Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

người bào chữa trong tố tụng hình sự việt nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.47 KB, 103 trang )

Lời nói đầu
Quyền bào chữa là một quyền dân chủ trọng yếu của công dân. Để đảm bảo
cho ngời bị buộc tội thực hiện một cách có hiệu quả nhất quyền bào chữa của
mình thì cần thiết phải cho phép họ đợc nhờ ngời khác bào chữa cho họ. Chính vì
vậy mà ngay sau khi Chính quyền cách mạng đợc thành lập, ngày 10/10/1945 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 46/SL trong đó qui định tạm thời duy trì các
tổ chức luật s của chế độ cũ nhằm kịp thời bảo đảm quyền bào chữa cho ngời bị
buộc tội. Và ngay cả trong những giai đoạn đất nớc phải trải qua cuộc kháng
chiến khốc liệt Nhà nớc ta vẫn luôn quan tâm tới việc duy trì các tổ chức luật s,
bào chữa viên nhân dân để làm nhiệm vụ bào chữa và bảo vệ quyền lợi cho ngời bị
buộc tội. Tuy rằng phải đến khi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988 đợc
ban hành thì vị trí, vai trò của ngời bào chữa mới chính thức đợc ghi nhận về mặt
lập pháp, nhng lịch sử tố tụng hình sự của nhà nớc ta nói riêng và trên thế giới nói
chung đã khẳng định vai trò to lớn của ngời bào chữa đối với việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân cũng nh đối với việc bảo đảm dân chủ trong hoạt
động tố tụng hình sự và quá trình giải quyết vụ án hình sự. Và có thể khẳng định
rằng các thế hệ ngời Việt Nam trớc đây cũng nh ở hiện tại và trong tơng lai sẽ
không thể quên vụ án Tống Văn Sơ (Nguyễn ái Quốc) ở Hồng Kông năm 1931
với sự giúp đỡ của luật s F.H Loseby và các cộng sự của ông.
Tuy vậy trong thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam trớc đây cũng nh hiện nay
vẫn tồn tại những đánh giá sai lệch về vai trò của ngời bào chữa trong tố tụng hình
sự. Nguyên nhân chủ yếu là do pháp luật tố tụng cha tạo cho ngời bào chữa một
cơ sở pháp lý cần thiết để họ phát huy vai trò của mình. Và khi đó sự cho phép ng-
ời bị buộc tội quyền đợc nhờ ngời khác bào chữa sẽ trở thành vô nghĩa, có chăng
thì chỉ là sự thể hiện tính dân chủ về hình thức. Xuất phát từ sự nhìn nhận một
cách đúng đắn về vai trò của ngời bào chữa và với chủ trơng nâng cao chất lợng
tranh tụng tại phiên toà cũng nh nâng cao chất lợng của hoạt động tố tụng hình sự,
Nhà nớc ta đã chủ trơng tạo điều kiện thuận lợi để ngời bào chữa phát huy vai trò
1
của mình. Chủ trơng đó đã đợc thể chế thông qua các qui định trong BLTTHS
năm 2003 về ngời bào chữa.


Để có thể đa ra nhận xét, đánh giá về giá trị thực tiễn của các qui định
trong BLTTHS năm 2003 về ngời bào chữa, từ đó đa ra các ý kiến đóng góp vào
quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng thì nhất thiết phải có sự nghiên cứu một
cách kỹ lỡng những vấn đề lý luận chung về ngời bào chữa, thực tiễn hoạt động
của ngời bào chữa cũng nh các qui định của pháp luật tố tụng liên quan đến ngời
bào chữa.
Từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài Ngời bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn để làm khoá luận tốt nghiệp.
Những vấn đề đợc nghiên cứu trong khoá luận bao gồm:
- Khái niệm ngời bào chữa trong tố tụng hình sự;
- Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngời bào chữa trong tố tụng hình
sự
- Khái quát quá trình hình thành và phát triển chế định về ngời bào chữa
trong tố tụng hình sự ở Việt Nam;
- Quyền, nghĩa vụ của ngời bào chữa và các bảo đảm về mặt lập pháp để
ngời bào chữa thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật hiện hành;
- Thực trạng hoạt động của ngời bào chữa và các kiến nghị nhằm nâng cao
vai trò và hiệu quả hoạt động của ngời bào chữa.
Những nội dung trên đợc sắp xếp thành ba chơng:
Chơng I: Những vấn đề chung về ngời bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam.
Chơng II: Địa vị pháp lý của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự theo pháp
luật hiện hành.
Chơng III: Vấn đề nâng vai trò và hiệu quả hoạt động của ngời bào chữa
trong tố tụng hình sự.
2
Chơng I: Những vấn đề chung về ngời bào chữa
trong tố tụng hình sự việt nam
1.1- Khái niệm ngời bào chữa:
Trong BLTTHS năm 1988 cũng nh trong BLTTHS năm 2003 đều không ghi

nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm ngời bào chữa. Do vậy hiện nay trong
khoa học luật tố tụng hình sự tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm ng-
ời bào chữa. Nhìn chung các quan điểm đều dựa vào các qui định của BLTTHS để
đa ra khái niệm ngời bào chữa.
Quan điểm 1: Ngời bào chữa là ngời tham gia tố tụng với mục đích làm
sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý
cần thiết
(1)
.
Quan điểm 2: Ngời bào chữa trong tố tụng hình sự là ngời tham gia tố tụng
để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của ngời bị buộc
tội, giúp ngời bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Là ngời giúp
đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết về vụ án để cuối cùng Toà án ra
một bản án có căn cứ và đúng pháp luật
(2)
.
Quan điểm 3: Ngời bào chữa là ngời tham gia tố tụng theo yêu cầu của bị
can, bị cáo, của cơ quan tiến hành tố tụng (nếu thuộc trờng hợp bắt buộc) hoặc
theo yêu cầu của những ngời thân thích của bị can, bị cáo để bảo vệ các lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo đồng thời giúp cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong quá trình tố tụng
(3)
.
Quan điểm 4: Ngời bào chữa là ngời đợc ngời bị tạm giữ, bị can, bị
(
Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt nam, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, 2001,tr. 153.
(2) Trần Văn Bảy- Ngời bào chữa trong TTHS, Tạp chí Khoa học pháp lý-Đại học Luật TP

HCM,số 1/2001.
(3) Nguyễn Ngọc Điệp -Tìm hiểu luật tố tụng hình sự Việt nam, Nxb Công an nhân dân, tr. 34.
3
cáo, ngời đại diện hợp pháp của họ, những ngời khác đợc ngời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo uỷ quyền mời hay đợc cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật s phân
công Văn phòng luật cử hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức
thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm
làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho ng-
ời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý
(1)
.
Quan điểm 5: Ngời bào chữa là ngời tham gia tố tụng với nhiệm vụ và mục
đích là làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh cho sự vô tội hoặc
làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp ngời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của họ
(2)
.
Mặc dù các quan điểm trên đều dựa trên cơ sở các qui định của BLTTHS để
đa ra định nghĩa về ngời bào chữa, tuy nhiên với cách tiếp cận khác nhau nên mỗi
quan điểm hoặc nhấn mạnh ở một số dấu hiệu của ngời bào chữa hoặc mang tính
liệt kê các qui định của BLTTHS mà cha có sự khái quát.
Việc xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh về ngời bào chữa có ý nghĩa quan
trọng trong khoa học luật tố tụng hình sự. Để có thể đa ra khái niệm về ngời bào
chữa một cách khái quát nhng vẫn thể hiện đầy đủ các dấu hiệu đặc trng của ngời
bào chữa thì việc xác định các dấu hiệu của ngời bào chữa là điều cần thiết.
Trên cơ sở các qui định của BLTTHS có thể nhận thấy các dấu hiệu đặc tr-
ng của ngời bào chữa nh sau:
Một, Ngời bào chữa trong tố tụng hình sự là ngời tham gia tố tụng.
Dấu hiệu này đã đợc khẳng định trong BLTTHS (ngời bào chữa cùng với

