Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP kỹ THUẬT dạy học THEO NGHIÊN cứu bài học ở môn NGỮ văn TRƯỜNG THCS TRUNG sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.34 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP KỸ THUẬT DẠY HỌC THEO NGHIÊN
CỨU BÀI HỌC Ở MÔN NGỮ VĂN TRƯỜNG THCS TRUNG SƠN

Người thực hiện: Lưu Tuấn Anh
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Trung Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
TT

Mục

1

1

2

Nội dung

Trang

Mở đầu



1

1.1

Lý do chọn đề tài

1

3

1.2

Mục đích đề tài

1

4

1.3

Đối tượng nghiên cứu

1

5

1.4

Phương pháp nghiên cứu


2

6

1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết

2

7

1.4.2. Phương pháp kết hợp nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm

2

8

1.4.3

Phương pháp điều tra, khảo sát

3

9

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3


10

2.1

Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

11

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3

12

2.2.1

Về phía giáo viên

3

13

2.2.2

Về phía học sinh


5

14

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

5

15

2.3.1

Các bước thực hiện dạy học theo nghiên cứu bài học

5

16

2.3.2

Các kỹ thuật dạy học theo nghiên cứu bài học

7

17

2.4


Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm

13

18

3

Kết luận, kiến nghị

13


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Tại bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới giáo dục cũng được xem là quốc
sách hàng đầu. Xã hội càng phát triển những đòi hỏi và yêu cầu về giáo dục càng
cao. Ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số số 29-NQ/
TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định : “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về
chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt
Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của
mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu
quả.” [1] .
Trong yêu cầu đổi mới giáo dục, đặc biệt nhấn mạnh việc khắc phục những
hạn chế của chương trình sách giáo khoa, tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực

hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung
những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của
học sinh. Và trước hết muốn làm được điều đó phải chú ý đến đổi mới phương
pháp dạy học.
Tuy nhiên trong những năm qua, những thay đổi trong cách dạy học của
người giáo viên ở nước ta vẫn diễn ra chậm chạp với nhiều khó khăn. Nhiều nước
châu Á và nhiều nước đang phát triển đều có chung tình trạng như vậy. Có một lý
do là các giáo viên sẽ rất khó thay đổi cách dạy học đã trở thành thói quen của họ
nếu họ không thực sự hiểu được các vấn đề: Tại sao cần phải đổi mới phương pháp
dạy học và đổi mới theo cách nào…
Những câu hỏi trên đây thực sự đã được đề cập đến ở rất nhiều tài liệu, nhiều
cuộc hội thảo, các lớp chuyên đề song những vấn đề đó đem tác dụng vào các tiết
dạy thực sự trên lớp quả không dễ dàng chút nào đối với người dạy. Đối với môn
Ngữ văn ở cấp trung học cơ sở, việc đổi mới phương pháp, vận dụng các kĩ thuật
dạy học tích cực cũng đã được bàn đến rất nhiều trong các lớp chuyên đề ở huyện,
ở tỉnh trong những năm qua. Song hầu như nó chưa được áp dụng rộng rãi trong
các tiết dạy đại trà mà chỉ được ứng dụng trong các tiết dạy mẫu, các tiết thao
giảng vì thế học sinh chưa được học tập lĩnh hội kiến thức theo đúng tinh thần tích
cực và yêu cầu đổi mới giáo dục đã đặt ra. Vì thế việc đổi mới phương pháp dạy
học cần phải được thực hiện đồng bộ đại trà ở mọi lớp, mọi tiết dạy, mọi đối tượng
học sinh thì mới mong đạt được kết quả tốt.
Vấn để đổi mới chúng ta cần có cuộc cách mạng về tư duy: Thay đổi kiểu tư
duy đơn tuyến đó là kiểu tư duy coi phương pháp là các hệ thống nguyên tắc, điều
chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động cách tạo thực tiễn; chuyển kiến thức của
thầy sang tr ò theo một chiều .Tư duy đơn tuyến là tư duy dễ cả tin, cần phải khắc
phục. Tư duy đa tuyến là tư duy đặt phương pháp vào hệ thống hoạt động gồm
nhiều thành tố ,là tư duy theo hệ hình thái tương tác, bao quát tổng thể mỗi sự vật,
từ đó nắm được bản chất cụ thể và sâu xa của sự vật.
1



Bản thân là một giáo viên, cán bộ quản lý có thâm niên 20 năm trong ngành
giáo dục của huyện với sự trải nghiệm của bản thân, cùng với việc học hỏi đồng
nghiệp, tiếp thu các chuyên đề thông qua các lớp tập huấn tôi đã có sự thay đổi về
tư duy giảng dạy. Hay nói cách khác là đã làm một cuộc cách mạng về phương
pháp trong hai năm qua. Hiệu quả thực sự chưa như mong muốn song học sinh đã
hứng thú hơn khi được tiếp cận kiến thức và các em đã thực sự là những người làm
chủ trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Đó là lý do mà tôi muốn trao đổi với đồng
nghiệp và các nhà quản lí giáo dục về đề tài: “Dạy học theo nghiên cứu bài học
môn Ngữ văn trung học cơ sở”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Dạy học theo nghiên cứu bài học nhằm mục đích thay đổi thói quen học tập bị
động lâu nay của học sinh nhằm giúp học sinh được quyền trao đổi, thảo luận, giải
quyết ấn đề theo suy nghĩ của chính các em. Trong các giờ học các em được quyền
bộc lộ và phát huy khả năng sáng tạo của mình.
Với lượng kiến thức khổng lồ của môn Ngữ văn giáo viên không thể “ nhồi
nhét” hết vào đầu học sinh và cũng không thể “ bắt” các em phải thuộc, phải nhớ mà
để các em tự khám phá, tự hiểu và biết vận dụng trong đời sống thực tiễn của mình.
Dạy học theo nghiên cứu bài học nhằm mục đích đảm bảo chất lượng đầu ra
của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách,
chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn
bị cho học sinh năng lực giải quyết các tình huống trong cuộc sống hiện tại và cả
sau này.
Vì thế khi chọn đề tài “Dạy học theo nghiên cứu bài học” tôi đã nhằm mục
đích hướng tới người học, mong muốn tạo được những giờ học mà học sinh thực
sự được làm chủ, được bộc lộ, được phát huy và được định hướng một cách đúng
đắn nhất.
Và khi nghiên cứu đề tài này tôi cũng nhằm mục đích thay đổi chính bản thân
mình trong giảng dạy. Đó là thói quen áp đặt học sinh về kiến thức, về kỹ năng.
Học sinh là phải theo thầy, là hình bóng của thầy trong những bài iết thực hành Tập

