiếp đó là thực hiện chức năng bào
chữa thông qua sự giúp đỡ của người bào chữa (nhờ người bào chữa) và
bào chữa theo chỉ định. Tự thực hiện chức năng bào chữa và nhờ người bào
chữa có thể tiến hành song song hoặc chỉ một hình thức tuỳ thuộc vào ý
kiến của người bị buộc tội trong từng trường hợp cụ thể. Việc tự bào chữa
và nhờ người bào chữa có tác dụng bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Trường hợp
người bị buộc tội nhờ người bào chữa thì họ vẫn có quyền tự bào chữa để
bảo vệ quyền lợi cho mình.
2.3.2. Chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự
2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự
Yếu tố pháp luật:
Yêu tố con người và nhận thức:
Yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội:
Chương 3
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN CHỨC NĂNG BÀO
CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN
3.1. Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong
tố tụng hình sự
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chức năng bào chữa trong
tố tụng hình sự Việt Nam
14
Ở những giai đoạn đầu, sự ghi nhận và điều chỉnh pháp luật về chức
năng bào chữa trong TTHS rất mờ nhạt. Các nội dung về bào chữa nói
chung được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật như Sắc lệnh, Nghị
định… Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật về bào chữa rất ít và chưa cụ
thể, chỉ quy định chung chung về việc luật sư có quyền làm nhiệm vụ bào
chữa và bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình.
3.1.1.1 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam giai đoạn 1945-1987
3.1.1.2 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam giai đoạn 1988-2003
3.1.1.3 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
3.1.1.4. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới
(chương V) quy định các nội dung liên quan đến bào chữa nhằm bảo đảm
cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án. Cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và nhằm tạo điều kiện để người
bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định
một số nội dung mới.
a. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố
* Thời điểm tham gia tố tụng của NBC
* Hoạt động đăng ký bào chữa của NBC
Để được tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị can, bị cáo thì trong mọi trường hợp
NBC phải đăng kí bào chữa. Đây là quy định mới của BLTTHS năm 2015,
thay thế cho quy định cũ là làm thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào
chữa. BLTTHS 2015 quy định khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải
xuất trình các giấy tờ theo quy định như Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư….
Khi có đề nghị của người bị buộc tội, người đại diện, người thân thích của
15
người bị buộc tội về việc mời NBC thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án phải có trách nhiệm bảo đảm cho họ thực hiện quyền có NBC của mình.
* Các hoạt động bào chữa của NBC:
- Hoạt động gặp người bị buộc tội của người bào chữa:
Theo Điều 80 BLTTHS thì NBC được gặp, hỏi người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và
không hạn chế số lần gặp. NBC được chủ động trao đổi các vấn đề có liên quan
đến thân chủ của mình trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không
bắt buộc phải có mặt những người tiến hành tố tụng. Để gặp người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, NBC phải xuất trình văn
bản thông báo người bào chữa của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân
dân hoặc thẻ Căn cước công dân.
Sau khi kết thúc việc hỏi cung, NBC được quyền hỏi thân chủ của
mình. Việc hỏi này hoàn toàn chủ động từ phía NBC. NBC có thể hỏi các
nội dung có liên quan đến thân chủ và hành vi mà thân chủ đã thực hiện
trong vụ án…
- Quy định về đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế: Khi thấy bị can, bị cáo có đủ các điều kiện để được thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc biện pháp cưỡng chế thì NBC sẽ đề
xuất với cơ quan có thẩm quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp đang
được áp dụng với bị can, bị cáo. Ví dụ: đề nghị thay đổi biện pháp ngăn
chặn tạm giam sang các biện pháp khác ít nghiêm khắc hơn như cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm...
- Quy định đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng
khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Khi cần làm rõ các vấn đề có
liên quan đến người bị buộc tội, người bào chữa có thể đề nghị triệu tập
người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. NBC chỉ đề nghị triệu tập các đối tượng trên khi lời khai của
họ có lợi cho bị can, bị cáo và có lợi cho việc bào chữa, bảo vệ của người
bào chữa.
