Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN sử dụng phương tiện hỗ trợ dạy học trong môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.92 KB, 24 trang )

Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ
Để nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ
thông, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, việc sử dụng phương tiện
hỗ trợ dạy học là vô cùng cần thiết.
Môn ngữ văn là một môn học có vai trò quan trọng trong nhà trường
phổ thông. Nó không chỉ quyết định đến việc đánh giá, xếp loại học sinh, là
một môn chính trong các môn thi tốt nghiệp THPT, là một môn trong một
số khối thi của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp mà quan trọng hơn,
môn văn có ảnh hưởng lớn tới việc hình thành nhân cách của học sinh.
Vài năm trở lại đây, việc dạy học môn ngữ văn đang trở thành một
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt cần được xã hội quan tâm. Vì trên thực
tế, đa số học sinh hiện nay rất ít quan tâm đến môn ngữ văn, các môn khối
c, các em đều chọn các môn tự nhiên để làm con đường lập thân của mình,
có nhiều trường để chọn, sau này có nhiều ngành nghề dễ xin việc làm,
lương cao. Thực tế trên đến năm 2011 đã trở nên đến mức báo động vì
nhiều trường đại học không đủ chỉ tiêu thí sinh đăng kí khối c, nhiều trường
THPT tất cả vài trăm học sinh nhưng chỉ có ít học sinh đăng kí thi khối c.
Có nhiều học sinh ( có cả sự định của gia đình), nếu không thi đỗ đại học
thì học trung cấp chứ không thi khối c, nhiều học sinh không có khả năng
học khối a nhưng các bậc phụ huynh cứ ép con em mình học.
Hiện tượng trên khá phổ biến, có lẽ không chỉ ở trường tôi mà trở
thành hiện tượng chung trong nhà trường phổ thông. Nhiều học sinh hầu
như không học văn, nhiều tiết dạy học văn trôi đi trong mệt mỏi, chán nản
cho cả cô và trò. Trong khi đó, môn văn lại có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc bồi dưỡng tâm hồn và nhân cách cho con người, việc đổi mới
chương trình ngữ văn THPT lại chú ý đào tạo toàn diện kĩ năng cho con
người.
Đứng trước tình hình đó, đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao
chất lượng dạy học đang là một vấn đề được các cấp lãnh đạo, nhà trường
1
và các giáo viên quan tâm. Vấn đề này cũng được triển khai trong các đợt


tập huấn chuyên đề, tập huấn sách giáo khoa nhiều năm qua. Cốt lõi là lấy
người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên
cần nhìn thẳng vào thực tế để đánh giá vấn đề cho đúng. Đổi mới phương
pháp dạy học cũng còn phải áp dụng linh hoạt với từng đối tượng học sinh.
Lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh
là cốt lõi của phương pháp dạy học mới. Tuy nhiên, có thể làm cho người
học tích cực, chủ động không quả thực là vấn đề nan giải. Đối tượng học
sinh trường tôi chủ yếu là con em dân tộc, hầu như không đề cao việc học.
Nhận thức đa số ở mức trung bình. Nhiều em không biết viết một bài văn
đúng bố cục ba phần, đi học phần lớn là không soạn bài, không học bài.
Hơn nữa, các em luôn quan niệm văn dài khó học.Vì vậy, tôi luôn trăn trở
để có thể nâng cao chất lượng dạy học môn ngữ văn, thu hút, thay đổi cách
nhìn của các em về môn học. Năm 2011, tôi đã viết sáng kiến về việc dạy
học ngữ văn qua các trò chơi nhằm tạo cho các em một sân chơi bổ ích,
Năm 2012, tôi đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học bằng việc sử dụng
các phương tiện hỗ trợ dạy học để nâng cao chất lượng. Qua quá tình sử
dụng, tôi nhận thấy hiệu quả rõ rệt nên mạnh dạn trình bày trong sáng kiến
của mình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, việc ứng dụng CNTT trong tiết
dạy học ngữ văn đã đem đến hiệu qủa đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh ưu
điểm, dạy học bằng CNTT, đặc biệt trong môn ngữ văn cũng còn một số
hạn chế, và không phải bài nào cũng ứng dụng được. Chính vì vậy, tôi vẫn
cho rằng, việc chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ dạy học đơn giản nhưng
hiệu quả trong môn ngữ văn là vô cùng cần thiết. Vì vậy, tôi đã chọn sáng
kiến này. Trong khuôn khổ của sáng kiến, tôi xin trình bày việc sử dụng
bảng biểu, sơ đồ trong một số nội dung môn ngữ văn mà bản thân đã có dịp
sử dụng.
2
Phần thứ hai: NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận và thực tiến.

2.1.1. Cơ sở lí luận.
- Khái niệm về phương tiện dạy học:
Phương tiện dạy học là các phương tiện được sử dụng trong quá trình
dạy học, bao gồm các đồ dùng dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dùng
trong dạy học, các thiết bị hỗ trợ và các điều kiện cơ sở vật chất khác.
Phương tiện dạy học gồm nhiều loại: tranh ảnh, sơ đồ, bảng biểu. Tuy
nhiên, phương tiện dạy học mà bản thân tôi đã sử dụng nhiều và có kết quả
nhất là sơ đồ, bảng biểu. Tôi thấy, phương tiện này rất phù hợp trong một
số nội dung của môn ngữ văn.
- Vai trò của việc sử dụng phương tiện hỗ trợ dạy học trong dạy học
ngữ văn: Sử dụng các phương tiện hỗ trợ dạy học trong các môn học nói
chung và môn ngữ văn nói riêng mang lại rất nhiều hiệu quả to lớn. Không
những làm cho bài học sinh động, thu hút sự chú ý của học sinh, mà còn
củng cố, khắc sâu được kiến thức trọng tâm, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Trong một vài năm trở lại đây, nhiều đồng chí giáo viên đã thực sự
tâm huyết, nỗ nực tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học để có thể nâng cao
chất lượng dạy học ngữ văn, thu hút các em học sinh đến với môn học.
Cũng như các môn học khác, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
ngữ văn đang được nhiều đồng chí giáo viên quan tâm vì nó đã đem lại
những hiệu quả đáng kể. Rất nhiều tiết học đã đạt được hiệu quả to lớn vì
phát huy được ưu thế của công nghệ thông tin, sử dụng được hình ảnh, âm
thanh không thể diễn đạt được bằng phương pháp thông thường, sử dụng
được hệ thống bảng biểu, sơ đồ, nhấn mạnh trọng tâm kiến thức bằng kênh
chữ kiểu chữ… Ví dụ các bài “ bản tin”, “ phỏng vấn và trả lời phỏng vấn”,
“ Viết quảng cáo”, “ Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt”…
3
Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm nêu trên, dạy học bằng công nghệ
thông tin còn tồn tại rất nhiều hạn chế. Môn ngữ văn là môn nghệ thuật