ngời bị tạm giữ; bị can; bị cáo; ngời bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự;
ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngời làm chứng; ngời bảo vệ
quyền lợi của đơng sự; ngời giám định; ngời phiên dịch đợc qui định tại Chơng IV
BLTTHS năm 2003- Chơng qui định chung về ngời tham gia tố tụng).
(
Đinh Văn Quế, Về chế định ngời bào chữa, Tạp chí Toà án nhân dân số 3 (2/2004).
(2) Bình luận khoa học BLTTHS Việt Nam năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2004, tr. 131.
4
Dấu hiệu này cho phép phân biệt ngời bào chữa với những ngời tiến hành tố
tụng (gồm:Thủ trởng, Phó thủ trởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trởng,
Phó viện trởng Viện kiếm sát, Kiểm soát viên; Chánh án, Phó chánh án Toà án,
Thẩm phán, Hội thẩm, Th ký toà án), những ngời trong các cơ quan hỗ trợ t pháp
(gồm: lực lợng cảnh sát bảo vệ phiên toà, dẫn giải ngời làm chứng đến phiên toà,
áp giải bị cáo đến phiên toà, thi hành bản án tử hình, thi hành bản án phạt tù;
những ngời trong các cơ sở y tế chuyên khoa thực hiện các quyết định của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc bắt buộc chữa bệnh đối với bị can, bị cáo; những
ngời làm việc trong các Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngời bị
kết án sống hay làm việc thực hiện việc giám sát, theo dõi, giúp đỡ ngời bị kết án
thi hành bản án không phải tù giam v.v) và những ngời khác đợc các cơ quan tiến
hành tố tụng mời (nh ngời chứng kiến trong một số hoạt động điều tra hoặc đại
diện cơ quan tổ chức khi khám xét nơi làm việc của ngời phạm tội, khám th tín,
điện tín, bu kiện, bu phẩm tại bu điện v.v.)
(1)
.
Hai, ngời bào chữa tham gia tố tụng hình sự với nghĩa vụ và mục đích là
để làm sáng tỏ những tình tiết xác định ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội,
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp ngời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ.
Dấu hiệu này cho phép xác định rõ nhiệm vụ, mục đích tham gia tố tụng

hình sự của ngời bào chữa và cũng đã đợc cụ thể hoá trong BLTTHS. Theo qui
định của BLTTHS năm 2003 ngời bào chữa đợc tham gia tố tụng từ khi có
quyết định tạm giữ (Đây là kiến nghị của nhiều luật gia trớc khi BLTTHS năm
2003 đợc ban hành và đã đợc các nhà làm luật ghi nhận ). Nh vậy phạm vi đối t-
ợng bảo vệ của ngời bào chữa hiện nay bao gồm ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
(BLTTHS 1988 qui định đối tợng bảo vệ của ngời bào chữa chỉ gồm bị can, bị
cáo). Về vấn đề phạm vi đối tợng bảo vệ của ngời bào chữa cũng có nhiều ý kiến
(
Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt nam, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội- 2001,tr. 107.
5
khác nhau. Theo TS-LS Phạm Hồng Hải, đối tợng bảo vệ của ngời bào chữa là
ngời bị buộc tội bao gồm: ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời bị kết án vì họ là
đối tợng bị buộc tội ở các giai đoạn khác nhau của vụ án
(1)
. ý kiến khác cho rằng
đối tợng bảo vệ của ngời bào chữa chỉ là bị can, bị cáo vì chỉ hai dạng ngời này
mới là ngời bị buộc tội
(2)
. Mặc dù giai đoạn thi hành án cũng đợc coi là một giai
đoạn trong tố tụng hình sự và chịu sự điều chỉnh của BLTTHS, tuy nhiên với
những qui định của BLTTHS hiện hành về quá trình thi hành án thì cha đủ cơ sở
để khẳng định ngời bị kết án cũng là đối tợng bảo vệ của ngời bào chữa.
Ba, ngời bào chữa chỉ có thể tham gia tố tụng khi đáp ứng đủ các điều
kiện do pháp luật qui định.
Không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia tố tụng hình sự với t cách là ngời
bào chữa vì theo qui định của BLTTHS hiện hành ngời bào chữa chỉ có thể là Luật
s; ngời đại diện hợp pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân
dân với điều kiện là: 1- Phải đợc ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; ngời đại diện hợp
pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những ngời khác đợc họ uỷ quyền mời

hoặc đợc cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật s phân công Văn phòng luật
s cử hoặc đề nghị ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt
trận cử để bào chữa cho bị can, bị cáo nếu vụ án thuộc trờng hợp bắt buộc phải có
ngời bào chữa nhng bị can, bị cáo không mời ngời bào chữa hoặc ngời đại diện
hợp pháp của bị can, bị cáo không bào chữa cho bị can, bị cáo và cũng không mời
ngời bào chữa họ. Và 2- họ phải không thuộc một trong những trờng hợp những
ngời không đợc bào chữa. Ngoài ra để trở thành ngời bào chữa trong tố tụnh hình
sự họ còn cần phải thoả mãn điều kiện về thủ tục là phải đợc cơ quan tiến hành tố
tụng chấp nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận bào chữa.
Đó là những điều kiện do BLTTHS qui định. Ngoài ra để trở thành ngời
bào chữa thì luật s; ngời đại diện hợp pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào
(
Xem: Phạm Hồng Hải, Bảo đảm quyền bào chữa cho ngời bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 1999
(2) Xem: Hoàng Thị Sơn, Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa cho ngời bị
buộc tội, Tạp chí Luật học số 5/2000.
6
chữa viên nhân dân phải đáp ứng các điều kiện khác do các văn bản pháp luật
khác qui định, chẳng hạn Luật s phải đáp ứng các điều kiện do Pháp lệnh luật
s năm 2001 và các văn bản hớng dẫn qui định; ngời đại diện hợp pháp của ngời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo phải đáp ứng các qui định của Bộ luật dân sự năm 1995 về
đại diện; còn bào chữa viên nhân dân thì cho đến nay vẫn cha có một văn bản
pháp luật nào qui định.
Trên cơ sở phân tích các dấu hiệu đặc trng của ngời bào chữa theo qui định
của BLTTHS hiện hành có thể đa ra một định nghĩa khái quát về ngời bào chữa
trong tố tụng hình sự nh sau: Ngời bào chữa trong tố tụng hình sự là ngời đáp
ứng đủ các điều kiện do pháp luật qui định tham gia tố tụng hình sự với nghĩa
vụ và với mục đích là làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án chứng minh ngời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội hoặc những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của họ và giúp họ về mặt pháp lý cần thiết khác để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.2 -Vị trí, vai trò của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự.
1.2.1- Vị trí của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự.
Để ngời bào chữa phát huy đợc vai trò thì nhất thiết họ phải có một vị trí
xứng đáng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Tuy nhiên trong thực tiễn tố tụng hình sự nớc ta không phải lúc nào ngời
bào chữa cũng đợc coi trọng, thậm chí đôi khi họ còn bị gạt ra khỏi quá trình giải
quyết vụ án. Nguyên nhân khách quan của hiện tợng này là do pháp luật tố tụng
hình sự cha dành cho họ một vị trí xứng đáng trong hoạt động tố tụng hình sự nên
với thiết chế và thủ tục tố tụng hình sự của nớc ta họ không thể phát huy triệt để
vai trò của mình. Đồng thời pháp luật tố tụng cũng cha qui định cụ thể nghĩa vụ
của các chủ thể tiến hành tố tụng cũng nh của các chủ thể khác để bảo đảm thuận
lợi cho ngời bào chữa thực hiện các quyền tố tụng của mình do vậy mà họ khó có
thể thực hiện nhiệm vụ của họ một cách có hiệu quả. Thực tiễn đã chứng minh dù
yêu cầu, khiếu nại của ngời bào chữa là có căn cứ và đúng pháp luật nhng vẫn
7
không đợc các chủ thể có thẩm quyền xem xét giải quyết một cách thoả đáng
thậm chí còn bị bỏ quên mà không có một lý do nào đợc đa ra từ phía các chủ thể
có trách nhiệm giải quyết và dù quan điểm của ngời bào chữa về đờng lối giải
quyết vụ án là có cơ sở và thuyết phục nhng không đợc Hội đồng xét xử quan tâm
và cũng không đợc phản ánh trong bản án mà nó chỉ có giá trị trong giới khoa
học, trong d luận xã hội. Nguyên nhân chủ quan từ phía các chủ thể tiến hành tố
tụng đó là các biểu hiện chuyên quyền, không tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật tố
tụng, nhìn nhận sai lệch về vai trò của ngời bào chữa cho rằng sự tham gia của ng-
ời bào chữa sẽ gây cản trở, khó khăn cho các chủ thể tiến hành tố tụng trong các
hoạt động điều tra, trong việc bảo vệ bản cáo trạng; là nhằm chống lại các chủ thể
tiến hành tố tụng - chống lại Nhà nớc, bảo vệ hành vi nguy hiểm cho xã hội, bảo
vệ kẻ phạm tội nên tồn tại tâm lý không muốn sự tham gia của ngời bào chữa. Về
phía xã hội khi chứng kiến thực tiễn ngời bào chữa không thể hiện đợc vai trò
quan trọng cũng nh không khẳng định đợc vị trí của mình trong hoạt động tố tụng