16
- Hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và đề nghị cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ: Khi làm nhiệm vụ
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo; NBC có thể phát hiện
ra các tài liệu mới, chứng cứ mới mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa phát
hiện được. Trong trường hợp này, NBC có quyền thu thập, kiểm tra, đánh
giá chứng cứ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu
thập chứng cứ, khi tài liệu, đồ vật đó có lợi cho bị can và không làm xấu đi
tình trạng của bị can. Chẳng hạn, đó là các chứng cứ chứng minh sự vô tội
của bị can hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà cơ
quan tiến hành tố tụng chưa thể hiện trong hồ sơ vụ án.
- Đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án:
*Hoạt động tự bào chữa của người bị buộc tội:
Người bị buộc tội thực hiện hoạt động tự bào chữa, bảo vệ thông qua
các quyền năng được quy định trong BLTTHS. BLTTHS 2015 đã có những
sửa đổi so với BLTTHS 2003, không những quy định cụ thể, rõ ràng hơn
mà còn mở rộng quyền của người bị buộc tội, giúp đảm bảo tính công bằng
trong việc thực thi pháp luật hình sự.
b. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn xét xử
So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 ghi nhận quyền bình đẳng của
NBC với những người tham gia tranh tụng tại phiên tòa một cách cụ thể
hơn. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, NBC,
những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của
mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Theo quy định của
BLTTHS năm 2015, thì thẩm quyền và vị thế của NBC khi tranh tụng tại
phiên tòa được nâng cao, NBC có quyền bình đẳng với đại diện Viện kiểm
sát trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu. Hội đồng xét xử phải lắng
nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự
thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia
phiên tòa thì hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án”.
3.1.2. Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của
một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
17
Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa
Liên bang Đức
Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của Hoa kỳ
Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của Trung Quốc
Kinh nghiệm đối với Việt Nam
3.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
3.2.1. Tình hình người bị buộc tội và người bào chữa tham gia
bào chữa trong các vụ án hình sự
Trên thực tế, vì những lí do khác nhau mà người bị buộc tội thường
tự mình thực hiện quyền bào chữa chứ không nhờ NBC bào chữa cho mình.
Bảng 3.1: Số vụ án có NBC tham gia ở giai đoạn xét xử sơ thẩm
Năm
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
6 tháng
đầu 2019
Tổng số
vụ án
XXST
60.433
51.705
57.009
65.974
67.153
66.676
59.866
61.918
57.872
58.587
26.846
Số vụ án
có NBC
tham gia
6.303
4.783
4.480
5.195
5.001
4.554
3.808
4.173
4.050
5.611
2.550
Tỷ lệ %
10.4%
9,2%
7,8%
7,8%
7,4%
6,8%
6,3%
6,7%
7.0%
9,5%
9,4%
Số vụ án
không có
NBC
54.130
46.922
52.529
60.779
62.152
62.122
56.058
57.745
53.822
52.976
24.296
Tỷ lệ %
89,6%
90,8%
92,2%
92,2%
92,6%
93,2%
93,7%
93,3%
93%
90,5%
90,6%
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
*Tình hình luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa vụ
án hình sự
Trong những năm gần đây, số lượng luật sư được khách hàng mời
tham gia bào chữa so với số luật sư chỉ định ngày càng tăng, chiếm tỷ lệ
nhiều hơn so với số luật sư bào chữa chỉ định. Điều đó cho thấy, nhu cầu
mời luật sư bào chữa của người bị buộc tội ngày càng cao, khẳng định được
vai trò và địa vị pháp lý của NBC nói chung và luật sư nói riêng trong tố
tụng hình sự.Việc người bị buộc tội mời luật sư bào chữa ngày càng tăng
18
chứng tỏ chất lượng bào chữa của NBC ngày càng nâng cao, tạo được sự tin
tưởng đối với người dân, xã hội nói chung và người bị buộc tội nói riêng.