ngôn từ. Chức năng của nó là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Thông
qua lớp ngôn từ, yếu tố đầu tiên của văn học, bằng sự liên tưởng, tưởng
tượng, người học khám phá các tầng ý nghĩa sâu xa cuả nó. Vì vậy, có
những đơn vị kiến thức cần phải để học sinh phát huy vai trò của trí tưởng
tượng. Để học sinh tưởng tượng hình ảnh sóng qua việc cảm nhận ngôn từ
hơn là chiếu hình ảnh sóng lên màn hình. Để học sinh tưởng tượng hình
ảnh Chí Phèo trong hình hài con quỷ dữ của làng Vũ Đại hơn là chiếu phim
để lúc nào trong đầu nó Chí Phèo chính là nhân vật đóng trong phim…
Hơn nữa, hiểu, tạo hứng thú không phải là mục tiêu cuối cùng của môn văn
mà từ việc hiểu để rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng tâm hồn, ước mơ, giáo
dục nhân cách cho học sinh. Vì vậy, nếu áp dụng dạy học công nghệ thông
tin tràn lan không những không đạt được hiệu quả mà còn gây phản tác
dụng. Nhiều học sinh đã thực sự cảm thấy mệt mỏi vì học văn công nghệ
thông tin nhiều quá, cô giáo chiếu nhanh quá, không kịp ghi bài, vừa phải
nghe cô giảng, vừa nhìn cô vừa nhìn màn hình. Nhiều tiết học chỉ tạo ra
hứng thú tạm thời chứ không có hiệu quả dài lâu. Có những tiết học, học
sinh chỉ chú ý xem phim, nghe đọc thơ, nghe hát chứ nội dung quan trọng
thì chưa chú ý.
Vấn đề dạy học công nghệ thông tin và ưu nhược điểm của nó đã
được nhiều đồng chí giáo viên tâm huyết thể hiện trong sáng kiến của
mình. Ở đây, tôi chỉ trình bày khái quát để tạo cơ sở cho sáng kiến của tôi.
Mỗi người sẽ có quan điểm riêng trong dạy học CNTT, nhưng riêng tôi, tôi
cho rằng, chỉ nên áp dụng CNTT khi không thể hiện được nội dung bài học
bằng phương pháp thông thường, đặc biệt là các tiết đọc văn, nhất là thơ thì
hạn chế. Tôi có lên mạng tham khảo một số tiết dạy đọc thơ như “ Trao
duyên”, “ chí khí anh hùng”…Toàn bộ giáo án chỉ có “ chữ” và một bức
tranh mô phỏng hình ảnh hai chị em Thuý Kiều, hoặc mô phỏng ảnh Kiều
4
chia tay Từ Hải. Nếu vậy, thì dạy truyền thống sẽ hiệu quả hơn, nhất là các
giáo viên có giọng giảng truyền cảm.

Trường tôi là một trường huyện, cơ sở vật chất còn nghèo, cả trường
chỉ có một máy chiếu có thời gian còn bị hỏng, đa số học sinh là con em
dân tộc Mường, nhận thức ở mức trung bình, nhiều em yếu. Vì vậy không
có điều kiện để chuẩn bị nhiều tiết dạy học bằng CNTT, tôi đã cố gắng
chuẩn bị một số phượng tiện hỗ trợ trong quá trình dạy học ngữ văn của
mình để việc dạy học đạt hiệu quả cao hơn. Từ thực tế dạy học của bản
thân, tôi nhận thấy, đó là những phương tiện đơn giản nhưng rất hiệu quả
trong việc củng cố, khắc sâu kiến thức, phù hợp với đặc trưng bộ môn, phù
hợp với cơ sở vật chất của nhà trường và trình độ nhận thức của học sinh.
Trên thực tế, nhiều đồng chí giáo viên đã sử dụng các phương tiện hỗ
trợ như bảng biểu, sơ đồ, tranh ảnh trong dạy học ngữ văn. Tuy nhiên, việc
sử dụng còn tuỳ hứng và áp dụng chưa thường xuyên nên chưa đạt được
hiệu quả tối ưu. Trong phạm vi của sáng kiến, tôi xin trình bày việc sử
dụng bảng biểu, sơ đồ trong một số tiết học hoặc một số nội dung của môn
học mà bản thân đã có điều kiện sử dụng trong quá trình dạy học.
2.2. Việc sử dụng phương tiện hỗ trợ dạy học trong môn ngữ văn .
2.2.1. Mục đích.
Như tôi đã trình bày, trong phạm vi của sáng kiến, tôi xin trình bày
việc sử dụng bảng biểu, sơ đồ trong dạy học ngữ văn. Mục đích của việc sử
dụng các bảng biểu, sơ đồ này là để hệ thống kiến thức của một tác phẩm,
một giai đoạn hoặc một nội dung nào đó của bài học…Giúp cho việc lĩnh
hội kiến thức của các em học sinh dễ dàng hơn, khắc sâu kiến thức hơn và
tạo hứng thú để thu hút các em yêu thích môn học hơn, nhằm nâng cao chất
lượng dạy học.