hình sự cùng với quan niệm cho rằng quá trình giải quyết vụ án hình sự ở nớc ta
trải qua các khâu rất chặt chẽ nên ngời bào chữa không thể có cơ hội để đa vụ án
theo hớng có lợi cho những ngời bị buộc tội vì vậy mà xuất hiện tâm lý không cần
thiết phải mời ngời bào chữa, nhất là mời luật s vừa không mang lại kết quả gì vừa
tốn kém tiền của. Về phía ngời bào chữa đôi khi vẫn có ngời không thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình, không tận tâm với công việc,vô trách nhiệm với ngời đợc
mình bảo vệ thậm chí nhận bào chữa chỉ vì lợi ích cá nhân nên thay vì làm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho đối tợng đợc mình bảo vệ thì họ lại trở thành ngời buộc
tội thứ hai hoặc làm tăng trách nhiệm hình sự của đối tợng đợc họ bảo vệ. Vì vậy
tự họ đã không thể hiện đợc vai trò quan trọng cũng nh không khẳng định đợc vị
trí của mình trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng và trong hoạt động xã hội nói
chung.
Mặc dù còn tồn tại những cách nhìn nhận sai lệch về vị trí của ngời bào
chữa nhng lịch sử tố tụng hình sự của thiết chế nhà nớc dân chủ đã chứng minh sự
tham gia của ngời bào chữa vào quá trình giải quyết vụ án hình sự là đòi hỏi
8
khách quan để đảm bảo dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng và
trong xã hội nói chung bởi sự tham gia của ngời bào chữa sẽ tạo ra một sự kiềm
chế, đối trọng cần thiết đối với các chủ thể tiến hành tố tụng đảm bảo cho việc
giải quyết vụ án hình sự đợc đúng đắn, hạn chế sự vi phạm quyền lợi của ngời bị
buộc tội.
Và không phải vì ý muốn chủ quan mà các nhà cầm quyền trong các nhà
nớc dân chủ Hy lạp cổ đại đã cho phép ngời bị buộc tội quyền đợc nhờ ngời thân
thuộc của mình bào chữa trớc toà án- cho phép ngời bào chữa tham gia vụấn hình
sự , tuy rằng khi đó sự tham gia của ngời bào chữa chỉ xuất hiện từ sự nhiệt tình
vì sự thật và công lý
(1)
nhằm minh oan cho bạn bè hoặc ngời thân bị giai cấp
thống trị bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách độc đoán
(2)

. Nhng đó là một biểu
hiện của thiết chế dân chủ và nó xuất phát từ quyền lợi của nhân dân bị áp bức
nên nhân dân đồng tình ủng hộ và dần dần thu hút nhiều ngời tham gia bào chữa
trớc toà
(3)
đồng thời đó cũng là một hình thức đấu tranh của nhân dân với giai
cấp thống trị lúc đó
(4)
. Cũng không phải ngẫu nhiên mà bản Hiến pháp đầu tiên
của Nhà nớc ta đã qui định ngời bị cáo đợc quyền tự bào chữa lấy hoặc mợn luật
s
(5)
, qui định này vẫn tiếp tục đợc duy trì trong các bản Hiến pháp sau này và đợc
cụ thể hoá trong các văn bản luật. Và trong mọi hoàn cảnh của đất nớc dù chiến
tranh hay hoà bình với nhiều nhiệm vụ quan trọng, khó khăn Nhà nớc ta vẫn luôn
quan tâm tới việc bảo đảm quyền bào chữa của ngời bị buộc tội để bảo vệ quyền
lợi của họ với sự tham gia của ngời bào chữa.
Nh vậy ngời bào chữa phải có một vị trí nhất định trong hoạt động tố tụng.
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành qui định ngời bào chữa là một trong những
ngời tham gia tố tụng- những ngời có quyền, lợi ích cần đợc bảo vệ trớc pháp
luật hoặc những ngời có nghĩa vụ pháp lý phải tham gia vào việc giải quyết vụ án
hình sự theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự và những ngời khác tham gia
(
1),(4) Giáo trình luật tổ chức Viện kiểm sát, Toà án, công chứng luật s, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội-
1998.
(2), (3) ) Phan Hữu Th (chủ biên), Kỹ năng hành nghề luật s, Nxb Công an nhân dân, tập 1, tr. 9.
(5) Xem Điều 67 Hiến pháp năm 1946.
9
để đảm bảo công lý
(1)

bao gồm: ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, ngời làm chứng, ngời bào chữa. Trong khoa học luật tố tụng hình sự ngời bào
chữa đợc xếp vào nhóm những ngòi tham gia tố tụng để bảo đảm công lý
(2)
hoặc
nhóm những ngòi tham gia tố tụng để giúp đỡ ngời có quyền và lợi ích liên quan
(3)
bao gồm ngời bào chữa và ngời bảo vệ quyền lợi của đơng sự. Tuy nhiên quan
điểm cho rằng ngời bào chữa là ngòi tham gia tố tụng để bảo đảm công lý phản
ánh đợc đầy đủ hơn chức năng, nhiệm vụ, vai trò của ngời bào chữa trong tố tụng
hình sự vì ngời bào chữa tham gia tố tụng không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn giúp các cơ quan, ngời tiến hành
tố tụng làm rõ những tình tiết liên quan đến vụ án, tránh đợc những sai lầm có thể
mắc phải trong quá trình giải quyết vụ án, mặt khác ngời bào chữa còn giúp những
ngời tham gia tố tụng khác những mặt pháp lý cần thiết
(4)
.