làm văn. Và tôi tin chắc sau khi thực hiện phương pháp “Dạy học theo nghiên cứu
bài học môn Ngữ văn THCS” tôi sẽ tạo được niềm say mê, khám phá và hứng thú
cho các em trong mỗi giờ lên lớp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Chương trình Ngữ văn cấp THCS Trung Sơn, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Cá nhân: Thực hiện các tiết soạn bài theo nghiên cứu bài học.
Tổ chuyên môn: Xây dựng, góp ý giáo án.
1.4.2. Phương pháp kết hợp nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm
Tổ chuyên môn: Dự giờ đánh giá mức độ thành công, hạn chế của việc áp
dụng giáo án trong quá trình lên lớp.
Cá nhân: Rút kinh nghiệm sau mỗi lần góp ý của tổ chuyên môn.
2


Đúc kết thành sáng kiến kinh nghiệm sau một năm thực hiện được sự góp ý
của tổ chuyên môn và đồng nghiệp.
1.4.3. Phương pháp điều tra và khảo sát
Trước khi thực hiện đề tài tôi thấy:
Khối
6(48)
7(41)
8(56)
9(40)

Số HS thích học văn
13 = 27.08%
17 = 41.46%
20 = 35.71%

18 = 45%

Số HS không thích học văn
35 = 72.92%
24 = 58.54%
36 = 64.29%
22=55%

Sau khi thực hiện đề tài tôi thấy các em yêu thích và tự giác với bộ môn Ngữ văn hơn.Cụ thể qua điều tra
học sinh tôi thấy:

Khối
6(48)
7(41)
8(56)
9(40)

Số HS thích học văn
30 = 62.5%
30 = 73.17%
42 =75%
31 = 77.5%

Số HS không thích học văn
18 = 37.5%
11= 26.83%
14 = 25%
9 = 22.5%

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Dựa trên chỉ thị số 2699 CT-BGDĐT ngày 8-8-2017. Nghành giáo dục tiếp
tục tập trung thực hiện thắng lợi nghị quyết số 29-NQ/TW của ban chấp hành trung
ương Đảng, Nghị quyết số 44/NQ-CP của chính phủ về đổi mới căn bản toàn diện
về giáo dục và đào tạo.Nghị quyết số 88/2014 QH 13 của quốc hội,quyết định số
404/QĐ/TTG của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình sách giáo khoa
giáo dục phổ thông, các Nghị quyết của Đảng, quốc hội ,Chính phủ và chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ về việc đổi mới toàn diện giáo dục trong tư thế hội nhập và
phát triển trong đó có đổi mới phương pháp giảng dạy hướng đến người học, lấy
học sinh làm trung tâm, tạo điều kiện để học sinh được phát huy hết sức khả năng
sáng tạo của mình. Và ngành giáo dục và Đào tạo Quan Hóa nói riêng năm học
2017-2018 thực hiện theo Nghị Quyết số 08-NQ/HU ngày 23 tháng 3 năm 2017
của Ban Chấp hành Đảng Bộ huyện Quan Hóa về nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo giai đoạn 2017- 2020; định hướng đến năm 2025 và kế hoạch số 77/ KHUBND ngày 22/5/2017 của UBND huyện về kế hoạch hành động thực hiện Nghị
Quyết số 08-NQ/HU ngày 23 tháng 3 năm 2017 của Ban Chấp hành Đảng Bộ
huyện Quan Hóa về nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2017-2020;
định hướng đến năm 2025;Chính điều đó đã thôi thúc mỗi người giáo viên phải
thay đổi thói quen phương pháp giảng dạy, tạo điều kiện để học sinh được học tập
trong một môi trường hoàn toàn chủ động và tích cực để hội nhập quốc tế.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Về phía giáo viên
Như đã nói ở trên việc thay đổi cách dạy học đã trở thành đường mòn thành
thói quen nhiễm vào máu thịt của người dạy là vô cùng khó khăn .Bên cạnh đó
hiện cũng không phải 100% giáo viên dạy Ngữ văn ở bậc trung học cơ sở đã được
tiếp cận với các kĩ thuật dạy học mới. Bởi tôi được biết trong những năm qua Sở
giáo dục đã triển khai nhiều lớp chuyên đề có ý nghĩa thực tiễn: như giáo dục bảo
3