5
2.2.2. Phương pháp sử dụng phương tiện hỗ trợ dạy học trong dạy
học ngữ văn.
Môn văn nhìn chung là kiến thức dài, cô giáo phải nói nhiều, có
nhiều phần kiến thức trong một bài học mà học sinh ít em có khả năng nhớ

lâu dài. Vì vậy, tôi đã định hướng một số nội dung có thể sử dụng hệ thống
bảng biểu sơ đồ để giúp học sinh nắm vững kiến thức.
Thứ nhất, có thể dùng bảng biểu, sơ đồ để tóm tắt cốt truyện của một
số tác phẩm văn xuôi, trên cơ sở đó định hướng nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Hoặc tóm tắt về cuộc đời của nhân vật chính. Ví dụ, tóm tắt cốt
truyện của tác phẩm “ Chí Phèo”- Nam Cao, “ Số đỏ”- Vũ Trọng Phụng,
“ Vợ nhặt”- Kim Lân, “ Chữ người tử tù”- Nguyễn Tuân, “ Chiếc thuyền
ngoài xa”- Nguyễn Minh Châu. Trong các bảng biểu, sơ đồ có thể chèn
thêm hình ảnh để tăng phần sinh động, thu hút học sinh. Và sau mỗi bài
học trên lớp, học sinh có thể dán các sơ đồ đó ở góc học tập của mình, hoặc
luôn để trong túi bài kiểm tra hay tài liệu trong cặp mình để kiến thức được
trau dồi thường xuyên.
Thứ hai, có thể dùng bảng biểu, sơ đồ để hệ thống kiến thức của một
phần, một chương, một giai đoạn. Như hệ thống kiến thức phần tiếng việt,
phần làm văn, các giai đoạn văn học. Nó giúp các bài tổng kết, ôn tập đạt
hiệu quả, giúp học sinh khắc sâu kiến thức một cách khoa học, lôgic.
Thứ ba, dùng bảng biểu sơ đồ để hệ thống kiến thức của một số chuyên đề
ôn thi đại học,cao đẳng. Tôi từng ôn thi đại học một số năm. Qua quá trình
ôn thi của bản thân, tôi nhận thấy, đa số học sinh ở trường tôi, khả năng
nắm kiến thức và làm bài chỉ ở mức trung bình. Nhược điểm của các em
trong bài viết là hay bị thiếu ý, khả năng phân tích vấn đề không sâu. Nhiều
vấn đề ôn đi ôn lại nhiều lần mà vẫn không nhớ, khi làm bài vẫn mắc
khuyết điểm là trình bày không khoa học. Ví dụ, đề phân tích giá trị nhân
đạo trong tác phẩm văn học, hay đề phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự
chẳng hạn. Vì vậy, tôi đã hướng dẫn các em làm bảng biểu, sơ đồ để thể
hiện các nội dung trên. Tương tự như thế là các chuyên đề so sánh, dạng đề
6
nâng cao của ôn thi đại học. Ví dụ ôn giá trị nhân đạo của tác phẩm văn
học. Thi đại học các năm nếu hỏi về giá trị nhân đạo thường có 5 tác
phẩm : giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “ Chí Phèo”- nam Cao; “ Hai đứa

trẻ”- Thạch Lam; “ Vợ chồng A Phủ”- Tô Hoài; “ Vợ nhặt”- Kim Lân, “
Chiếc thuyền ngoài xa”- Nguyễn Minh Châu. Tôi đã hướng dẫn học sinh
lập sơ đồ từ biểu hiện chung của giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học
nắm được biểu hiện giá trị nhân đạo trong từng tác phẩm và nhìn vào sơ đồ
có thể thấy khám phá riêng của mỗi nhà văn cùng thời hoặc khác thời. Như
vậy là có thể khắc sâu kiến thức cho các em. Hoặc đề phân tích nhân vật,
có thể làm sơ đồ triển khai các ý cơ bản khi phân tích nhân vật, và từ các ý
đó phân tích các nhân vật hay ra đề thi tốt nghiệp và đại học và cao đẳng.
Triển khai các ý đó vào bài viết sẽ không bị thiếu ý, trình bày lại đảm bảo
tính khoa học, lôgic. Đặc biệt, ở các nhân vật hay ra đề thi so sánh với nhau
thì nhìn vào sơ đồ sẽ thấy điểm chung, riêng rất rõ ràng.
2.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.3.1. Kết quả định lượng.
Sáng kiến là những băn khoăn trăn trở của tôi trong quá trình dạy học của
bản thân. Tôi đã có điều kiện để áp dụng sáng kiến của mình trong quá trình
dạy học và thấy rõ được ưu điểm của nó. Những phương tiện dạy học đơn
giản nhưng lại có hiệu quả đối với giờ dạy. Đặc biệt, tôi thấy rõ sự phù hợp
của những phương tiện đó đối với cơ sở vật chất của nhà trường, chưa có
điều kiện để có thể áp dụng nhiều tiết dạy học bằng công nghệ thông tin.
Tôi đã dùng bảng biểu, sơ đồ trong phần tóm tắt cốt truyện, hoặc thể hiện
một nội dung nào đó như tình huống truyện, giá trị tư tưởng, của một số tác
phẩm văn xuôi trong trường học như “ Chí Phèo”- Nam Cao ( Xem phụ lục
1), “ Chiếc thuyền ngoài xa”- Nguyễn Minh Châu ( Xem phụ lục 2); “ Vợ
nhặt”- Kim Lân ( Xem phụ lục 3); “ Chữ người tử tù”- Nguyễn Tuân ( Xem
phụ lục 4), chân lí thời đại trong “ Rừng xà nu”- Nguyễn Trung Thành
( Xem phụ lục 5). Tiết học không có đồng nghiệp dự giờ để được nghe
những ý kiến đóng góp khách quan hơn nhưng tôi nhận thấy hiệu quả rõ rệt
7
qua thái độ tiếp thu bài học của học sinh và mức độ nắm kiến thức của các
em. Có thể so sánh với tiết dạy tương tự của đồng nghiệp bằng công nghệ