Để làm rõ hơn về vị trí của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự cần đặt ngời
bào chữa trong mối quan hệ với các cơ quan, ngời tiến hành tố tụng; với ngời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và với những ngời tham gia tố tụng khác.
Trong quan hệ với Cơ quan điều tra, sự có mặt của ngời bào chữa trong
các hoạt động điều tra không hề gây cản trở cho hoạt động đúng đắn của các Điều
tra viên. Bởi lẽ ngời bào chữa không đợc phép xoá bỏ các dấu vết về vụ án nhằm
che giấu hành vi của ngời đang bị điều tra, tạo dựng các chứng cứ nhằm mục đích
gỡ tội cho họ, vì ngời bào chữa có nghĩa vụ phải tôn trọng sự thật, không đợc phép
mớm cung cho ngời đang bị điều tra, mua chuộc, cỡng ép hoặc xúi giục ngời khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật
(1)

. Đồng thời ngời bào chữa có trách
nhiệm phải giao cho Cơ quan điều tra những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án
mà mình thu thập đợc khi vụ án đang trong quá trình điều tra
(2)
. Quá trình điều tra
(
1),(2) Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Sđ d, tr. 131,132,133
(3) Đinh Văn Quế, Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội- 2001.
(4) Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Sđd, tr. 152, 153.
(
Xem Điều 58 khoản 3, điểm d BLTTHS năm 2003.
(2) Xem Điều 58 khoản 3, điểm a BLTTHS năm 2003.
10
vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra luôn phải tuân thủ thời hạn luật định do
vậy rất dễ dẫn đến sự vi phạm pháp luật của các Điều tra viên để bảo đảm hoàn
thành điều tra đúng thời hạn, ngoài ra sự vi phạm pháp luật của Điều tra viên cũng
có thể do các nguyên nhân khác chẳng hạn vì lợi ích cá nhân. Trong những tr-
ờng hợp đó sự tham gia của ngời bào chữa sẽ có tác dụng hạn chế đến mức tối đa
sự vi phạm pháp luật có thể có từ phía Điều tra viên. Sự có mặt của ngời bào chữa
khi lấy lời khai của ngời bị tạm giữ hoặc hỏi cung bị can sẽ tạo thuận lợi cho các
Điều tra viên vì ngời bị tạm giữ, bị can đợc giúp đỡ về mặt tinh thần nên sẽ bình
tĩnh khai báo và cũng sẽ không xảy ra tình huống phản cung tại phiên toà.Tất
nhiên cũng không loại trừ hoàn toàn khả năng ngời bào chữa thực hiện những việc
không đợc phép làm, khi đó thì đúng là ngời bào chữa thực sự gây khó khăn cho
các Điều tra viên. Tuy nhiên trong thực tế rất hiếm khi xảy ra khả năng này mà d-
ờng nh chỉ có sự vi phạm pháp luật tố tụng từ phía các Điều tra viên. Nếu cho rằng
ngời bào chữa gây khó khăn cho các Điều tra viên thì có chăng chỉ là ngời bào
chữa đã lấy đi cơ hội lạm quyền của họ trong quá trình thực hiện các biện pháp
điều tra.

Nh vậy có thể khẳng định sự tham gia của ngời bào chữa trong các hoạt
động điều tra không những không gây khó khăn trở ngại cho các Điều tra viên mà
còn giúp họ hoàn thành nhiệm vụ một cách đúng pháp luật, đa ra kết luật điều tra
có căn cứ và đúng thời hạn luật định. Tuy vậy sự tham gia của ngời bào chữa
trong các hoạt động điều tra lại phụ thuộc vào sự đồng ý, cho phép của Điều tra
viên hoặc của Thủ trởng Cơ quan điều tra. Điều đó tạo ra vị thế bị động của ngời
bào chữa khi họ muốn tham gia vào các hoạt động điều tra của các cơ quan điều
tra, trong khi với chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình họ xứng đáng đợc hởng
một vị thế chủ động.
Trong quan hệ với Viện kiểm sát, về hình thức thì dờng nh ngời bào chữa
luôn chống lại Viện kiểm sát. Bởi lẽ quan điểm của ngời bào chữa luôn khác thậm
chí đối nghịch hoàn toàn với quan điểm của Viện kiểm sát. Khi Viện kiểm sát ra
quyết định truy tố thì luôn theo hớng khẳng định bị cáo phạm tội với đề nghị
11
khung hình phạt cụ thể áp dụng đối với bị cáo và luôn bảo vệ bản cáo trạng mà
mình đã đa ra. Còn ngời bào chữa thì theo hớng khẳng định bị cáo vô tội hoặc
phạm tội khác nhẹ hơn hoặc phạm tội thuộc khung hình phạt nhẹ hơn. Tuy nhiên
nếu quan điểm của ngời bào chữa có đầy đủ căn cứ thì đã giúp cho Viện kiểm sát
hạn chế làm oan ngời bị truy tố, đồng thời theo qui định của pháp luật ngời bào
chữa có trách nhiệm giao cho Viện kiểm sát tài liệu đồ vật liên quan đến vụ án
mà mình thu thập đợc tuỳ theo giai đoạn tố tụng
(1)
và việc tranh luận về bản cáo
trạng sẽ giúp cho Viện kiểm sát đa ra lời buộc tội có căn cứ đảm bảo truy tố đúng
ngời đúng tội hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình với chức năng công tố. Trong tr-
ờng hợp quan điểm của ngời bào chữa không có cơ sở thì cho dù họ có cố gắng
bảo vệ cho lí lẽ không thuyết phục của mình cũng không làm ảnh hỏng đến bản
cáo trạng có căn cứ mà Viện kiểm sát đã đa ra và họ cũng không thể trở thành lực
lợng đối nghịch gây khó khăn cho Viện kiểm sát, có chăng thì Kiểm sát viên chỉ
mất thời gian và công sức để bảo vệ quan điểm của mình bởi khi đó các lý lẽ mà

ngời bào chữa cố gắng đa ra không có giá trị và không hề ảnh hởng đến quyết
định của Toà án về vụ án. Và trong mọi trờng hợp để bảo vệ bản cáo trạng một
cách thuyết phục trớc các ý kiến bác bỏ của ngời bào chữa Viện kiểm sát cần phải
thực hiện tốt trách nhiệm của mình theo qui định của pháp luật để hạn chế những
thiếu sót, sai phạm trong kết luận điều tra của Cơ quan điều tra cũng nh những
thiếu sót trong bản cáo trạng.Về phía mình để có thể tranh luận với Kiểm sát viên
một cách có hiệu quả, đa ra quan điểm thuyết phục và bảo vệ đợc quan điểm của
mình thì ngời bào chữa nhất thiết phải có một quá trình chuẩn bị kỹ lỡng thông
qua việc thu thập chứng cứ, nghiên cứu tài liệu liên quan đến vụ án, hồ sơ vụ án.
Nh vậy về phơng diện hoạt động giữa Viện kiểm sát và ngời bào chữa có
mối quan hệ tơng hỗ lẫn nhau góp phần đảm bảo hoàn thành tốt chức năng, nhiệm
vụ của mỗi bên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên sự tham gia
của ngời bào chữa vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhiều khi vẫn phụ thuộc
(
(1) Xem Điều 58 khoản 3, điểm a BLTTHS năm 2003.
12
vào sự quyết định của Viện kiểm sát. Mặc dù pháp luật tố tụng chỉ qui định một
trờng hợp sự tham gia tố tụng của ngời bào chữa phụ thuộc vào ý chí của Viện
kiểm sát đó là trờng hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh
quốc gia
(1)
, nhng thực tế ngời bào chữa gặp nhiều cản trở hơn từ phía Viện kiểm
sát.
Trong mối quan hệ với Toà án, sự tham gia của ngời bào chữa thông qua
việc cung cấp cho Toà án những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án
(2)
, hỏi những
ngời tham gia tố tụng khác, tranh luận với Kiểm sát viên về các tình tiết của vụ án
đã đợc thu thập, về bản cáo trạng của Viện kiểm sát
(3)