vệ môi trường trong môn ngữ văn giáo dục kĩ năng sống qua môn Ngữ Văn... hay

vận dụng các kĩ thuật dạy học mới trong môn Ngữ Văn... Những vấn đề này đã
được các phòng giáo dục đặc biệt là phòng giáo dục huyện Quan Hóa cùng với các
cốt cán môn Ngữ Văn triển khai cụ thể ,chi tiết và hiệu quả tới những người được
đi học chuyên đề. Song mỗi trường chỉ có một đến hai giáo viên đi tiếp thu chuyên
đề. Việc truyền đạt lại cho giáo viên ở trường chắc chắn không phải trường nào
cũng làm tốt, hoặc c ó trường thậm chí không triển khai cho nên giáo viên không
nắm được tinh thần của việc đổi mới dạy học. Họ cứ vô tư dạy học theo khuôn
mẫu của những giáo án cách đây 5 năm thậm chí 10 năm trước. Miễn làm sao hết
bài là được. Còn học sinh cứ ghi đầy vở, đủ ý để về nhà học thuộc lòng là xong.
Chính vì kiểu dạy học áp đặt, học theo thầy,thầy là người truyền đạt chân lí
như thế cho nên khi kiểm tra đánh giá chúng ta sẽ có một loạt sản phẩm như nhau.
Học sinh làm văn như chép lại bài chính tả, bài học thuộc lòng khiến người đọc
cảm thấy tẻ nhạt nhàm chán vô cùng.Thực ra lỗi đó trước hết phải thuộc về người
dạy, bởi chúng ta đã tước đi của các em quyền được sáng tạo,chúng ta luôn áp đặt
các em theo cách của mình, tự khẳng định cho các em phải công nhận chân lý chứ
không dạy cho các em con đường tìm ra chân lí. Đó là một phương pháp dạy học
lỗi thời mà trên thực tế đa phần giáo viên của chúng ta hiện nay đang áp dụng.
Một thực trạng nữa mà giáo viên gặp phải hiện nay khi vận dụng các kiểu dạy
học mới đó là cơ sở vật chất ở các trường học hầu như chưa ứng được triệt để. Sĩ
số lớp học quá đông, bàn ghế, cách kê bàn ghế trong lớp học vẫn theo kiểu truyền
thống nên khi hoạt động nhóm gặp khó khăn. Các em phải kê bàn ghế lại tạo nên
sự ồn ào,mất thời gian.hay khi sử dụng kĩ thuật phòng tranh trong dạy học lớp học
không có sẵn chỗ để trưng bày. Nếu cần sử dụng máy chiếu hiện nay trên địa bàn
huyện Quan Hóa mới có một số trường như PTDTNT, THCS Thị Trấn, THCS Hồi
Xuân …là có phòng máy cố định,còn các trường khác có từ 1-2 máy chiếu, mỗi lần
muốn dạy là giáo viên phải nhờ thêm người hỗ trợ, lớp học thiết kế chưa đúng quy
cách nên màn hình chưa đúng chỗ, đèn chiếu phải để giữa lớp, dây điện loằng
ngoằng tạo khó khăn cho giáo viên và học sinh trong quá trình di chuyển.
Thực trạng khó khăn thứ ba mà tôi nhận thấy nữa khi vận dụng phương pháp,
kĩ thuật dạy học tích cực khó tiến hành đồng bộ ở tất cả các trường, các lớp, các

giáo viên bởi vì trên thực tế đội ngũ giáo viên Ngữ văn của huyện Quan Hóa tuổi
đời và tuổi nghề còn trẻ, hơn nữa lại thiếu giáo viên thì số giờ của các đồng chí áp
lực hơn. Nhiều giáo viên dạy xa nhà, tư tưởng tâm huyết nghề nghiệp chưa cao,
quan điểm “ tối ngày đầy công ” hết tiết hết bài là được vẫn còn phổ biến cho nên
tinh thần học tập, thay đổi, vận dụng kĩ thuật dạy học mới đối với một số giáo viên
này là rất khó. Họ chỉ làm khi có kiểm tra thanh tra, khi có giờ thao giảng ở trường
hay đi tham gia dự thao giảng cấp huyện. Số giáo viên nhiều người có năng lực
nghề nghiệp, có tâm huyết, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số bộ phận bằng lòng
với cái vốn có của mình bao năm qua miễn là không ai đụng chạm đến bản thân
mình là được. Chính vì suy nghĩ đó cho nên ý thức phấn đấu cho chuyên môn còn
hạn chế.
Việc đầu tư vận dụng các kĩ thuật dạy học mới trong các giờ Ngữ văn tốn nhiều
thời gian, công sức của người dạy bởi cần phải có sự chuẩn bị dầu tư chu đáo
4


mới thực hiện được. Vì thế không phải ai cũng sẵn sàng bắt tay để áp dụng các
kiểu dạy này. Trong khi đó kiểu dạy học truyền thống lại vô cùng đơn giản cô cứ
dạy và nói theo giáo án là xong. Đó là thực trạng và những khó khăn trong việc áp
dụng phương pháp dạy học mới hiện nay ở địa bàn huyện ta nói riêng và hầu như
trong toàn tỉnh nói chung.
2.2.2. Về phía học sinh
Khi áp dụng các kĩ thuật dạy học mới không chỉ gặp khó khăn về phía giáo
viên mà đối với chủ thể (người học) đó là học sinh chúng ta cũng gặp phải rất
nhiều khó khăn. Lâu nay các em quen tiếp cận kiến thức một cách thụ dộng theo
kiểu truyền thống, thầy giảng trò ghi, thầy đọc trò chép, thầy hỏi trò trả lời, nếu
không trả lời thì được thầy giải đáp luôn nay buộc các em phải tư duy dộng não,
phải đưa ra ý kiến hoặc hợp tác với bạn để cùng ý kiến thống nhất ý kiến đó thì đó
thực sự là một vấn đề khó khăn với các em.
Một thực trạng nữa mà chúng ta thấy rõ trong quá trình giảng dạy về phía học

sinh đó là: Thực hiện chủ trương chính sách xóa bỏ các lớp chọn trong các nhà
trường phổ thông (cấp I, II) nên trình độ học sinh trong một lớp không đồng đều.
Điều này khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực buộc giáo viên phải chấp nhận
sự phân hóa về cường độ, mức độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập nhất là bài
học được thiết kế thành một chuỗi hoạt động độc lập.
Có những học sinh hoạt động tích cực trong giờ học nhưng cũng có học sinh
ỷ lại hoàn toàn cho bạn mình (đối với hoạt động nhóm) bởi vì các em nghĩ kết quả
và điểm dành cho nhóm đương nhiên là mình sẽ có “ phần ” trong đó vì thế để tổ
chức hoạt động nhóm đối với học sinh giáo viên lại phải suy nghĩ chia nhóm phù
hợp, giao việc cho mỗi nhóm tùy theo năng lực của học sinh, điều khiến hoạt động
nhóm làm sao để tất cả học sinh đều được bộc lộ khả năng của mình.
Trên đây là những vấn đề, là thực trạng dễ thấy nhất trong quá trình áp dụng
các kĩ thuật dạy học mới. Bên cạnh đó vẫn còn có rất nhiều nhữngkhó khăn nữa mà
người trực tiếp đứng lớp như tôi đã gặp phải trong các giờ dạy của mình.
Song, vượt qua những khó khăn đó, bản thân tôi đã xác định được trách
nhiệm của người giáo viên đứng lớp; dạy học không chỉ là dạy kiến thức mà còn
phải bồi dưỡng cho các em lòng say mê học tập ,ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Vì thế tôi đã luôn chủ động đểáp dụng các kĩ thuật dạy học mới trong những giờ
dạy của mình. Sau đây là một số tiết dạy có áp dụng các kỹ thuật đó. Và chính nhờ
áp dụng các kỹ thuật này mà tôi đã đạt được nhiều thành tích trong giảng dạy.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Các bước thực hiện dạy học theo nghiên cứu bài học
Bước 1: Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
Giáo viên cần xác định mục tiêu kiến thức và kỹ năng mà HS cần đạt được
khi tiến hành nghiên cứu (theo chuẩn kiến thức, kỹ năng ở từng môn học), đảm
bảo phu hơp vơi trinh đô cua học sinh, năng lưc chuyên môn cua giáo viên.
Các giáo viên trong tổ thao luân chi tiêt về thể loại bài học, nội dung bài học,
cac phương pháp, phương tiện dạy học đat hiêu qua cao, cách tổ chức dạy học
5