thông tin. Có đồng chí giáo viên dạy bài “ Chữ người tử tù”- Nguyễn Tuân,
chiếu rất nhiều hình ảnh, nào là hình ảnh các ông đồ viết chữ, tranh tứ bình
các loại, nhưng bố cục bài dài dòng, chưa khoa học nên tôi thấy chưa hiệu
quả. Vậy, tôi dạy thường nhưng thiết kế một sơ đồ hệ thống nội dung cốt
truyện của toàn bài và yêu cầu học sinh thể hiện sơ đồ vào vở ghi thì tôi thấy
học sinh vẫn nắm được nội dung của bài học mà lại không mất nhiều thời
gian. Tương tự như vậy, tôi áp dụng trong các bài học khác và nhận thấy
phương tiện dạy học này rất phù hợp với nhận thức của học sinh trường
mình, mà có lẽ là học sinh của nhiều trường huyện như trường tôi.
Tôi cũng sử dụng bảng biểu, sơ đồ để ôn phần làm văn ( Xem phụ lục 6)
khái quát các giai đoạn văn học,( Xem phụ lục 7), yêu cầu các em dán ở góc
học tập của mình. Tôi thấy các em nắm rất vững nội dung của bài học.
Nhiều học sinh trong lớp tôi giảng dạy hầu như không nắm được các thời kì
của văn học Việt Nam, văn học trung đại gồm mấy giai đoạn, tác giả tác
phẩm của từng giai đoạn. Kể cả những vấn đề trọng tâm của thi đại học, cao
đẳng, các em cũng nắm rất lơ mơ. Như trong các tác phẩm của chương trình
12, tác phẩm nào ra đời trong thời kì chống Mĩ, chống Pháp, hay sau 1975…
Sau khi sử dụng sơ đồ hệ thống kiến thức, tôi nhận thấy mức độ nắm kiến
thức của các em tiến bộ rõ rệt. Nhiều em không chỉ nắm chắc các nội dung
kiến thức trên, mà còn biết sử dụng các kiến thức ở bài khái quát để lí giải
nội dung bài học lôgic hơn. Tương tự như vậy, tôi sử dụng bảng để hệ thống
các vấn đề về tiếng Việt, làm văn trong chương trình THPT.
Tôi mạnh dạn áp dụng các phương tiện dạy học này trong các chuyên đề
ôn thi tốt nghiệp, và hướng dẫn một số học sinh ôn luyện nâng cao các
chuyên đề thi đại học, cao đẳng, ôn thi học sinh giỏi. Cụ thể, trong năm học
2012, tôi được phân công giảng dạy ngữ văn hai lớp 12B, 12E. Tôi đã sử
dụng bảng biểu, sơ đồ trong một số nội dung ôn tập. Như hướng dẫn dạng đề
phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự ( Xem phụ lục 9), phân tích giá trị
8
nhân đạo( Xem phụ lục 8) và dạng đề so sánh, sau khi gợi ý các vấn đề có

thể ra đề so sánh và cách làm bài, tôi dùng bảng so sánh hai nhân vật Tnú
trong “ Rừng xà nu”- Nguyễn trung Thành và nhân vật Việt trong “ Những
đứa con trong gia đình” để hướng dẫn các em cách tìm ý.( Xem phụ lục 10)
Tôi kiểm tra kiến thức của các em qua bài viết thì thấy cách trình bày ý
đã tiến bộ rõ rệt. Nhiều bài viết thể hiện ý khá mạch lạc, rõ ràng không còn
gượng ép nữa. Ngay cả những học sinh trung bình cũng nhớ và thể hiện
được hệ thống ý trong bài viết. Từ hiệu quả đạt được đó, tôi có lòng tin vào
sáng kiến của mình và suy nghĩ để có thể áp dụng nhiều hơn vào quá trình
dạy học của bản thân và của nhiều đồng nghiệp.
2.3.2. Kết quả định tính.
Sau khi áp dụng sáng kiến trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy sáng
kiến đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Thu hút và tạo hứng thú cho học sinh đối với
môn học, để giờ học văn với các em không còn quá nặng nề trong việc lĩnh
hội kiến thức. Sáng kiến cũng đã đem lại hiệu quả trong việc nâng cao chất
lượng dạy học. Kết quả cụ thể như sau:
Tổng số học
sinh
Điểm giỏi Điểm khá
Điểm trung
bình
Điểm yếu
Điểm
kém
74 04 15 21 30 04
*Kết quả kiểm tra đầu năm hai lớp 12B, 12E.


* Kết quả kiểm tra cuối năm lớp 12B, 12E
Tổng số học
sinh

Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu
Điểm
kém
74 14 17 16 27 0
- Có 3 học sinh giỏi cấp tỉnh.
- Kết quả thi thử tốt nghiệp của lớp giảng dạy cao .
Nhìn vào kết quả trên, có thể khẳng định hiệu quả to lớn của việc sử dụng
sáng kiến trong thực tế dạy học. Điểm giỏi tăng 10 học sinh, điểm khá tăng
9
02 học sinh, điểm trung bình giảm 05, điểm yếu giảm 03 và không còn
điểm kém. Đặc biệt, khi tôi mạnh dạn áp dụng phương pháp này trong một
số chuyên đề ôn thi học sinh giỏi thì có 3 học sinh đạt giải trong kì thi học
sinh giỏi cấp tỉnh. 01 giải ba, 2 giải khuyến khích.
Phần 3: KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT.
3.1. Kết luận chung.
10
Để góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học ngữ
văn, việc sử dụng những phương tiện dạy học là vô cùng cần thiết. Đặc
biệt là đối với các trường trên địa bàn các tỉnh miền núi khi điều kiện cơ
sở vật chất còn nghèo nàn, trình độ nhận thức của học sinh đa phần ở
mức trung bình. Trên thực tế, có nhhiều phương tiện dạy học có thể áp
dụng trong quá trình dạy học ngữ văn. Tuy nhiên, trong sáng kiến, tôi
chỉ áp dụng một số bảng biểu, sơ đồ mà bản thân đã có dịp áp dụng
trong quá trình dạy học và bước đầu thấy được hiệu quả của nó trong
việc nâng cao chất lượng dạy học. Hy vọng, sáng kiến sẽ là gợi ý để các
thầy cô trong tổ chuyên môn của nhà tường thiết kế được nhiều phương
tiện dạy học hay và chất lượng hơn, áp dụng thường xuyên hơn trong
quá trình dạy học.
Trong quá trình sử dụng các phương tiện hỗ trợ dạy học này, tôi thấy
khả năng ứng dụng sáng kiến vào thực tế là rất lớn. Những phương tiện