Số lượng NBC nói chung và luật sư trên toàn quốc nói riêng ngày
càng tăng cao, đáp ứng được nhu cầu mời luật sư ngày càng nhiều hơn của
khách hàng. Đa số NBC tham gia vụ án với tinh thần trách nhiệm cao trước
khách hàng và trước pháp luật (kể cả các vụ án theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng). Các hoạt động nghề nghiệp của NBC như nghiên cứu hồ
sơ vụ án, gặp bị can, bị cáo, thu thập thêm chứng cứ, chuẩn bị luận cứ bào
chữa, bảo vệ, dự kiến kế hoạch hỏi, tham gia tranh tụng tại phiên toà đều
được NBC chuẩn bị chu đáo và cẩn thận. Thực tiễn thời gian qua cho thấy,
việc tham gia tố tụng của NBC không những bảo đảm tốt hơn quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách
quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt, với sự tham gia của NBC, phần lớn các vụ án đều
chứng minh được các căn cứ giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội, thậm
chí một số trường hợp còn chứng minh được sự không phạm tội của bị cáo
trong vụ án.
*Tình hình người bào chữa khác tham gia bào chữa trong các vụ
án hình sự
- Bào chữa viên nhân dân tham gia bào chữa trong vụ án hình sự:
- Đại diện của người bị buộc tội tham gia bào chữa trong vụ án hình sự:
- Trợ giúp viên pháp lý tham gia bào chữa trong vụ án hình sự:
3.2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào
chữa trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố
3.2.3. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bào chữa
trong giai đoạn xét xử
3.2.4. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa của người bị buộc tội
Trên thực tế, người bị buộc tội thực hiện chức năng bào chữa nhưng
gặp một số khó khăn nhất định. Những khó khăn này đến từ phía các cơ
quan THTT như: không cho người bị buộc tội trình bày hết ý kiến, lời khai,
hỏi cung vào ban đêm, vi phạm của cơ quan THTT ở các mức độ khác nhau
làm ảnh hưởng đến quyền của người bị buộc tội… Tại phiên tòa, người bị
19
buộc tội còn gặp một số khó khăn như: đưa ra yêu cầu nhưng không được
chấp nhận, khó tham gia tranh luận do không được tiếp cận hồ sơ vụ án,
nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử chậm nên không có thời gian
nghiên cứu để tự bào chữa. Những vi phạm của TAND trong việc bảo đảm
quyền bào chữa qua việc hỏi phiếu khảo sát đối với cán bộ VKS bao gồm:
Cấp GCNBC muộn so với quy định (42,3%); không đề nghị cử NBC trong
những vụ án bắt buộc (24,9%), hạn chế thời gian, phạm vi trình bày, tranh
luận (22,2%); không hoãn phiên tòa khi vắng mặt NBC theo chỉ định
(7,4%), từ chối cấp GCNBC không có lý do (7,4%) [68]…
Tuy nhiên, những khó khăn nêu trên cũng bắt nguồn chủ yếu từ phía
người bị buộc tội. Do khả năng và trình độ hiểu biết pháp luật của họ còn
hạn chế nên họ không nhận thức được các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình để tự bảo vệ. Thậm chí, có bị can còn không hiểu rõ thuật ngữ pháp lý
hay nội dung của bản cáo trạng. “Tại phiên tòa, các bị cáo không có luật sư bào
chữa thì thường là không tham gia tranh luận, không biết phải đối đáp với đại
diện VKS như thế nào về tội danh, khung hình phạt, về mức án mà VKS đề
nghị. Trong một số trường hợp, có tranh luận với VKS thì cũng chỉ là những lý
luận thông thường, không có yếu tố pháp lý trong tranh luận…” [68].