phân hóa theo năng lực của học sinh, cách rèn kỹ năng, hướng dẫn học sinh vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết tình huống thực tiễn…
Dự kiến những thuận lợi, khó khăn của học sinh khi tham gia các hoạt động
học tập và các tình huống xảy ra và cách xử lý (nếu có)…
Bước 2. Tiến hành bài giảng minh họa (BGMH) và dự giờ
Sau khi hoàn thành giáo án của bài học nghiên cứu chi tiết, một giáo viên sẽ
dạy minh họa bài học nghiên cứu (BGMH) ở một lớp học cụ thể, các GV còn lại
trong nhóm tiến hành dự giờ và ghi chép thu thập dữ kiện về bài học.
Giáo viên dự giờ phải đảm bảo nguyên tắc: Không làm ảnh hưởng đến việc
học tập của học sinh; không gây khó khăn cho giáo viên dạy minh họa; khi dự giờ
phải tập trung vào việc học của học sinh, cách phản ứng của học sinh trong giờ
học, cách làm việc nhóm học sinh, những khó khăn vướng mắc, thái độ tình cảm
của học sinh… Quan sát tất cả đối tượng học sinh, không được “bỏ rơi” một học
sinh nào.
Giaó viên cần từ bỏ thói quen đánh giá giờ qua hoạt động của giáo viên dạy,
người dự cần học tập, hiểu và thông cảm với khó khăn của người dạy. Đặt mình
vào vị trí của người dạy để phát hiện những khó khăn trong việc học của HS để tìm
cách giải quyết.
Luyện tập cách quan sát và suy nghĩ về việc học của học sinh trong giờ học,
có khả năng phán đoán nhanh nhạy, chính xác để điều chỉnh việc dạy phù hợp, việc
học của học sinh.
Thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cảm nhận của giáo viên về học sinh trong
từng hoàn cảnh khác nhau.
Hình thành thói quen lắng nghe lẫn nhau; rèn luyện cách chia sẻ ý kiến, từ đó
hoàn thành mối quan hệ đồng nghiệp thân thiện, cộng tác và học tập lẫn nhau.
Để thực hiện thành công hoạt động này giáo viên cần thực hiện các giai đoạn sau:

Giai đoạn 1. Định hướng học tập
Giáo viên giới thiệu trước cả lớp về nội dung cơ bản của chủ đề học tập. Tổ

chức học sinh học tập theo nhóm (4 đến 6 học sinh), phổ biến, quán triệt tinh thần
học tập nhóm để học sinh năm và làm việc hiệu quả.
Giai đoạn 2. Tổ chức nghiên cứu bài học
Hoạt động 1. Chuyển giao nhiệm vụ học tập : nhiệm vụ học tập rõ ràng và
phù hợp với khả năng của học sinh, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà học sinh
phải hoàn thành khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp
dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh; đảm bảo cho tất cả học sinh
tiếp nhận và sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ [2]
Hoạt động 2. Thực hiện nhiệm vụ học tập: khuyến khích học sinh hợp tác
với nhau khi thực hiện nhiệm vụ học tập, phát hiện kịp thời những khó khăn của
học sinh và có biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không có học sinh bị "bỏ quên".
[2]
Hoạt động 3. Báo cáo kết quả và thảo luận : hình thức báo cáo phù hợp với
nội dung học tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; khuyến khích cho học
6


sinh trao đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập, xử lí những tình huống sư
phạm nảy sinh một cách hợp lí [2].
Hoạt động 4. Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập : nhận xét về
quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh; phân tích, nhận xét, đánh giá
kết quả thực hiện nhiệm vụ và những ý kiến thảo luận của học sinh; chính xác hóa
các kiến thức mà học sinh đã học được thông qua hoạt động [2].
Bước 3: Suy ngẫm, thảo luận về BGMH
Đây là công việc có ý nghĩa quan trọng trong SHCM, là yếu tố quyết định chất
lượng và hiệu quả của sinh hoạt chuyên môn, TTCM cần phát huy được vai trò, năng
lực của người chủ trì, động viên toàn bộ giáo viên trong tổ tham gia đóng góp
ý kiến cho BGMH, cần nhấn mạnh những điểm nổi bật và không xếp loại giờ dạy.
Bước 4: Áp dụng
Trên cơ sở BGMH giáo viên nghiên cứu vận dụng, kiểm nghiệm những vấn