giúp cho Hội đồng xét xử
nhìn nhận về vụ án một cách toàn diện hơn, tránh đợc việc xem xét phiến diện
một chiều- nguyên nhân chủ yếu dẫn đến làm oan ngời vô tội. Qua đó đảm bảo
cho phán quyết về vụ án là công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, bảo đảm xét
xử đúng ngời đúng tội, hạn chế oan, sai. Đồng thời trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình ngời bào chữa có thể kịp thời phát hiện những biểu
hiện sai phạm của Thẩm phán, Hội thẩm, Th ký toà án hoặc những yếu tố làm ảnh
hởng đến sự công tâm, vô t, khách quan trong quá trình thực hiện chức năng
nhiệm vụ của các chủ thể này từ đó đa ra các yêu cầu, kiến nghị theo qui định của
pháp luật góp phần giúp cho Toà án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quan trọng
của mình. Trong trờng hợp quan điểm của ngời bào chữa đợc Hội đồng xét xử
quan tâm đúng mức sẽ giúp cho ngời bào chữa hoàn thành sứ mệnh và phát huy đ-
ợc vai trò của mình. Ngợc lại nếu ý kiến, quan điểm của ngời bào chữa không đợc
toà án lu tâm không những làm mờ nhạt vị trí, vai trò của ngời bào chữa dẫn đến
những nhìn nhận, đánh giá không đúng về vị trí, vai trò của họ mà còn xâm phạm
đến quyền lợi hợp pháp của bị cáo.Tóm lại trong mối quan hệ với các chủ thể tiến
hành tố tụng mặc dù quan điểm của ngời bào chữa luôn trái ngợc với quan điểm
của các chủ thể tiến hành tố tụng thì cũng không có nghĩa là ngời bào chữa chống
(
Xem Điều 58 khoản 1 BLTTHS năm 2003.
(2) Xem Điều 58, khoản 3, điểm a BLTTHS năm 2003.
(3) Xem Điều 58, khoản 2, điểm h BLTTHS năm 2003.
13
lại các chủ thể này- chống lại Nhà nớc mà là họ đang thực hiện nhiệm vụ cao cả
đợc pháp luật giao phó.
Về mối quan hệ giữa ngời bào chữa với ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo-
những ngời đợc ngời bào chữa bảo vệ, một số tác giả cho rằnh ngời bào chữa là
ngời đại diện của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho
họ. Quan điểm khác cho rằng ngời bào chữa là chủ thể độc lập trong tố tụng hình
sự đồng thời là ngời đại diện cho lợi ích hợp pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị

cáo nhng đây là đại diện với hình thức đặc biệt- đợc hiểu theo nghĩa rộng là thay
mặt cho ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
họ mà không phải chỉ bó hẹp theo nghĩa là thay mặt cho họ thực hiện những công
việc đợc họ uỷ quyền
(1)
.
Vì ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ ngời
khác bào chữa nên trong mọi trờng hợp (ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời đại
diện hợp pháp của họ mời ngời bào chữa và đợc các cơ quan tiến hành tố tụng
chấp nhận hoặc cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu các chủ thể có trách nhiệm cử
ngời bào chữa cho bị can, bị cáo trong trờng hợp vụ án bắt buộc phải có ngời bào
chữa nhng bị can, bị cáo, ngời đại diện hợp pháp của họ không mời ngời bào
chữa) ý chí của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo- ngời bị buộc tội luôn mang tính
quyết định đối với việc có hay không sự tham gia của ngời bào chữa vào quá trình
giải quyết vụ án. Và xuất phát từ ý thức chủ quan của mình, ngời bị buộc tội có
thể từ chối ngời bào chữa ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nếu họ thấy
sự tham gia của ngời bào chữa không làm tốt hơn hoặc làm xấu đi tình trạng của
họ
(1)
. Tuy thế nhng khi ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã đồng ý để ngời bào chữa
tham gia tố tụng để bào chữa cho mình thì họ không thể chi phối các hoạt động,
các bớc tiến hành công việc của ngời bào chữa và ngời bào chữa sẽ nhân danh
mình để tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ, thậm chí ngời bào
chữa có thể có quan điểm khác với quan điểm của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
(
Xem: Nguễn Văn Tuân, Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng t pháp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí
Dân chủ & Pháp luật số 7 (148)- 2004.
(
(1) Phạm Hồng Hải, Vị trí của ngời bào chữa trong phiên toà xét xử, Tạp chí Luật học số 4/1999.
14

về hớng bào chữa chẳng hạn ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo khẳng định mình vô
tội nhng qua xem xét các tình tiết, sự việc của vụ án ngời bào chữa nhận thấy ngời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã phạm tội hoặc ngợc lại vì một lý do nào đó mà ngời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhận tội nhng ngời bào chữa lại khẳng định họ vô tội.
Thực tiễn đã xảy ra những trờng hợp nh vậy, tuy nhiên giữa ngời bào chữa và ngời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo thờng có sự thống nhất về hớng bào chữa- đây là một
trong những yêu cầu để việc bào chữa đạt hiệu quả. Trờng hợp xảy ra bất đồng
quan điểm giữa ngời bào chữa và ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà họ không tìm
đợc tiếng nói chung thì thờng dẫn tới việc từ chối ngời bào chữa từ phía ngời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và ngời đại diện hợp pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Mặc dù về phía mình ngời bào chữa không thể từ chối bào chữa cho ngời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trừ khi có lý do chính đáng theo qui định của pháp luật thì
cũng không thể khẳng định rằng điều đó tạo nên sự ràng buộc giữa ngời bào chữa
và ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà điều đó chỉ ràng buộc ngời bào chữa với
nhiệm vụ của họ- họ không thể tự ý rời bỏ nhiệm vụ của mình và nhiệm vụ đó đợc
xác định trên cơ sở qui định của pháp luật chứ không phải trên cơ sở thoả thuận
giữa ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo với ngời bào chữa. Nh vậy có thể khẳng định
quan hệ giữa ngời bào chữa và ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể là quan hệ
đại diện theo nghĩa thông thờng đúng nh ý kiến của TS Nguyễn Văn Tuân. Tuy
nhiên quan hệ giữa ngời bào chữa và ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo có phải là một
hình thức đại diện đặc biệt hay không thì cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ vì
cho đến nay pháp luật cha qui định thế nào là hình thức đại diện đặc biệt. Đồng
thời cũng có thể khẳng định giữa ngời bào chữa và ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có một sự độc lập nhất định và sự độc lập đó tồn tại từ khi ngời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo đồng ý để ngời bào chữa tham gia tố tụng để bào chữa cho mình cho đến
khi ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời đại diện hợp pháp của những ngời này
muốn chấm dứt sự tham gia của ngời bào chữa mà họ đã mời hoặc chấp nhận hoặc
cho đến khi vụ án kết thúc nếu nh ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời đại diện
hợp pháp của họ không tự ý từ chối ngời bào chữa.
15

Về mối quan hệ giữa ngời bào chữa với những ngời tham gia tố tụng khác.
Có thể nhận thấy mối quan hệ giữa ngời bào chữa với ngời bị hại; nguyên đơn dân
sự; bị đơn dân sự; ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngời làm
chứng; ngời giám định đợc biểu hiện rõ nét tại phiên toà xét xử. Theo đó ngời bào
chữa đợc quyền hỏi những ngời này theo qui định của pháp luật- quyền tơng tự
Kiểm sát viên (ngời tiến hành tố tụng). Mặc dù ngời bào chữa và ngời bảo vệ
quyền lợi của đơng sự đều đợc xếp vào nhóm ngời tham gia tố tụng để bảo vệ
công lý, nhng ngời bào chữa cũng có vị trí khác so với ngời bảo vệ quyền lợi của
đơng sự thể hiện ở quyền đợc có mặt trong các hoạt động điều tra, quyền thu thập
chứng cứ ở một mức độ nhất định (quyền tơng tự các cơ quan tiến hành tố tụng)
và nghĩa vụ quan trọng là làm sáng tỏ các tình tiết gỡ tội cho ngời bị buộc tội.
Nh vậy, mặc dù sự tham gia của ngời bào chữa vào quá trình giải quyết vụ
án hình sự phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
nhiều khi phụ thuộc vào sự đồng ý, cho phép của các chủ thể tiến hành tố tụng
nên phần nào họ còn ở thế bị động. Nhng với sứ mệnh của mình ngời bào chữa đ-
ợc pháp luật qui định có những quyền và nghĩa vụ cụ thể điều đó tạo nên vị trí độc
lập tơng đối cho ngời bào chữa và khi thực hiện nhiệm vụ của mình ngời bào chữa
cũng có một sự chủ động nhất định trong hoạt động thể hiện ở các khía cạnh: 1-
Ngời bào chữa không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm nên họ không phải là ngời
giúp việc cho các cơ quan tiến hành tố tụng- những chủ thể có nghĩa vụ, trách
nhiệm chứng minh tội phạm; 2- Nhiệm vụ của ngời bào chữa là do pháp luật tố
tụng qui định không phải do đợc uỷ quyền bởi ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; 3-
các bớc đi để xây dựng luận điểm bào chữa không bị chi phối bởi bất cứ chủ thể
nào; và 4- ngời bào chữa nhân danh chính mình để đa ra quan điểm về đờng lối
giải quyết vụ án.
1.2.2-Vai trò của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự.
Nói tới vai trò của ngời bào chữa là nói tới những tác động, ảnh hởng của
ngời bào chữa đối với cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động của mình, đối
16
với xã hội thông qua chức năng, nhiệm vụ. Có thể nhận thấy vai trò của ngời bào