3.2.5. Nguyên nhân của những hạn chế trong thưc tiễn thực hiện
chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
3.2.5.1. Bất cập trong quy định của pháp luật về chức năng bào chữa
3.2.5.2. Nguyên nhân khác
Từ phía cơ quan tiến hành tố tụng; - Từ phía người bào chữa; - Từ
phía người bị buộc tội: - Từ nhận thức của xã hội:
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHỨC
NĂNG BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
- Quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước về nâng cao chất
lượng tranh tụng và tăng cường tranh tụng tại phiên tòa:
- Quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước về nâng cao vai trò
của người bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội:
20
- Phương hướng hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện chức
năng bào chữa trong tố tụng hình sự:
+ Để nâng cao hiệu quả của chức năng bào chữa, tạo được vị thế
mới của NBC và bảo đảm được quyền của người bị buộc tội thì việc hoàn
thiện pháp luật là điều không thể thiếu. Việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật phải đảm bảo được những tiêu chí chung trong việc thưc hiện
chính sách hình sự, mục đích của TTHS, đồng thời phải có những tiêu chí
riêng để bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trên thực tế. BLTTHS năm
2015 đã thể hiện bước tiến bộ quan trọng so với BLTTHS năm 2003 trong
việc hoàn thiện pháp luật, trong đó có các quy định liên quan đến chức năng
bào chữa, bảo đảm các quyền của NBC cũng như người bị buộc tội…
+ Để hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự thì một trong những nội dung quan trọng là phải đổi
mới vê tư duy nhận thức. Việc đổi mới nhận thức về các chức năng TTHS
nói chung và chức năng bào chữa trong TTHS nói riêng cần đánh giá đúng
vị trí, vai trò, ý nghĩa của các chức năng TTHS cũng như cần xem xét tổng
thể các yếu tố hợp thành TTHS. Mục đích của bất kỳ hệ thống TTHS nào
cũng đều phải thực hiện được cùng lúc hai nhiệm vụ: vừa phải xác định
được sự thật của vụ án, bảo đảm công lý được thực thi nhưng lại vừa phải
làm thế nào để trên con đường đi tìm sự thật và công lý đó thì quyền của tất
cả các bên liên quan đều phải được tôn trọng và bảo vệ [27, tr.113]. Mục
đích của chức năng bào chữa không chỉ là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội mà cao hơn là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, bảo vệ pháp chế và trật tự công bằng xã hội.
+ Chức năng bào chữa là một chức năng cơ bản của TTHS nên cần
phải được xây dựng đồng bộ với chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Việc
hoàn thiện pháp luật về chức năng bào chữa trong TTHS phải thống nhất,
không được mâu thuẫn với các chức năng cơ bản khác của TTHS, bởi đây là
các chức năng cơ bản của TTTS có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
+ Hoàn thiện mô hình TTHS
4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam
4.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến chức
21
năng bào chữa trong tố tụng hinh sự
Thứ nhất: Về các quyền của NBC và việc bảo đảm thực hiện chức
năng bào chữa
Đề nghị bổ sung và chỉnh sửa một số quyền của NBC:
- Bổ sung quyền được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình nhận bào chữa (quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, cáo
trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với
bị can, bản Kết luận điều tra)cũng như các văn bản về sự thay đổi trình tự tố
tụng hình sự.
- Chỉnh sửa Quyền chủ động đề xuất người làm chứng cũng như
triệu tập những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa.
-Đề nghị bổ sung quy định không hạn chế thời gian gặp mặt của
người bào chữa.