dạy học đơn giản nhưng rất hiệu quả trong việc khắc sâu trọng tâm kiến
thức cho học sinh, tạo hứng thú cho các em trong giờ học văn, để giờ
học văn vừa tạo điều kiện cho cá em tư duy, thể hiện khả năng sáng tạo
của mình nhưng cũng không căng thẳng, mệt mỏi.
3.2. Ý kiến đề xuất.
- Để áp dụng thường xuyên hơn nữa, có hiệu quả hơn nữa sáng kiến
trong quá trình dạy học ngữ văn, tôi xin đề nghị ban giám hiệu nhà
trường sẽ tạo điều kiện giúp đỡ về cơ sở vật chất để tôi có thể làm các
phương tiện dạy học nói trên bằng vải bạt, in trên khổ giấy A0 để có thể
sử dụng được lâu dài, sử dụng rộng rãi ở nhiều lớp học để phát huy hơn
nữa hiệu quả của nó.
- Tôi cũng kính mong các đồng chí giáo viên trong tổ chuyên môn,
các đồng nghiệp, các giáo viên tâm huyết có cùng ý tưởng sẽ đóng góp
ý kiến để sáng kiến của tôi hoàn thiện hơn. Đặc biệt là các đồng chí giáo
viên trong nhóm sẽ cùng trao đổi để có thể thiết kế được một bộ đồ
dùng dạy học của bộ môn khoa học, lôgic phục vụ tốt nhất cho công
11
việc giảng dạy. Bởi vì, những bảng biểu, sơ đồ trên chỉ là ý kiến của
riêng cá nhân tôi không tránh khỏi những thiếu xót, chưa hợp lí.
- Đối với học sinh, trong quá trình áp dụng sáng kiến, tôi rất mong
nhận được sự hợp tác tực giác, tích cực của học sinh để có thể phát huy
hiệu quả tốt nhất, nhằm nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn trong nhà
trường phổ thông.
PHẦN PHỤ LỤC
12
Phụ lục 1: Sơ đồ thể hiện quá tình tha hoá và quá trình thức tình của
nhân vật Chí Phèo tong tác phẩm “ Chí Phèo” của Nam Cao.
Phụ lục 2 : Sơ đồ thể hiện tình huống nhận thức tong tác phẩm
“ chiếc thuyền ngoài xa” cảu Nguyễn Minh Châu.
Phụ lục 3 : Sơ đồ thể hiện giá trị tư tưởng của truyện ngắn “ vợ Nhặt”-

Kim Lân.
Phụ lục 4: Sơ đồ thể hiện tình huống truyện “ Chữ người tử tù”-
Nguyễn Tuân
Phụ lục 5: Sơ đồ thể hiện chân lí thời đai trong tác phẩm “ rừng xà nu”
Nguyễn Trung Thành.
Phụ lục 6: Bảng hướng dẫn ôn tập phần nghị luận xã hội.
Phụ lục 7: Bảng hướng dẫn ôn tập các thời kì văn học.
Phụ lục 8: Bảng hướng dẫn ôn tập phân tích giá tị nhân đạo trong tác
phẩm văn học
Phụ lục 9: Bảng hướng dẫn phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
Phụ lục 10: Bảng hướng dẫn so sánh nhân vật Tnú tong tác phẩm “
rừng xà nu”- Nguyễn Trung Thành và nhân vật Việt trong “ Những đứa con
trong gia đình”- Nguyễn Thi.
13
Sinh ra Bác phó cối Làm cho
Bị bỏ rơi. nuôi Đi ở Bá Kiến
Giết Bá Kiến, chết

Đi tù
Bị cự tuyệt
Gặp Thị Nở Làm tay sai Ra tù
( Thức tỉnh) Cho Bá Kiến ( Kẻ lưu manh)
( Tha hoá)
SƠ ĐỒ THỂ HIỆN QUÁ TRÌNH THA HOÁ VÀ QUÁ TRÌNH THỨC TỈNH
CỦA NHÂN VẬT CHÍ PHÈO TRONG TÁC PHẨM “CHÍ PHÈO” CỦA
NAM CAO
14
Phát hiện một cảnh đắt trời cho

Sơ đồ thể hiện tình huống nhận thức trong “ Chiếc thuyền ngoài xa”- NMC.

Chiếc thuyền ngoài xa
Vẻ đẹp toàn thiện toàn
bích
Thái độ:Rung
cảm thực sự
Cảnh người đàn ông đánh vợ tàn
bạo
Lão đàn ông đánh vợ dã
man
Người vợ cam chịu nhẫn
nhục
Thái độ: kinh ngạc,
sững sờ
15
Người nghệ sỹ cần
có tấm lòng trăn
trở về con người và
cuộc đời.
Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện. Phát
hiện vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà
-Đẩu nhận thức được
nghịch lý cảu đời
sống.Muốn giúp con
người: thoát khỏi tối
tăm, tàn bạo cần có
giải pháp thiết thực:
thoát nghèo.
-Phùng thấy mình đã
đơn giản khi nhìn
nhận mọi việc.

Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy
Màu hồng của ánh sương mai Người đàn bà bước
ra từ bức tranh
Vẻ đẹp lãng mạn
Chất thơ của cuộc sống
Hiện thực của cuộc
đời
-Nghệ thuật chân chính
không bao giờ rời xa
cuộc đời.Nó phải là
chính cuộc đời.
-Người nghệ sỹ cần
trung thực nhìn thẳng
vào cuộc đời. Đưa nghệ
thuật đến gần cuộc đời
Cuộc sống không
đơn giản xuôi
chiều mà chứa
đựng nhiều nghịch
lí.Cái xấu, cái tốt
cùng tồn tại
Cảnh một chiếc thuyền ngoài
xa ẩn hiện trong làn sương
sớm. Vẻ đẹp toàn thiện toàn
bích




SƠ ĐỒ THỂ HIỆN GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CỦA TRUYỆN NGẮN

“VỢ NHẶT”- KIM LÂN.
16
NẠN ĐÓI
1945
Giá trị hiện thực Giá trị nhân đạo
Tình huống độc đáo: “Nhặt Vợ”
Bức tranh
cảnh đói
khát
Con
người
năm đói
Tố cáo chính
sách cai trị
của TDPK
phát xít
Ca ngợi con
người: yêu
thương, đùm
bọc nhau,tin
Kết thúc vào buổi sáng đầy ánh
nắng, không khí gia đình hoà thuận
Bà cụ Tứ:
nuôi gà
Người vợ nhặt: Ở Bắc
Giang,Thái Nguyên
không đóng thuế, đi
cướp kho thóc của Nhật
chia cho người nghèo.
Tràng: Hình

ảnh lá cờ đỏ
sao vàng
Tư tưởng của truyện: Ca ngợi con người
túng đói vẫn yêu thương đùm bọc nhau
và tin tưởng vào tương lai tươi sáng
17
RỪNG XÀ NU- NGUYỄN TRUNG THÀNH.
1965: CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ
GAY GO, ÁC LIỆT
ỘC ĐẤU TRANH GIỮA DÂN LÀNG XÔMAN VÀ MĨ NGUỴ



CHÂN LÍ THỜI ĐẠI:
“ CHÚNG NÓ ĐÃ CẦM SÚNG, MÌNH PHẢI CẦM GIÁO”
SƠ ĐỒ THỂ HIỆN CHÂN LÍ THỜI ĐẠI
TRONG TÁC PHẨM “ RỪNG XÀ NU” NGUYỄN TRUNG THÀNH.
BẢNG THỂ HIỆN CÁC GIAI ĐOẠN VĂN HỌC VIỆT NAM
Thời

Các ý vh
Cơ bản
Văn học từ TK X
đến hết TK XIX
Văn học từ đầu
TK XX đến Cách
mạng tháng tám
1945
Văn học từ cách
mạng tháng tám

1945 đến 1975.
- Chế độ phong kiến - Thực dân Pháp - 1945 Cách mạng
18
Chặng 1: Kẻ thù
cầm súng, Xôman
chưa cầm giáo mác
CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA DÂN LÀNG XÔMAN VÀ MĨ
NGUỴ
Chặng 2: Kẻ thù
cầm súng, Xôman
cầm giáo mác
Hình ảnh đôi bàn
tay của Tnú
Kẻ thù
thẳng
tay đàn
áp,
khủng
bố tàn
bao
Xôman
đau
thương:
anh Xút
bị treo
cổ, bà
Nhan bị
chặt
đầu, mẹ
con Mai

bị gết,
Tnú bị
tra tấn
Kẻ thù
bị tiêu
diệt, xác
10 tên
giặc
nằm
ngổn
ngang
quanh
đống
lửa xà
nu
Xôman
thắng
lợi
Khi còn
lành
lặn,
chưa
cầm vũ
khí:
không
cứu
được vợ
con, bản
thân bị
tra tấn

Khi
mang
thương
tích,
cầm vũ
khí: đi
lực
lượng,
tiêu diệt
kẻ thù
Hoàn cảnh
lịch sử, xã
hội
hình thành và phát
triển. Dần dần xuất
hiện mâu thuẫn,
khủng hoảng và sụp
đổ.
- Thực dân Pháp
xâm lược, nước ta
chuyển dần sang
chế độ thực dân nửa
phong kiến
tiến hành khai thác
thuộc địa, xã hội
Việt Nam có
những biến đổi
sâu sắc, đô thị
mọc lên, nhiều
tầng lớp mới xuất

hiện.
tháng tám thành
công, thành lập
nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng
hoà.
- Dân tộc kiên trì
với cuộc kháng
chiến chống Pháp,
chống Mĩ, vừa
xây dựng CNXH.
Giai đoạn
văn học
- 4 giai đoạn:
+ Từ TK X đến TK
XIV.
+ Từ TK XV đến
TK XVII.
+ Từ TK XVIII đến
nửa đầu TK XIX.
+ Nửa cuối TK XIX
3 Giai đoạn:
+ Từ 1945 đến
1954. .
+ Từ 1955 đến
1964.
+ Từ 1965 đến
1975
Đặc điểm
văn học

- Nội dung: + Yêu
nước. + Nhân đạo.
+ Cảm hứng thế sự.
- Nghệ thuật:
+ Tính quy phạm và
việc phá vỡ tính quy
phạm.
+ Khuynh hướng
trang nhã và xu
hướng bình dị.
+ Tiếp thu và dân
tọc hoá tinh hoa văn
hoá nước ngoài.
+ Văn học đổi mới
theo hướng hiện
đại hoá.
+ Văn học hình
thành hai bộ phận
và phân hoá thành
nhiều xu hướng
phức tạp.
+ Văn học phát
triển với một tốc
độ hết sức mau lẹ.
+ Nền văn học
chủ yếu vận động
theo hướng cách
mạng hoá, gắn bó
sâu sắc với vận
mệnh chung của