đề đã được dự giờ và thảo luận, suy ngẫm áp dụng vào bài học hàng ngày cho phù
hợp, đạt hiệu quả tốt.
2.2.3. Các kỹ thuật dạy học theo nghiên cứu bài học
Trong một giờ dạy giáo viên có thể sử dụng một hay nhiều kĩ thuật dạy học
mới miễn làm sao phù hợp với nội dung bài dạy, đem lại hứng thú, sự say mê, phát
huy tính tối đa, tính tích cực của học sinh.
Kỹ thuật huy động tư duy (động não tập thể)
Đây là một hình thức học có thể áp dụng cho bất kỳ một tiết dạy nào. Huy
động tư duy là một kỹ thuật nhằm huy động những ý tưởng mới những kiến thức
cần sự phối hợp nhiều người trong lớp. Các thành viên được cổ vũ tham gia một
cách tích cực thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể.
Kỹ thuật huy động tư duy thường được cụ thể bằng hoạt động nhóm. Đây là
cách tổ chức giờ học không chỉ giúp học sinh củng cố, phát huy kiến thức mà còn
nhằm phát triển tình bạn, ý thức tổ chức kỉ luật, tính tập thể, tinh thần tương trợ,
hợp tác, ý thức cộng đồng, tạo không khí, niềm vui trong học tập.
Học tập theo nhóm làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết
những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để
hoàn thành nhiệm vụ chung. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện
như cầu hợp tác xuyên quốc gia, năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo
dục mà giáo viên phải hình thành được cho học sinh trong các giờ học.
Tôi đã áp dụng kĩ thuật dạy học theo nhóm trong nhiều giờ dạy kể cả phần
đọc hiểu văn bản, Tập làm văn và Tiếng Việt đặc biệt của nhất là đối với các bài
tập Tiếng Việt hay phần ôn tập thì học theo nhóm là vô cùng cần thiết.
Ví dụ 1: Khi dạy tiết 47: “Luyện tập xây dựng bài tự sự - kể chuyện đời
thường” [3].
Phần lập dàn bài cho một đề văn tự sự: giáo viên ra cùng một đề bài như
nhau, giáo viên có thể chia lớp thành 3 nhóm để các em cùng lập một dàn bài. Sau
đó đối chiếu, so sánh kết quả, chắt lọc các ý tốt của mỗi nhóm để hình thành một
dàn bài hoàn chỉnh.
7



Hoặc cho 3 đề khác nhau, mỗi nhóm lập dàn bài cho một đề. Sau đó các nhóm
quan sát bổ sung cho dàn bài của nhóm bạn.
Hoạt động nhóm trong giờ Tập làm văn giáo viên sẽ huy động được sự tham gia
hợp tác của tất cả học sinh trong lớp. Mỗi em dù ít hay nhiều cũng sẽ cung cấp cho
nhóm của mình được những thông tin về yêu cầu của bài tập để chứng tỏ khả năng
bản thân. Biết tổ chức hoạt động nhóm tốt giáo viên sẽ thành công trong giờ dạy.
Ví dụ 2: Khi dạy tiết 32 trong chương trình địa phương phần tiếng Việt lớp 8:
“Từ ngữ địa phương Thanh Hóa” [4] .
Nếu không tổ chức hoạt động nhóm thì chúng ta không thể hoàn thành được
bài dạy ở phần tìm hiểu về các từ ngữ chỉ các quan hệ thân thích ruột thịt của
Thanh Hóa và các địa phương khác.
Trong tiết dạy này ở phần I: Tôi đã chia lớp học thành 3 nhóm chia trước bài
tập ở nhà để các em tìm hiểu .Các nhóm đã hoạt động rất tích cực trong giờ học
.Các em đã thể hiện tinh thần hợp tác cao, trách nhiệm của cá nhân đối với nhóm
của mình. Giờ dạy sôi nổi và đạt kết quả tốt.
Đến phần 2 (luyện tập ) Riêng bài tập 1 tôi vẫn cho học sinh làm việc cá nhân
và trả lời tại chỗ. Các học sinh khác bổ sung cho ý kiến của bạn. Nhưng sang bài
tập 2 gồm rất nhiều câu hỏi nhỏ phải tổ chức hoạt động nhóm mới giải quyết hết
được bài tập.
Ví dụ 3: Khi dạy phần văn bản cũng có thể tổ chức hoạt động nhóm .Ví dụ
như bài “Ôn tập truyện dân gian” [3], nếu không sử dụng kỹ thuật hoạt động nhóm
giờ học cũng sẽ rất buồn tẻ và đơn điệu.
Ở câu hỏi 2 giáo viên có thể cho các nhóm thi kể chuyện dân gian. (Mỗi
nhóm kể một thể loại). Các thành viên trong nhóm sẽ bắt thăm để được lên kể
chuyện trước lớp chứkhông tựcử người kể chuyện. Như vậy vừa tạo sự hồi hộp bất
ngờ, vừa kích thích được tinh thần hăng say học tập của học sinh.
Đối với câu hỏi 4, 5: Trao đổi ý kiến ở lớp nêu và minh họa một số đặc điểm
tiêu biểu của từng thể loại truyện dân gian hay so sánh điểm giống và khác nhau

giữa các thể loại dân gian giáo viên cũng nên tổ chức cho học sinh hoạt động theo
nhóm biến giờ học thành một buổi xê mi na nhỏ, tạo được sự tranh luận, đóng góp
ý kiến giữa các nhóm với nhau.
Qua cách tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh tôi nhận thấy rằng dạy học
theo nhóm nghiên cứu bài học không chỉ thu được kết quả về mặt kiến thức mà còn
xây dựng cho học sinh các kỹ năng cần thiết. Bằng cách nói ra những điều đang
nghĩ mỗi người có thể hiểu nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề hay bài
tập đưa ra, nhận thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học sẽ trở thành quá
trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ đông từ giáo viên. Do
đó hoạt động nhóm thực sự cần thiết trong các giờ học nói chung và giờ học Ngữ
văn nói riêng.
Kỹ thuật phòng tranh
Đây là một kỹ thuật dạy học tuyệt vời đối với môn Ngữ Văn. Kỹ thuật phòng
tranh sẽ tích hợp được với rất nhiều các môn học theo như môn Mĩ thuật, môn toán
học …
8


Kỹ thuật phòng tranh không chỉ đơn giản là những bức tranh ảnh được trưng
bày mà cả các sơ đồ, lược đồ, các ý kiến, ý tưởng của người học được đưa lên.
Kỹ thuật phòng tranh giúp thu thập, phát triển ý tưởng chủ kiến về một chủ đề
một nội dung quan tâm của các học sinh trong lớp kỹ thuật phòng tranh có thể kết
hợp với hoạt động nhóm các thành viên sẽ phác họa những ý kiến, ý tưởng của
mình về một chủ đề, một nội dung quan tâm của các học sinh trên lớp.
Kỹ thuật phòng tranh có thể kết hợp với kỹ thuật hoạt động nhóm.Các thành
viên sẽ phác họa những ý kiến ý tưởng của mình về vấn đề lên từ bìa, tờ giấy rồi
dính lên bàn, lên tường lên bảng như một triển lãm tranh.
Sau khi triển lãm tranh, các thành viên sẽ vận dụng khả năng thuyết trình để
trình bày ý tưởng của nhóm mình.
Trong giai đoạn đánh giá tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và