chữa đợc thể hiện rõ nét trên các mặt sau:
Thứ nhất: Sự tham gia tố tụng hình sự của ngời bào chữa góp phần bảo
đảm quyền bào chữa của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Quyền bào chữa là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân đã đ-
ợc thể chế hoá trong Hiến pháp và các văn bản luật (Điều 132 Hiến pháp 1992 và
Điều 11 BLTTHS năm 2003). Việc bảo đảm quyền bào chữa của ngời bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có ý nghĩa quan trọng bởi khi quyền bào chữa không đợc thực thi
một cách triệt để thì không thể đảm bảo thực thi đợc các quyền khác dẫn đến xâm
phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng
và của công dân nói chung.
Để tạo điều kiện cho ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của mình pháp luật qui định: ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tự mình
bào chữa hoặc nhờ ngời khác bào chữa cho mình. Xét về bản chất việc tự mình
bào chữa hoặc nhờ ngời khác bào chữa cho mình là hai hình thức biểu hiện quyền
bào chữa của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
(1)
. Tuy nhiên trên thực tế với tâm lý
mình là ngời bị buộc tội hoặc là đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc do trình độ
pháp lý hạn chế nên việc tự mình bào chữa không đạt hiệu quả và quyền bào
chữa khi đó sẽ chỉ mang tính hình thức. Điều này không những ảnh hởng tới
quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ mà còn ảnh hởng tới việc giải quyết đúng
đắn vụ án. Do vậy việc tham gia tố tụng của ngời bào chữa là cần thiết. Bởi lẽ ngời
bào chữa không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tới vụ án nên họ tham gia tố tụng
một cách vô t và nhìn nhận sự việc một cách khách quan. Ngời bào chữa cũng có
khả năng và điều kiện cung cấp cho của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo những kiến
thức pháp lý cần thiết để họ tự bảo vệ mình. Sự có mặt của ngời bào chữa cũng sẽ
giúp đỡ cho ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo rất nhiều về mặt tinh thần, mang đến
(
1) Xem: Đỗ Xuân Lân, Cần có nhận thức thống nhất về ngời bào chữa là ngời đại diện hợp pháp của ng-

ời bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo Điều 56 BLTTHS, Tạp chí Toà án nhân dân số 3 (2/2005).
(2) Phan Hữu Th (chủ biên), sđd, tr.193, 194.
17
cho họ cảm giác rằng họ không bị cô lập với xã hội, thông qua ngời bào chữa xã
hội dờng nh dang tay ra giúp đỡ họ và với sự giúp đỡ của ngời bào chữa họ có cơ
hội sử dụng một cách đầy đủ những quyền tố tụng mà họ đợc hởng, tích cực tham
gia vào nghiên cứu những tài liệu thu thập đợc về vụ án, tranh luận và bác bỏ lời
buộc tội họ
(2)
. Ngoài ra ngời bào chữa đợc pháp luật trao cho các quyền nhất định
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nên họ có lợi thế hơn ngời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những đối tợng này.
Hơn nữa việc tham gia của ngời bào chữa không làm mất đi quyền tự mình bào
chữa của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Nh vậy có thể nói chế định ngời bào chữa trong tố tụng hình sự chính là
một trong các biện pháp về mặt lập pháp nhằm bảo đảm thực thi quyền bào chữa
của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thực tế khi mà họ không có điều kiện
hoặc không thể tự mình thực hiện quyền bào chữa
(1)
.
Thứ hai: Ngời bào chữa góp phần vào quá trình xác định sự thật khách
quan của vụ án.
Để đạt đến sự thật khách quan về vụ án thì cần phải có một hệ thống chứng
cứ đầy đủ, hợp pháp, xác thực và có liên quan đến vụ án. Tuy nhiên đó luôn là
một việc khó khăn bởi lẽ hành vi phạm tội luôn xảy ra trớc khi việc điều tra thu
thập chứng cứ đợc tiến hành nên các chứng cứ chỉ đợc thu thập thông qua các dấu
vết đợc ghi nhận trong thế giới khách quan.
Với nghĩa vụ làm sáng tỏ những tình tiết xác định ngời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo ngời
bào chữa phải tiến hành thu thập chứng cứ bằng các biện pháp do pháp luật qui

định, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận với Kiểm sát viên tại phiên toà về các
tình tiết, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, về bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Thông
qua việc thu thập chứng cứ ngời bào chữa có thể cung cấp cho Toà án những
chứng cứ quan trọng mà vì một lý do nào đó Cơ quan điều tra cha thu thập đợc, bổ
(
Xem: Đỗ Xuân Lân, Cần có nhận thức thống nhất về ngời bào chữa là ngời đại diện hợp pháp của
ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo Điều 56 BLTTHS, Tạp chí Toà án nhân dân số 3 (2/2005).
18
sung cho hệ thống chứng cứ của vụ án đợc đầy đủ hơn. Bằng việc nghiên cứu tài
liệu, hồ sơ vụ án ngời bào chữa có thể phát hiện đợc thiếu sót của những ngời tiến
hành tố tụng, trên cơ sở đó để đa ra các yêu cầu hoặc khiếu nại về quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, ngời tiến hành tố tụng, qua đó hạn chế đợc ý chí chủ
quan của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ.
Trong quá trình tranh luận tại phiên toà ngời bào chữa có thể chỉ ra những điểm
mâu thuẫn trong việc đánh giá chứng cứ cũng nh những sai phạm trong việc thu
thập chứng cứ của các cơ quan, ngời tiến hành tố tụng giúp Toà án loại bỏ đợc
những chứng cứ hoặc không xác thực, hoặc không hợp pháp, hoặc không liên
quan đến vụ án.
Ngoài ra sự có mặt của ngời bào chữa còn giúp cho ngời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo rất nhiều về mặt tinh thần nên họ sẽ bình tĩnh và thành khẩn khai báo
giúp cho việc giải quyết vụ án đợc nhanh chóng và đúng sự thật vì họ là ngời đã
thực hiện hành vi bị buộc tội nên họ là ngời biết rõ các tình tiết về vụ án hơn bất
cứ ngời nào khác. Với vai trò này ngời bào chữa đợc xem nh là ngời bổ trợ t pháp-
giúp cho các cơ quan, ngời tiến hành tố tụng làm sáng tỏ mọi tình tiết liên quan
đến vụ án, qua đó giúp cho quá trình giải quyết vụ án đảm bảo đợc tính khách
quan.
Thứ ba: Ngời bào chữa góp phần đảm bảo dân chủ; bảo vệ công lý, công
bằng xã hội và pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
Quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ ngời khác bào chữa cho mình của
ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là biểu hiện cao nhất tính dân chủ trong hoạt động