- Quy định người bào chữa được tham gia vào một số hoạt động điều
tra chưa cụ thể nên chưa tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong quá trình tham
gia tố tụng. Vì vậy, chương về các hoạt động điều tra cần quy định cụ thể
quyền và nghĩa vụ của NBC khi tham gia vào các hoạt động điều tra, các
quy định để đảm bảo cho người bào chữa có thể tham gia theo đúng quy
định pháp luật mà không bị gây khó khăn từ các CQTHTT, chữ ký của
người bào chữa vào các biên bản điều tra … Có như vậy thì các quyền của
người bào chữa mới có cơ chế cụ thể để thực hiện, tránh hình thức khi thực
hiện chức năng bào chữa. Cụ thể:
- Đề nghị quy định rõ ràng, cụ thể quyền sao chụp hồ sơ, tài liệu
của vụ án ở các giai đoạn tố tụng của NBC vì mặc dù BLTTHS quy định về
vấn đề này nhưng thực tiễn các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra nhiều lý do
để hạn chế NBC thực hiện quyền này như không cho phép NBC dùng máy
ảnh để sao chụp hồ sơ, tài liệu, hay có yêu cầu vô lý như yêu cầu NBC kê
khai những tài liệu cần sao chụp để xem xét, quyết định.
- Quy định NBC có quyền thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan đến việc bào chữa từ cơ quan, tổ chức, cá nhân rất khó được thực hiện
trong thực tế do BLTTHS năm 2003 và BLTTHS 2015 không quy định về
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cơ quan, tổ chức khi được yêu cầu. Vì vậy,
đề nghị bổ sung quy định tại Điều 81 BLTTHS như sau“Các cơ quan tổ
22
chức, cá nhân lưu giữ tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa
có trách nhiệm cung cấp cho người bào chữa khi có yêu cầu”. Đồng thời,
đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ của cơ quan, tổ chức
trong việc cung cấp tài liệu cho NBC và chế tài xử lý đối với những hành vi
can thiệp, cản trở NBC thực hiện quyền thu thập chứng cứ. Người làm chứng,
tổ chức và cá nhân có liên quan được yêu cầu có trách nhiệm phải phối hợp với
NBC; NBC có thể đến nơi giam giữ để điều tra, thu thập chứng cứ từ phía
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, hoặc có thể yêu cầu họ ra Tòa làm chứng. Cơ
quan giam giữ phải đảm bảo cho những người nói trên tiếp nhận yêu cầu điều
tra, thu thập chứng cứ và ra tòa làm chứng từ phía NBC.
- BLTTHS năm 2015 vẫn chưa có quy định thống nhất khi NBC
gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam thì được gặp riêng hay gặp với sự có
mặt của giám thị trại giam. Trên thực tế, trong giai đoạn điều tra, ở một số
địa phương khi NBC gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam bao giờ cũng
phải được sự đồng ý của điều tra viên hoặc bắt buộc phải có ĐTV đi cùng.
Để tạo điều kiện cho người bào chữa làm việc có hiệu quả, chúng tôi cho
rằng nên bổ sung quy định tại Điều 80 BLTTHS như sau: 1)“Người bào
chữa có quyền gặp riêng người bị buộc tội trong nhà tạm giữ hoặc trại tạm
giam mà không cần có mặt người tiến hành tố tụng hoặc giám thị trại
giam”;2) “Thông tin trao đổi giữa NBC và người bị buộc tội cần được bảo
mật và không bị kiểm soát về nội dung cuộc trao đổi”.
4.2.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về chức năng
bào chữa trong tố tụng hình sự
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đề tài luận án “Chức năng bào chữa trong TTHS Việt
Nam”, trong điều kiện nghiên cứu rộng và phức tạp, tác giả luận án đã đạt
được một số kết quả khiêm tốn. Đây là một trong những đề tài mang tính lý
luận và thực tiễn cao. Mặc dù vấn đề bào chữa đã được nhiều tác giả nghiên
cứu dưới góc độ quyền bào chữa, nguyên tắc bào chữa nhưng dưới góc độ
là chức năng bào chữa thì rất it công trình nghiên cứu đề cập đến. Tác giả
luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chức năng bào chữa trong
tố tụng hình sự Việt Nam như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của chức năng
23