lựa chọn đưa ra phương án tối ưu.
Một số ví dụ về các lý giải sử dụng kỹ thuật phòng tranh:
Ví dụ 1: Trở lại tiết 53, 54 “ Bài ôn tập truyện dân gian ” [3] ngoài kỹ thuật
huy động tư duy giáo viên có thể sử dụng thêm kỹ thuật phòng tranh. Giáo viên
giao cho học sinh về nhà tưởng tượng ra các hình ảnh trong truyện dân gian để vẽ
lại.
Cảnh Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay nhau.
Cảnh Sơn Tinh -Thủy Tinh giao chiến.
Hình ảnh Thánh Gióng lẫm liệt trong chiến trận.
Hình ảnh Mã Lương…
Sau khi vẽ xong, giáo viên yêu cầu học sinh thuyết trình về nội dung ý nghĩa
bức tranh của nhóm mình. Những thông điệp tâm tư, tình cảm mà các em gửi gắm
qua bức tranh được thể hiện bằng những nét vẽ rất đáng yêu, ngộ nghĩnh nhưng
cũng đầy tài hoa. Chính vì kết hợp được với việc sử dụng kỹ thuật phòng tranh
trong giờ dạy nên học sinh rất tích cực và hào hứng, các em bị cuốn hút bởi những
bức tranh đẹp đẽ phác thảo các nhân vật trong truyện dân gian.
- Với tiết dạy này khi sử dụng kỹ thuật phòng tranh giáo viên còn có thể cho
các em học sinh của mình kể chuyện theo tranh. Những câu chuyện được kể theo
tranh bao giờ cũng đảm bảo về nội dung lại rất linh hoạt trong từng lời kể.
Ví dụ 2: Khi dạy tiết 72, 73 “Bài học đường đời đầu tiên” [3] giáo viên cũng
có thể sử dụng kỹ thuật phòng tranh. Yêu cầu học sinh phác thảo lại chân dung Dế
Mèn qua nét bút miêu tả của nhà văn Tô Hoài.
Kỹ thuật phòng tranh trong tiết dạy này còn áp dụng được cho cả tiết tập làm
văn 79 - 80: Quan sát tưởng tượng so sánh và nhận xét trong văn miêu tả.
Học sinh đã vẽ Dế Mèn bằng cách cảm nhận qua các từ ngữ, hình ảnh mà nhà
văn Tô Hoài phác thảo. Nhưng đồng thời các em còn vẽ bằng cả tấm lòng và trái
tim của chính mình nữa. Nhiều em đã bày tỏ tình cảm của mình qua các nét vẽ rất
ngộ nghĩnh dễ thương, khi được thuyết trình ý tưởng càng thấy rõ quan điểm của
các em đối với nhân vật được thể hiện qua từng chi tiết nhỏ trong bức tranh.
9



Việc sử dụng kỹ thuật phòng tranh không chỉ tạo hứng thú cho các em học
sinh lớp 6 mà đối với các em học sinh khối lớp trên cũng rất say mê.
Ví dụ 3: Khi dạy bài “Bạn Đến Chơi Nhà” của Nguyễn Khuyến [5] tôi đã đề
nghị các em vẽ khu vườn của Nguyễn Khuyến. Các em đã vẽ được một khu vườn
tràn đầy sự sống với đủ cả cà, cải, bầu, mướp, một chiếc ao xinh xắn có cả bóng cá
quẫy đuôi. Cảnh hai người bạn già thong dong nắm tay nhau dạo trong vườn thật là
đẹp. Một phòng tranh được trưng bày với những lời bình sâu sắc khiến cho giờ học
văn tràn đầy khí thế.
Kỹ thuật phòng tranh còn được sử dụng kiểu khai thác tranh giống như một
đồ dùng trực quan trong dạy học. Cách dạy này tiện dụng, dễ dàng, có thể vận
dụng cho nhiều tiết học khác nhau.
Ví dụ 4: Khi dạy tiết 78 - 79 “Quan sát tưởng tượng, nhận xét so sánh trong
văn miêu tả ” [3] giáo viên có thể sử dụng các bức tranh sau đây để treo lên cho
học sinh quan sát và phát hiện.
Tranh 1: Cảnh sông nước Cà Mau.
Tranh 2: Cảnh dượng Hương Thư vượt thác.
Tranh 3: Cảnh chú bé Lượm đi liên lạc trong bài thơ Lượm của Tố Hữu.
Tranh 4: Cảnh đảo Cô Tô (trong văn bản Cô Tô của Nguyễn Tuân).
Từ các bức tranh trên học sinh sẽ hình thành một cách dễ dàng kỹ năng quan sát,
tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả. Chắc chắn kiểu dạy này sẽ giúp
học sinh tiếp cận kiến thức dễ hơn các dữ liệu trừu tượng trong sách giáo khoa.
Như vậy kỹ thuật phòng tranh nếu được sử dụng phù hợp sẽ đem lại hiệu quả
cao cho giờ dạy của giáo viên. Học sinh sẽ phát huy được sở trường năng lực được
bộc lộ quan điểm ý kiến quan điểm của mình bằng hình ảnh hoặc thông qua hình
ảnh cụ thể. Đây chỉ là một dạng nhỏ trong việc sử dụng kỹ thuật phòng tranh mà
tôi muốn nói đến. Trên thực tế bản thân tôi và các đồng chí trong tổ chức chuyên
môn của nhà trường đã áp dụng kĩ thuật dạy học này rất thành công.
Kĩ thuật các mảnh ghép

Đây cũng là kĩ thuật dạy học mới được đưa ra trong mấy năm gần đây. Một
kỹ thuật dạy học tạo được sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các thành viên trong
lớp. Bởi mỗi người với ý kiến riêng của mình chỉ là một mảnh ghép. Phải tập hợp
được ý kiến của rất nhiều người thì mới tạo được sự hoàn chỉnh. Kỹ thuật dạy học
này có nhiều nét tương đồng với kỹ thuật khăn phủ bàn.
Vận dụng kỹ thuật các mảnh ghép thường phù hợp với việc hình thành khái
niệm trong các giờ tiếng Việt.
Ví dụ 1: Khi giải bài “Danh từ” [3]. Giáo viên có thể sử dụng kĩ thuật các
mảnh ghép.
Phần thứ nhất của bài có tên gọi: Danh từ là gì?
Học sinh lần lượt đưa ra các ý kiến sau thông qua ví dụ:
- Là những từ chỉ người vật.
- Là những từ chỉ khái niệm.
- Là những từ chỉ hiện tượng.
10