tố tụng hình sự và quyền này chỉ thực sự tồn tại trong các Nhà nớc dân chủ. Ngời
bào chữa tham gia tố tụng hình sự là để giúp ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ một cách có hiệu quả nhất với mục đích là bảo vệ
các quyền tự do dân chủ của họ.
Tính dân chủ trong tố tụng hình sự còn đợc thể hiện ở khía cạnh đó là mọi
công dân, tổ chức đều có quyền tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Ngời bào chữa với t cách là một công dân hoặc thành viên của một tổ chức xã hội
19
nào đó khi tham gia tố tụng họ không đại diện cho quyền lực nhà nớc mà nhân
danh mình tham gia tố tụng với mục đích là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhng họ cũng chính là đại diện cho nhân dân
hoặc tổ chức xã hội mà họ là thành viên trong việc giám sát hoạt động của các cơ
quan, ngời tiến hành tố tụng- những chủ thể đại diện cho quyền lực nhà nớc và
hoạt động của những ngời tham gia tố tụng khác. Với chức năng, nhiệm vụ đặc
thù của mình ngời bào chữa đợc pháp luật trao cho những quyền nhất định trong
các giai đoạn khác nhau của quá trình giải quyết vụ án hình sự và với những
quyền đó ngời bào chữa đợc phép có mặt trong một số hoạt động điều tra, đa ra
yêu cầu, khiếu nại, tranh luận bình đẳng với các chủ thể đại diện cho quyền lực
nhà nớc và đợc phát biểu quan điểm của mình về vụ án. Đó chính là các đảm bảo
về mặt lập pháp để ngời bào chữa phát huy vai trò của họ đồng thời đó cũng là
một trong các định chế đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự.
Chính bằng việc sử dụng các quyền của mình và thông qua các quyền đó
ngời bào chữa có thể phát hiện những biểu hiện vi phạm thủ tục tố tụng của những
chủ thể tiến hành tố tụng, đồng thời sự có mặt của ngời bào chữa trong các giai
đoạn tố tụng giống nh một ngời chứng kiến, một kênh giám sát sẽ hạn chế đợc sự
lạm quyền của những ngời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng- nguyên nhân
chính dẫn đến vi phạm pháp luật tố tụng, giúp cho việc giải quyết vụ án đúng
pháp luật. Có thể khẳng định chắc chắn rằng nếu ngời bào chữa đợc tạo điều kiện
một cách đầy đủ để thực hiện một cách triệt để các quyền của họ thì sẽ không còn
hiện tợng bức cung, dùng nhục hình, dàn dựng chứng cứ, bỏ sót chứng cứ, làm sai

lệch hồ sơ vụ án, thuyết phục nhận tội đồng thời hệ thống chứng cứ của vụ án vừa
đầy đủ hơn vừa đảm bảo các thuộc tính hợp pháp, khách quan, liên quan đến vụ
án vì ngời bào chữa vừa có quyền thu thập chứng cứ vừa có quyền phản biện
chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập và do vậy sẽ giúp cho Toà án xét xử đúng
ngời đúng tội- ra bản án công minh, có căn cứ , đúng pháp luật, hạn chế rất nhiều
các trờng hợp oan, sai trong tố tụng hình sự. Và nh vậy công lý đợc bảo vệ, nhân
20
dân tin vào công bằng xã hội; pháp luật tố tụng nói riêng và pháp luật của nhà n-
ớc nói chung đợc tôn trọng.
Mặc dù quá trình giải quyết vụ án hình sự với nhiều giai đoạn khác nhau đ-
ợc thực hiện bằng một thủ tục tố tụng đợc pháp luật qui định chặt chẽ tuy nhiên
trên thực tế hiện tợng lạm quyền, chuyên chế- biểu hiện của vi phạm thủ tục tố
tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng không phải là ít. Dù nguyên nhân của sự vi
phạm đó là do khách quan hay chủ quan thì đều là vi phạm pháp luật. Không thể
nói tới việc bảo đảm pháp chế khi mà chính các chủ thể có chức năng và nhiệm vụ
bảo vệ pháp luật lại thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bởi pháp chế hiểu theo
nghĩa chung nhất là sự yêu cầu tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tuyệt
đối tuân thủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của mình. Sự tham gia của ngời
bào chữa trong quá trình tố tụng sẽ tạo ra một sự đối trọng nhất định đối với các
cơ quan và ngời tiến hành tố tụng có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải ý thức
hơn về từng hành vi của mình, phải tự kiềm chế các biểu hiện lạm quyền, chuyên
chế, phải tuân thủ một cách triệt để thủ tục tố tụng, phải tôn trọng và bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đó chính là tác dụng phòng ngừa vi
phạm có thể xảy ra từ phía các chủ thể tiến hành tố tụng. Đồng thời thông qua
việc đa ra yêu cầu hoặc khiếu nại đối với các chủ thể tiến hành tố tụng ngời bào
chữa góp phần vào việc khắc phục những sai phạm đã xảy ra nhằm bảo vệ quyền
lợi của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo đúng qui định của pháp luật. Với sự
tham gia tố tụng của mình ngời bào chữa không những góp phần hạn chế những vi
phạm thủ tục tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng mà còn hớng ngời bị tạm
giữ, bị can, bị cáo tuân thủ pháp luật vì đó là điều kiện tiên quyết để thực hiện

việc bảo vệ quyền lợi của của chính họ. Và do vậy pháp luật đợc đảm bảo thực
thi- pháp chế đợc bảo vệ.
Thứ t: Ngời bào chữa góp phần tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức
pháp luật trong quần chúng nhân dân.
Khi tham gia tố tụng ngời bào chữa giúp cho ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo
cũng nh những ngời tham gia tố tụng khác hoặc những cá nhân, tổ chức liên quan
21
đến quá trình giải quyết vụ án hiểu rõ về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ
thông qua việc gặp gỡ họ trong quá trình thu thập chứng cứ, và ngời bào chữa
cũng có thể cung cấp cho họ kiến thức pháp lý cần thiết để họ thực hiện các các
quyền và nghĩa vụ của họ. Đồng thời ngời bào chữa hớng dẫn các chủ thể đó cũng
nh các tổ chức và mọi công dân cách xử sự trong các hoàn cảnh cụ thể phù hợp
với pháp luật để tránh đợc những hậu quả pháp lý bất lợi
(1)
. Qua đó ngời bào chữa
góp phần tuyên truyền pháp luật trong trong quần chúng nhân dân. Với sự tham
gia của ngời bào chữa quyền và lợi ích hợp pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo đợc bảo vệ một cách tốt nhất qua đó góp phần củng cố niềm tin vào những
quyền cơ bản, nhân phẩm, giá trị con ngời; niềm tin của
nhân dân đối với pháp luật, chế độ dân chủ.
Từ đó mỗi ngời dân sẽ tự giác nâng cao kiến thức pháp luật của mình bởi
đó là công cụ hữu hiệu để họ bảo vệ quyền lợi của chính họ trớc các biểu hiện
xâm phạm của các chủ thể đại diện cho quyền lực nhà nớc.
1.3- Chức năng, nhiệm vụ của ngời bào chữa
trong tố tụng hình sự.
1.3.1- Chức năng của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự.
Theo nghĩa chung nhất, chức năng của một chủ thể đợc hiểu là những ph-
ơng diện hay những mặt hoạt động chủ yếu của chủ thể đó. Việc xác định rõ chức
năng của một chủ thể là cơ sở để xác định phạm vi những nhiệm vụ mà chủ thể đó
phải thực hiện.

