Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Bài thu hoạch môn Phát triển chương trình và tổ chức quá trình đào tạo đại học 6.2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.54 KB, 11 trang )

BÀI THU HOẠCH
Chương trình: Nghiệp vụ sư phạm dành cho giảng viên đại học, cao đẳng

Môn học: Phát triển chương trình và tổ chức quá trình đào tạo đại học
Giảng viên:
Học viên:
Đơn vị:

Hồ Chí Minh, 24-5-2020


Đề bài: So sánh giữa việc xây dựng và phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận
nội dung với xây dựng và phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận năng lực người
học. Cho ví dụ minh họa để làm rõ sự so sánh đó.
Theo quan điểm của Christian Batal (nhà nghiên cứu người Pháp), đào tạo là một
tập hợp các hoạt động, phương tiện, phương pháp và công cụ hỗ trợ có kế hoạch, nhờ đó,
người lao động được khuyến khích nâng cao kiến thức, hành vi, thái độ, kỹ năng và khả
năng trí tuệ của bản thân, đáp ứng việc thực hiện mục tiêu của tổ chức, mục tiêu cá nhân
hoặc mục tiêu xã hội của bản thân, thích ứng với môi trường để hoàn thành đầy đủ nhiệm
vụ hiện tại và tương lai. Mục tiêu cơ bản của đào tạo là tạo điều kiện cho học viên tiếp nhận
và phát triển năng lực của bản thân, cung cấp cho họ những kiến thức, kỹ năng cần thiết
cho công việc. Như vậy, đào tạo chính là việc tổ chức những cơ hội học tập nhằm giúp tổ
chức đạt được mục tiêu của mình thông qua việc tăng cường năng lực.
Thuật ngữ chương trình giáo dục (đào tạo) - curriculum - xuất hiện lần đầu tiên trong
ấn bản phẩm vào năm 1918 với tư cách là một thuật ngữ khoa học (J.F.Bobbit, 1918), và
sau đó trở thành một trong những khái niệm gây nhiều tranh luận trong giáo dục. Chương
trình giáo dục/đào tạo (curriculum) xuất phát từ gốc tiếng Latin có nghĩa là “currere”, có
nghĩa là “to race” hoặc “the course of a race” (triển khai, thực thi các khóa học). Từ thế kỉ
XVII, Trường Đại học Glasgow đã gọi các khóa học của mình là “Chương trình đào tạo”.
Bước sang thế kỉ XIX, đại đa số các trường đại học ở châu Âu đều quan niệm “Chương
trình đào tạo” theo 2 khía cạnh: là một tổ hợp các môn học/khóa học của họ và quá trình


thực thi các khóa học đó.
Có thể thấy chương trình đào tạo có thể có nhiều định nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc
vào quan niệm của các người nghiên cứu và các nhà thực hành khi suy nghĩ và thiết kế
chương trình. Theo Wentling (1993) thì chương trình đào tạo (Curriculum) được hiểu là
một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo (có thể kéo dài một vài giờ, một ngày,
một tuần hoặc vài năm). Bản thiết kế tổng thể đó cho ta biết toàn bộ nội dung cần đào tạo,
chỉ rõ ra những gì ta có thể trông đợi ở sinh viên sau khoá học, nó phác họa ra quy trình
cần thiết để thực hiện nội dung đào tạo, nó cũng cho ta biết các phương pháp đào tạo và
các cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sắp xếp theo
một thời gian biểu chặt chẽ. Những thành tố cơ bản của chương trình đào tạo bao gồm:
Mục đích, mục tiêu và chuẩn đầu ra; Nội dung chương trình; Hình thức tổ chức dạy học,
phương pháp, phương tiện dạy học; Các hình thức đánh giá kết quả giáo dục.
Phát triển chương trình đào tạo là một quá trình liên tục nhằm hoàn thiện không
ngừng chương trình. Theo quan điểm này chương trình đào tạo là một thực thể không phải
được thiết kế một lần và dùng cho mãi mãi, mà được phát triển, bổ sung, hoàn thiện tùy
1