- Kết hợp với số từ đứng trước, chỉ từ đứng sau.
- Thường làm chủ ngữ trong câu.
- Khi làm vị ngữ có từ “là” đứng trước.
Mỗi ý kiến được đưa ra là một mảnh ghép nhỏ, khi tất cả các mảnh ghép này
khớp lại với nhau sẽ tạo thành một khái niệm hoàn chỉnh về danh từ.
Nếu giáo viên sử dụng máy chiếu và đưa ra từng ý một theo các mảnh hình
vuông nhỏ sau ghép lại thành một hình vuông lớn thì bài học sẽ rất sinh động.
Đối với phần Văn, chúng ta cũng vẫn có thể sử dụng kỹ thuật này để dạy để
tạo nên sự hồi hộp cho học sinh trong giờ học.
Ví dụ 2: Khi dạy văn bản: “Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng” [3]. Phần bài học và
ý nghĩa sâu sắc mà tác giả dân gian muốn gửi gắm đến mọi người là gì?
- Sau câu hỏi của giáo viên, học sinh sẽ đưa ra rất nhiều ý kiến
như: + Đó là sự gắn bó, mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể.

+ Là quan hệ giữa các thành viên với gia đình.
+ Con người với cộng đồng.
+ Mình vì mọi người mọi người vì mình...
Sau đó giáo viên tổng hợp các ý kiến của học sinh (mỗi ý kiến chính là một
mảnh ghép nhỏ) để tạo nên sự hoàn chỉnh cho nội dung bài học.
Khi vận dụng kỹ thuật các mảnh ghép giáo viên cần phải có sự khéo léo trong
dẫn dắt, khích lệ học sinh đưa ra ý kiến của mình. Học sinh đưa càng nhiều ý kiến
càng tốt (nhưng nhất thiết phải phù hợp với nội dung và thời gian cho phép của giờ
học) . Cuối cùng giáo viên phải biết chắt lọc và khái quát phân tích, kết luận để
học sinh thấy được sự đúng sai trong ý kiến của mình.
Khi sử dụng các mảnh ghép giáo viên cũng có thể phân học sinh thành các
nhóm thảo luận tìm hiểu sâu về một vấn đề của bài học. Chẳng hạn nhóm 1 thảo
luận vấn đề A, nhóm 2 thảo luận vấn đề B, nhóm 3 thảo luận vấn đề C, nhóm 4
thảo luân vấn đề D.
Giáo viên điều khiển học sinh thảo luận nhóm về vấn đề đã được phân công.
Sau đó, mỗi thành viên của nhóm này sẽ tập hợp thành các nhóm mới. Như vậy
trong nhóm mới sẽ có đủ các “chuyên gia” về vấn đề A, B, C, D... Và mỗi “chuyên
gia” về từng vấn đề sẽ có trách nhiệm trao đổi lại với cả nhóm về vấn đề mà em đã
có cơ hội tìm hiểu sâu ở nhóm cũ.
Ví dụ 3: Khi dạy “Truyện Kiều” của Nguyễn Du [6], tôi chia lớp thành 4 nhóm:
Nhóm 1: Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Du.
Nhóm 2: Tìm hiểu chung về Truyện Kiều (nguồn gốc, xuất xứ. độ dài. thể
loại, tên gọi của truyện, so sánh điểm khác biệt giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du
và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm tài nhân Trung Quốc).
Nhóm 3: Tóm tắt Truyện Kiều.
Nhóm 4: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều.
Sau đó sẽ chia lại nhóm: Một học sinh ít nhất sẽ được tìm hiểu hai nội dung và
sẽ là “chuyên gia” cho nhóm mới về vấn đề mà em đã được tìm hiểu ở nhóm trước
11



đó (ví dụ: Em Dụ lúc đầu ở nhóm 1, sau em sang nhóm 4 em sẽ tư vấn cho các bạn
về phần tác giả Nguyễn Du mà em đã tìm hiểu khi là thành viên của nhóm 1).
Như vậy, kỹ thuật các mảnh ghép cũng rất phong phú và đa dạng. Nhưng
thông thường chúng ta nên sử dụng kiểu trả lời theo từng mảnh ghép nhỏ sau đó
tạo thành mảnh ghép lớn thì học sinh dễ hoạt động hơn. cách dạy này cũng có thể
áp dụng với trò chơi ô chữ trong phân môn Tiếng Việt hoặc phân môn đọc hiểu văn
bản.
Kỹ năng động não
Động não là kỹ thuật giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh
được những ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành viên được
cổ vũ tham gia một cách tích cực không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra cơn lốc
các ý tưởng).
Động não thường được:
- Dùng trong giai đoạn giới thiệu về một chủ đề.
- Sử dụng để tìm các phương án giải quyết vấn đề.
- Dùng để thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác
nhau. Động não có thể tiến hành theo các bước sau:
Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề (có nhiều cách trả lời) cần được tìm hiểu
trước cả lớp hoặc cả nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp các ý kiến ngày càng nhiều càng tốt.
- Liên hệ tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to không loại trừ một ý kiến
nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại các ý kiến.
- Làm sáng tỏ các ý kiến chưa rõ ràng.
- Tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận.
Ví dụ 1: Khi dạy tiết 1-2: Văn bản “Phong Cách Hồ Chí Minh” [6] của tác giả
Lê Anh Trà: Giáo viên dẫn dắt học sinh tìm hiểu vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh:
Đó là sự kết hợp tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc và nhân loại.
Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh: Động não suy nghĩ về vẻ đẹp, phong cách