Chức năng của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự đã đợc thể hiện trong
chính tên gọi của họ- bào chữa. Bào chữa theo nghĩa rộng là đa ra lập luận kèm
theo các chứng cứ cho lập luận đó để bác bỏ sự cáo buộc trách nhiệm nhằm bảo
vệ lợi ích của mình . Trong tố tụng hình sự, sự cáo buộc trách nhiệm chính là việc
các cơ quan tiến hành tố tụng buộc tội đối với một ngời nào đó (cho là ngời đó đã
thực hiện hành vi phạm tội hoặc khẳng định là ngời đó đã phạm tội hoặc kết luận
là ngời đó đã phạm tội), và nh vậy bào chữa trong tố tụng hình sự là đa ra lập luận
(
1) Phan Hữu Th (chủ biên) Sđd, trang112
22
kèm theo các chứng cứ để bác bỏ lời buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm bảo vệ quyền lợi đợc Nhà nớc bảo vệ của mình. Tuy nhiên không phải trong
xã hội nào ngời bị buộc tội cũng đợc phép bào chữa mà quyền bào chữa của ngời
bị buộc tội hầu nh chỉ tồn tại trong chế độ xã hội dân chủ.
Ngời bị buộc tội do ở trạng thái tâm lý không ổn định, lo sợ và đôi khi
không hiểu biết pháp luật nên thờng không thể tự mình thực hiện tốt quyền bào
chữa của mình. Để ngời bị buộc tội thực hiện một cách có hiệu quả quyền bào
chữa của họ thì không có cách nào tốt hơn là trao cho họ quyền đợc nhờ ngời khác
giúp họ bào chữa- đây là cơ sở ra đời và tồn tại của chế định ngời bào chữa.
Nh vậy ngời bào chữa tham gia tố tụng hình sự là để giúp ngời bị buộc
tội bác bỏ lời buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng- giúp họ bào chữa. Bác
bỏ sự buộc tội không phải chỉ với nghĩa là phủ định lời buộc tội mà còn bao gồm
cả việc làm giảm nhẹ lời buộc tội. Vì vậy bào chữa trong tố tụng hình sự còn đợc
hiểu với nghĩa là gỡ tội cho ngời bị buộc tội.
Xét về bản chất thì chức năng bào chữa tồn tại độc lập và đối trọng với chức
năng công tố nh một yếu tố khách quan tự thân của tố tụng hình sự
(1)
. Tuy nhiên
trong mỗi hình thức tố tụng hình sự khác nhau sự độc lập và đối trọng giữa chức
năng bào chữa và chức năng công tố đợc thể hiện ở mức độ khác nhau tuỳ thuộc

vào trình tự thủ tục và tổ chức thiết chế tố tụng của hình thức tố tụng đó.
1.3.2 - Nhiệm vụ của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự.
Với chức năng gỡ tội cho ngời bị buộc tội, ngời bào chữa phải thực hiện
những nhiệm vụ nhất định- đó là những mục tiêu mà ngời bào chữa cần đạt tới,
những vấn đề đặt ra mà ngời bào chữa cần giải quyết.
Mục đích đầu tiên của việc bào chữa chính là để bảo vệ quyền và lợi ích của
ngời đợc bào chữa.
Khi bị buộc tội, quyền và lợi ích hợp pháp của ngời bị buộc tội có nguy cơ
bị ảnh hởng bởi hai yếu tố: 1- Bị buộc tội oan và 2- Bị xâm phạm bởi các hành vi,
(
1) Phan Trung Hoài, Vấn đề hoàn thiện pháp luật về luật s ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-
2004, tr.55.
23
quyết định trái pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án. Ngời bào chữa tham gia tố tụng là để hạn chế đến mức thấp nhất các
nguy cơ đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời bị buộc tội.
Ngoài ra khi tham gia vào tố tụng hình sự với t cách là ngời bào chữa, bản
thân ngời bào chữa cũng phải thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ chung của mọi
công dân là bảo vệ pháp chế. Tuy nhiên trong giới hạn của lĩnh vực tố tụng hình
sự, ngời bào chữa có trách nhiệm đấu tranh trớc những vi phạm pháp luật trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự vừa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ng-
ời bị buộc tội đồng thời để bảo vệ lợi ích của Nhà nớc, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân.
Nh vậy nhiệm vụ của ngời bào chữa trong tố tụng hình sự là: 1- bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ngời bị buộc tội và 2- bảo vệ pháp chế Xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ bảo vệ pháp chế trong thực tế không đối lập với nhiệm vụ bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ngời bị buộc tội vì thực hiện hai nhiệm vụ này đều
hớng tới mục tiêu của tố tụng hình sự đặt ra là việc điều tra, truy tố, xét xử đợc
tiến hành khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ có hiệu quả lợi ích của Nhà nớc
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân

(1)
.
1.4- Khái quát quá trình hình thành và phát triển của chế định
về ngời bào chữa ở Việt Nam.
1.4.1 - Giai đoạn trớc năm 1945.
Trong xã hội phong kiến Việt Nam nghề thầy cung, thầy kiện không đợc
coi trọng bởi cách nhìn nhận không đúng về loại nghề này nguyên nhân chính là
do quan niệm các bậc vua chúa phong kiến là ngời bảo vệ dân chúng và bảo vệ sự
công bằng
(2)
. Do vậy trong bộ Quốc triều hình luật dù có ghi nhận quyền đợc bào
(
Xem: Phạm Hồng Hải, Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của ngời bào chữa trong BLTTHS
năm 2003, Tạp chí Nhà nớc và Pháp luật số 5/2004, tr.23.
(2),(4) Phan Trung Hoài, sđd, tr. 21, 22, 110.
(3) Điều 691 Quốc triều hình luật qui định: Những án xét vào tội nhẹ, nhng tình lý đáng ngờ thì giao
cho Viện thẩm hình hội đồng bàn xét, hỏi tội nhân cho đến lúc nhận tội; nếu tội nhân không chịu nhận
tội thì cho phép đợc bào chữa rồi phải xét lại kỹ càng .
(5) Xem: Phan Hữu Th (chủ biên), sđd, tr. 20.
24
chữa của ngời phạm tội nhng họ phải tự bào chữa và không có qui định về ngời
bào chữa
(3)
.
Từ 1864 với Sắc lệnh ngày 25/7/1864 của Hoàng đế Napoléon III về tổ chức
nền t pháp Nam kỳ, những ngời bào chữa đã đợc hình thành bên cạnh các Toà án
thuộc địa
(4)
, tuy nhiên chỉ có ngời Pháp đợc làm ngời bào chữa. Với Sắc lệnh ngày
25/5/1930 Hội đồng luật s ở Hà Nội và Sài Gòn đợc thành lập và ngời Việt Nam

đợc tham gia biện hộ với điều kiện tốt nghiệp Đại học Luật khoa và phải tập sự
trong một văn phòng biện hộ của một luật s thực thụ với thời gian năm năm
(5)
.
1.4.2 - Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988:
Ngay sau khi cách mạng thành công Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký một loạt
sắc lệnh về tổ chức và hoạt động của các cơ quan t pháp trong đó có Sắc lệnh số
46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức Đoàn thể luật s. Theo sắc lệnh này, Đoàn thể
luật s của chế độ cũ vẫn đợc duy trì với một số điểm sửa đổi cho phù hợp với điều
kiện mới. Mục đích duy trì tổ chức luật s khi đó là nhằm kịp thời bảo đảm quyền
bào chữa của bị cáo. Hoạt động của tổ chức luật s trong thời kỳ này về cơ bản là
bào chữa trớc các Toà án cấp tỉnh trở lên
(1)
.
Năm 1946 Nhà nớc ta đã ban hành Hiến pháp và ghi nhận quyền đợc mợn
luật s bào chữa của bị cáo. Do số lợng luật s khi đó còn hạn chế, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký sắc lệnh số 217 ngày 22/11/1946, trong đó qui định những Thẩm phán
có bằng luật khoa đợc bổ nhiệm sau ngày 19/8/1945 sau khi đã thực hành chức vụ
t pháp trong thời hạn ba năm trớc các Toà án đệ nhị cấp, Toà án quân sự, toà án
binh hay Tòa thợng thẩm có thể ra làm luật s mà không cần phải tập sự tại một
văn phòng luật s
(2)
. Qui định này nhằm bảo đảm có đủ luật s để bào chữa cho bị
cáo. Tiếp theo là Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 (đợc bổ sung bởi Sắc lệnh số
144/SL ngày 22/12/1949) qui định bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là
(
Xem: Đào Trí úc (chủ biên), Hệ thống t pháp và cải cách t pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội- 2002, tr. 139.
(2) Nguyễn Văn Tuân, Luật s và hành nghề luật s, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội-2002, tr. 163,164.
(3) Phan Hữu Th (chủ biên), sđd, tr.20.

(
25

×