theo sự thay đổi của trình độ phát triển kinh tế - xã hội, của thành tựu khoa học - kỹ thuật
và công nghệ, và cũng là theo yêu cầu của thị trường sử dụng lao động. Nói cách khác, một
khi mục tiêu đào tạo của nền giáo dục quốc dân thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội, thì
chương trình đào tạo cũng phải thay đổi theo, mà đây lại là quá trình diễn ra liên tục nên
chương trình đào tạo cũng phải được không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Phát triển chương trình được xem như một quá trình hòa quyện vào trong quá trình
đào tạo, bao gồm các bước: Phân tích tình hình; Xác định mục đích chung và mục tiêu;
Thiết kế; Thực thi; Đánh giá. Các yếu tố tác động qua lại lẫn nhau và phải xem xét từng
yếu tố trong mối tác động của các yếu tố khác.
Khi xây dựng, phát triển chương trình đào tạo có thể dựa trên những cách tiếp cận
khác nhau. Một số cách tiếp cận cơ bản của chương trình đào tạo có thể kể đến như: Cách
tiếp cận theo nội dung; Cách tiếp cận theo mục tiêu hay cách tiếp cận hành vi; Cách tiếp

cận phát triển; Cách tiếp cận năng lực. Mỗi cách tiếp cận gắn liền với một giai đoạn nhất
định của quá trình phát triển của khoa học giáo dục và có những ưu nhược điểm khác nhau.
Tiếp cận nội dung
Điều quan trọng nhất trong xây dựng và phát triển chương trình đào tạo là làm sao
khối lượng kiến thức (nội dung) cần truyền thụ là lớn nhất, quá trình thực thi được chỉ đạo
bởi hệ thống các hình thức tổ chức đảm bảo người học lĩnh hội được tối đa lượng kiến thức
(nội dung) này.
Ưu điểm của các tiếp cận này là sẽ giúp hình thành hệ thống tri thức khoa học đầy
đủ. Tuy nhiên nhược điểm là không đáp ứng được sự gia tăng về kiến thức trong xã hội,
khả năng thay đổi, cập nhật chậm; khó kiểm soát được mức độ hoàn thành chương trình;
không định hình rõ được năng lực cần thiết của người học để làm việc sau khi kết thúc
chương trình; phương pháp dạy học thụ động , quá tải, nhồi nhét, nặng về ghi nhớ
Tiếp cận mục tiêu
Mục tiêu đào tạo (mục tiêu đầu ra) bao hàm sự gia tăng về kiến thức và sự thay đổi
hành vi, năng lực của người học sau khi trải qua một chương trình đào tạo. Hệ thống các
mục tiêu của chương trình đào tạo được xây dựng logic, được cung cấp cho người học
trước khi tham gia vào chương trình đào tạo. Mọi hoạt động diễn ra trong quá trình thực
thi chương trình đào tạo đều bị chi phối, quản lí và giám sát theo hệ thống mục tiêu này!
Kết cấu của chương trình đào tạo theo tiếp cận mục tiêu cho phép tăng tính linh
hoạt, mềm dẻo của kết cấu nội dung các môn học, tạo cơ hội thích ứng cao với các thay
đổi trong xã hội, tăng cơ hội học tập cho người học (hướng đến mục tiêu cuối cùng, một
định hướng về chuẩn năng lực nhất định...). Mặt khác, việc đánh giá và đảm bảo chất lượng
2


của chương trình đào tạo được kiểm chứng một cách khoa học: mục tiêu – hành vi thực
hiện hướng đến mục tiêu – tiêu chí đánh giá việc thực hiện mục tiêu – minh chứng việc đạt
mục tiêu.
Ưu điểm của cách tiếp cận này là tường minh, quy trình chặt chẽ; quy chuẩn; dễ
kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên nhược điểm là dễ sa vào thuyết “công nghệ cứng nhắc”,