Hồ Chí Minh, rút ra những bài học thiết thực về lối sống cho bản thân từ tấm
gương Hồ Chí Minh.
- Vẻ đẹp của phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa cái bình thường
giản dị với cái vĩ đại.
- Đó là một phong cách sống bình thường nhưng không tầm thường, giản dị
nhưng không giản đơn, thể hiện bởi sự giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc hòa quện
với văn hóa tinh hoa của thời đại trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Học tập về đạo đức, lối sống, phong cách Hồ Chí Minh mỗi người tự suy nghĩ
và điều chỉnh lối sống của mình (từ cách ăn, mặc, sử dụng vật chất, năng lực phấn
đấu vươn lên trong cuộc sống tinh thần, vượt qua gian khổ khó khăn chiến thắng
hoàn cảnh của chính là bản thân mình.
12


Ví dụ 2: Khi dạy bài “ Mùa Xuân Nho Nhỏ ” của Thanh [6] giáo viên cũng có
thể sử dụng kỹ thuật động não, giáo viên bắt đầu dẫn dắt học sinh từ khát vọng
được cống hiến, được hòa nhập của nhà thơ để yêu cầu cá nhân các học sinh trong
lớp động não bộc lộ ý kiến cá nhân thể hiện suy nghĩ về những gì cần làm để góp
phần nhỏ bé có ý nghĩa vào cuộc sống.
Rất nhiều ý kiến được đưa ra sau khi yêu cầu học sinh động não. Trong đó có
những ý kiến gắn liền với các yêu cầu cuộc sống thực tiễn hiện nay:
- Giúp đỡ những bạn có hoàn cảnh khó khăn trong lớp.
- Tham gia bảo vệ môi trường.
- Tuyên truyền phòng chống các tệ nạn xã hội.
- Sẵn sàng bảo vệ biển, đảo quê hương (Trường Sa, Hoàng Sa).
Như vậy kỹ thuật động não cũng là một kỹ thuật dạy học hết sức tích cực. Nó
đơn giản hơn so với các kĩ thuật dạy học khác bởi không phải thảo luận, không phải
chuẩn bị nhiều đồ dùng. Và kỹ thuật này cũng thu được kết quả khả quan trong quá
trình học tập. Giáo viên và học sinh sẽ gần gũi nhau, hiểu nhau nhiều hơn.
Trên đây là một trong rất nhiều kĩ thuật dạy học mới được đưa ra và đã được

áp dụng trong những năm gần đây. Tùy theo kiến thức giờ học, năng lực của giáo
viên và đặc điểm học sinh mà chúng ta có thể vận dụng cho phù hợp đem đến kết
quả tốt cho giờ dạy của mình.
2.4. Hiệu quả của SKKN
Áp dụng phương pháp dạy học theo nghiên cứu bài học tôi đã gặt hái được
những thành công nho nhỏ bước đầu trong nghề nghiệp của mình. Đặc biệt trong
các tiết dạy thay, các giờ chỉ đạo thao giảng của giáo viên Ngữ văn tại trường
THCS Trung Sơn, Quan Hóa.
Trước hết đối với bản thân: Đã thay đổi được lối tư duy mòn cũ trong giảng
dạy, tạm biệt được kiểu “sách in, mõ tre” . Bản thân tôi cũng đã phải vận động
không ngừng để có được những giáo án dạy học tích cực. Chính khả năng làm việc
trong môi trường mà cả thầy và trò cùng vận động đã khiến tôi thấy mình nhanh
nhạy và tự tin hơn. Qua đó tôi củng cố và trang bị thêm kinh nghiệm trong công
tác chỉ đạo, quản lý chuyên môn và đánh giá giờ dạy cũng như góp ý cho giáo viên
trong nhà trường.
Đối với đồng nghiệp: Mỗi lần xây dựng giáo án, dự giờ góp ý và chỉ đạo các
đồng chí trong tổ chuyên môn tình cảm đồng chí, đồng nghiệp thêm gắn bó.
Đối với nhà trường: Học sinh hứng thú nhiều hơn say mê và mong muốn được
học giờ văn nhiều hơn. Không còn cảnh các em ngại học và thụ động như trước.
3. Kết luận, kiến nghị
Việc vận dụng phương pháp dạy học theo nghiên cứu bài học là một yêu cầu
tất yếu trong việc dạy học hiện nay. Đó không phải là một mong muốn chủ quan,
một phong trào quần chúng với sự tự nguyện mà là một yêu cầu khách quan cấp
thiết có cơ sở pháp lý, lý luận thực tiễn đối với mọi trường học, mọi giáo viên. Đổi
mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề cốt yếu nâng cao chất lượng dạy
13


học và là một trong những mục tiêu quan trọng cải cách giáo dục ở nước ta hiện
nay.

Qua kết quả học tập của các em học sinh trường THCS Trung Sơn - nơi cao
nhất của vùng cao huyện Quan hóa tôi nhận thấy thông qua nghiên cứu bài học họa
sinh cảm thấy tập trung hơn vào bài học và tăng sự thích thú trong việc học Ngữ
văn của mình và các giáo viên mình quản lý. Các em hiểu sâu hơn về nội dung
kiến thức của bài học. Việc vận dụng phương pháp này có tác động tới kết quả học
tập và quá trình học tập, kỹ năng của học sinh trong môn Ngữ văn.
Trên đây là một sáng kiến nhỏ của riêng bản thân tôi. Tôi muốn đưa ra để các
bạn động nghiệp cùng xây dựng và góp ý. Tôi rất mong được sự góp ý của cấp trên
và các bạn đồng nghiệp để có thể nâng cao được chất lượng môn Ngữ văn bằng
phương pháp dạy học theo nghiện cứu bài học.
Tôi xin cam đoan sáng kiến này do tự tôi viết bằng tâm huyết và sự trải
nghiệm của bản thân.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNGQuan Hóa, ngày 02 tháng 4 năm 2018
KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNGTôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội
dung của người khác.
Người viết

Lưu Tuấn Anh

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nghị quyết số số 29-NQ/TW
[3] Tài liệu tập huấn sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học của Thanh Hóa.


[3] Sách giáo khoa ngữ văn 6 – Nhà xuất bản giáo dục năm 2011.
[4] Sách giáo khoa ngữ văn 8 – Nhà xuất bản giáo dục năm 2011.
[5] Sách giáo khoa ngữ văn 7 – Nhà xuất bản giáo dục năm 2011.
[6] Sách giáo khoa ngữ văn 9 – Nhà xuất bản giáo dục năm 2011.

1
5



×