đất nước.
+ Nền văn học
hướng về đại
chúng.
+ Nền văn học
chủ yếu mang
khuynh hướng sử
thi và cảm hứng
lãng mạn.
Tác giả tiêu
biểu
Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Trần
Tế Xương, Nguyễn
Khuyến, Nguyễn
Đình Chiểu, Cao Bá
Quát…
- Xuân Diệu, Hàn
Mạc Tử, Huy Cận,
Nam Cao, Nguyễn
Tuân,Vũ Trọng
Phụng, Hồ Chí
Minh…
- Quang Dũng, Tố
Hữu, Kim Lân, Tô
Hoài, Nguyễn
khoa Điềm,
Nguyễn Minh
Châu…
ÔN TẬP NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

DẠNG
NGHỊ
LUẬN
CÁCH LÀM BÀI
Đặt
vấn đề
Giải quyết vấn đề Kết thúc
vấn đề
Bước 1 Bước 2 Bước 3 Bước 4
19
Nghị
luận về
một tư
tưởng
đạo lí
Giới
thiệu
vấn đề
nghị
luận,
trích
dẫn
câu
nói…
Giải
thích rõ
nội dung
tư tưởng,
đạo lí
(Từ ngữ,

khái
niệm)
Phân
tích mặt
đúng của
tư tưởng,
đạo lí
( Chứng
minh)
Bác bỏ
những
biểu hiện
sai lệch
Đánh giá
ý nghĩa
của tư
tưởng
đạo lí
Khái quát
vấn đề.
Rút ra bài
học nhận
thức, hành
động cho
bản thân
Nghị
luận về
một
hiện
tượng

đời sống
Giới
thiệu
hiện
tượng
cần
nghị
luận
Nêu rõ
hiện
tượng
Phân
tích mặt
đúng
sai, lợi
hại của
vấn
đề( Thự
c trạng)
Chỉ
nguyên
nhân,
giải
pháp
Bày tỏ
thái độ,
ý kiến
của bản
thân về
hiện

tượng
xã hội
đó
Khái quát
lại vấn
đê. Bài
học cho
bản thân
Nghị
luận về
một vấn
đề xã hội
được đặt
ra từ tác
phẩm
văn học
Dẫn
dắt
Tác
phẩm,
tác giả
có liên
quan.
Giới
thiệu
vấn đề
càn
bàn
luận
trong

tác
phẩm
Làm rõ
vấn đề
xã hội
được đề
cập
trong tác
phẩm
văn học
Làm rõ
vấn đề
trong
thực tế
xã hội:
+ Giải
thích
khái
niệm, rút
ra vấn đề
nghị
luận.
+ Phân
tích,
chứng
minh,
bình
luận, làm
rõ tính
đúng sai.

Khái quát
lại vấn đề.
Rút ra bài
học nhận
thức và
hành động
cho bản
thân.
Hướng dẫn ôn tập về giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học
20
Tác
phẩm
Biểu
hiện
“ Chí
Phèo”-
Nam Cao
“ Hai đứa
trẻ”-
Thạch
Lam
Vợ chồng
A Phủ”-Tô
Hoài
“ Vợ nhặt”-
Kim Lân
“ Chiếc
thuyền
ngoài xa”-
Nguyễn

Minh Châu
Lòng
thương,
cảm
thông sâu
sắc với số
phận bất
hạnh của
nhân vật
Cảm thông
sâu sắc với
số phận
bất hạnh
của Chí
Phèo, Thị
Nở
Cuộc sống
tù túng,
quẩn
quanh, lặp
đi lặp lại
của người
dân ở phố
huyện
nghèo:
Liên,
An…
Cuộc sống
khổ cực
của người

lao động
miền núi
dưới ách
thồng trị
của thần
quyền và
uy quyền
( Mị, A
Phủ)
Tình cảnh
khốn cùng
của con
người Việt
Nam trong
nạn đói năm
1945
( Tràng, bà
cụ Tứ, người
vợ nhặt.
Không gian
năm đói)
Cuộc sống
đói nghèo,
bấp bênh
của người
lao động nơi
vùng biển
vắng
( người đàn
bà hàng

chài)
Tố cáo
các thế
lực trà
đạp lên
hạnh
phúc của
con
người.
Tố cáo chế
độ phong
kiến bất
công, định
kiến xã
hội hẹp
hòi.( Bá
Kiến, bà
cô)
Xã hội
ngột ngạt,
tăm tối
Ách áp
bức tàn
bạo của
thực dân,
phong
kiến( cha
con thống
lí Pá tra)
Chính sách

cai trị hà
khắc của
thực dân,
phong kiến,
phát xít)
- Thói vũ
phu của
người
chồng.
- Chiến
tranh với
hậu quả
nặng nề của

Đề cao,
khẳng
định ngợi
ca con
người
(phẩm
chất, tài
năng)
Phẩm chất
tốt đẹp của
Chí Phèo,
tình người
của Thị
Nở
Sức sống
tiềm tàng,

khát khao
hạnh phúc
của Mị, A
Phủ
Những con
người dù
cận kề cái
chết vẫn yêu
thương, cưu
mang nhau,
hy vọng vào
tương lai
tươi sáng.
Người đàn
bà với bao
phẩm chất
tốt đẹp:
nhân hậu,
bao dung,
chịu đựng vì
con cái, chắt
chiu hạnh
phúc bình dị
Nêu khát
vọng chân
chính.
Khát vọng
sống
lương
thiện

Hy vọng
cuộc sống
tốt đẹp
hơn
Khát vọng
hạnh phúc
Khát vọng
cuộc sống
tốt đẹp hơn
Khát vọng
được sống
trong yên
bình.
21
Nhân
vật
Các ý
cơ bản
Tràng “ Vợ nhặt”-
Kim Lân
Mị “ Vợ chồng A
Phủ”- Tô Hoài.
Người đàn bà hàng
chài “ Chiếc thuyền
ngoài xa”- Nguyễn
Minh Châu
Hoàn cảnh
xuất thân
Dân ngụ cư nghèo,
sống cùng mẹ trong

một ngôi nhà dúm dó,
xiêu vẹo
Cô gái miền núi,
nhà nghèo, sống
cùng cha và các
em, mẹ đã mất
- Vốn sinh ra trong
một gia đình khá giả
nhưng xấu xí không
ai lấy, chị đành lấy
người trai hàng chài,
sau chuyển xuống
thuyền sinh sống
luôn.
Ngoại hình Xấu xí, thô kệch Xinh đẹp, có
nhiều người yêu
Xấu xí, thân hình
cao lớn với những
đường nét thô kệch,
nửa thân dưới ướt
sũng, khuôn mặt mệt
mỏi vì thức kéo lưới
suốt đêm
Tính cách,
phẩm
chất( diễn
biến tâm
trạng)
- Tấm lòng nhân hậu:
yêu quý lũ trẻ. Cưu

mang người đàn bà
mới gặp hai lần.
- Khao khát hạnh
phúc, đổi đời:
+ Tâm trạng của Tràng
từ khi có vợ.
+ Hình ảnh đoàn
người đi trên đê Sộp
và lá cờ đỏ bay phấp
phới.
Hướng dẫn ôn tập
- Khao khát hạnh
phúc, không chịu
làm dâu nhà
giàu.
- Sức phản kháng
và sức sống tiềm
tàng mãnh liệt:
+ Thái độ của Mị
khi mới về làm
dâu.
+ Tâm trạng của
Mị trong đêm
tình mùa xuân.
+ Tâm trạng của
Mị trong đêm cởi
trói cho A Phủ
và hành động
chạy chốn cùng
A Phủ

Phân tích nhân
- Sau vẻ ngoài xấu
xí thô kệch là bao vẻ
đẹp tâm hồn khiến
nhiều người ngạc
nhiên:
+ Cam chịu nhẫn
nhịn.
+ Giàu lòng tự
trọng.
+ Hy sinh vì các
con. Thấu hiểu lẽ
đời.
+ Cảm thông với
chồng.
+ Chắt chiu hạnh
phúc bình dị, đời
thường.
trong tác phẩm tự sự
22
ĐIỂM CHUNG
TNÚ ( RỪNG XÀ NU-
NGUYỄN TRUNG
THÀNH)
VIỆT ( NHỮNG ĐỨA
CON TRONG GIA ĐÌNH-
NGUYỄN THI)
Đều là những
người con sinh ra
từ truyền thống bất

khuất của gia đình,
của quê hương, của
dân tộc.
- Là con chung của dân
làng Xôman, nơi từng
người từ già đến trẻ, trên
dưới đều một lòng hướng
về cách mạng, bảo về cán
bộ:
“ Cụ Mết dạy: cán bộ là
Đảng, Đảng còn, núi
nước này còn”
- Việt sinh ra trong gia
đình có tuyền thống yêu
nước, căm thù giặc sâu sắc,
thuỷ chung với cách mạng:
ba là cán bộ cách mạng,
mẹ là người phụ nữ kiên
trung, gan góc, các con tiếp
nối ý tưởng cha ông.
Đều chịu nhiều đau
thương do kẻ thù
gây ra tiêu biểu cho
đau thương, mất
mát của cả dân tộc.
- Lúc nhỏ từng bị kẻ thù tra
tấn tàn bạo. Khi trưởng
thành, tận mắt chứng kiến
cảnh vợ con bị tra tấn đến
chết, bản thân bị đốt 10 đầu

ngón tay bằng giẻ tẩm nhựa
xà nu.
- Việt chứng kiến cái chết
của ba má. Bản thân bị
thương, lạc đồng đội, toàn
thân đau nhức, mắt không
nhìn thấy gì…
Đều có tình cảm
yêu thương, gắn bó
với gia đình, quê
hương.
- Yêu làng Xôman bằng
tình cảm ruột thịt, xa thì
nhớ, chỉ được nghỉ một
ngày cũng lặn lội về thăm.
- Yêu vợ con chân thành,
thắm thiết. Không có vũ khí
cũng xông ra cứu vợ con.
- Yêu thương, gắn bó với
gia đình: kỉ niệm về má,
chú Năm
- Thương yêu và sống gắn
bó, hoà thuận với chị
Chiến:
+ Thấy chị giống má.
+ Thương bước chân bịch
bịch của chị.
+ Giấu chị không cho ai
biết.
Đều mang phẩm

chất anh hùng, bất
khuất, căm thù giặc
sâu sắc, thuỷ chung
son sắt với Đảng,
với cách mạng
- Từ nhỏ: làm liênlạc giỏi,
bị giặc bắt tra tấn không
khai.
- Trưởng thành, lãnh đạo
dân làng đánh giặc, bị đốt
mười ngón tay không kêu.
- Mỗi ngón tay chỉ còn hai
đốt vẫn đi lực lượng giết
mọi thằng Dục.
- Hăng hái đi tòng quân để
trả thù nhà đền nợ nước.
- Chiến đấu dũng cảm, lập
nhiều chiến công.
- Bị thương, toàn thân đau
nhức, mắt không nhìn thấy
gì những vẫn chắc tay súng
sẵn sàng tiêu diệt giặc.
SƠ ĐỒ SO SÁNH NHÂN VẬT TNÚ TRONG “ RỪNG XÀ NU”-
NGUYỄN TRUNG THÀNH VÀ NHÂN VẬT VIỆT TRONG
“ NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH”- NGUYỄN THI.
23
Tân Lạc tháng 05 năm 2012.
Người viết:
Nguyễn Hải Sơn
Ý kiến đánh giá của Ý kiến đánh giá của

Hội đồng khoa học nhà trường Hội đồng khoa học
Sở GD & ĐT Hoà Bình
24

×