chương trình đào tạo không phải lúc nào cũng có khả năng điều chỉnh mục tiêu linh hoạt
đáp ứng sự thay đổi của xã hội, tạo áp lực lớn cho người dạy và người học.
Tiếp cận phát triển
Theo cách tiếp cận này chương trình đào tạo được xem là quá trình, còn giáo dục là
sự phát triển: chương trình đào tạo được xem như một quá trình bao gồm các hoạt động
cần thực hiện giúp người học phát triển tối đa những kinh nghiệm, năng lực tiềm ẩn, tố
chất sẵn có để đáp ứng những mục tiêu. Mô hình này có đặc điểm là nội dung, nguyên tắc
và các thủ tục được định rõ hơn là những kết quả dự định được đề cập trong mục tiêu.
Như vậy, giáo dục là quá trình học tập suốt đời và phải góp phần phát triển mọi năng
lực tiềm ẩn của con người. Một chương trình đào tạo sẽ cần phải được thiết kế hướng đến
việc hỗ trợ sự phát triển năng lực của mỗi cá nhân người học để đáp ứng các yêu cầu và sự
thay đổi không ngừng của xã hội, của nghề nghiệp. Sản phẩm của chương trình đào tạo
theo cách tiếp cận này chính là “sự phát triển của cá nhân” với ý nghĩa đáp ứng được kì
vọng về nhu cầu và nhân cách (White, 1995): khía cạnh học thuật và nhân văn của chương
trình đào tạo.
Cách tiếp cận này chú trọng đến sự hiểu biết và năng lực, đến nhu cầu, lợi ích, định
hướng giá trị ở người học do đó sẽ tập trung vào tổ chức hoạt động dạy- học với nhiều hình
thức đa dạng, linh hoạt, tạo cơ hội cho người học tìm kiếm, thu thập thông tin và chiếm
lĩnh tri thức. Tuy nhiên nhược điểm là khó khăn khi tổ chức thực hiện do tính đa dạng về
khả năng, sở thích, nhu cầu của người học
Tiếp cận năng lực
Gervais (2016) đã đưa ra một định nghĩa về giáo dục dựa trên năng lực như là “Giáo
dục dựa trên năng lực được định nghĩa như là một hướng tiếp cận dựa vào kết quả đầu ra
của người học (outcome - based education), kết hợp chặt chẽ giữa các phương thức giảng
dạy và hình thức đánh giá được thiết kế nhằm đánh giá việc học của học sinh thông qua
việc thể hiện kiến thức, thái độ, giá trị, kỹ năng và hành vi của chúng đối với yêu cầu đề ra
ở mỗi trình độ”. Harris et al (1995) cho rằng giáo dục dựa trên năng lực phát huy tối đa
năng lực riêng của mỗi học sinh, giúp học sinh tự tìm tòi, khám phá tri thức dựa trên sở
thích và mối quan tâm riêng của chúng, giúp học sinh làm chủ tri thức và vận dụng nó vào
3



thực tế cuộc sống. Giáo dục dựa trên năng lực thúc đẩy tư duy sáng tạo, phản biện và khả
năng giải quyết vấn đề. Nó nhấn mạnh đến các tình huống thực tế cuộc sống và thông qua
giải quyết các tình huống đó học sinh có thể rút ra kinh nghiệm và tri thức cho riêng mình
từ những tình huống đó.
Mô hình giáo dục dựa trên năng lực nhấn mạnh đến kết quả đầu ra của người học.
Một người học được đánh giá đạt yêu hoàn thành khi chứng tỏ được việc nắm bắt và ứng
dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ, giá trị và hành vi dựa trên các tiêu chí năng lực được đề
ra. Chương trình giáo dục dựa trên năng lực thường được thiết kế linh hoạt theo hướng mở
nhằm có thể bổ sung và cập nhật kịp thời nội dung kiến thức mới. Nội dung chương trình
thường được thiết kế theo module hoặc tín chỉ. Sách giáo khoa chỉ mang tính chất là tài
liệu tham khảo cho giảng dạy chứ không thể hiện là chương trình giảng dạy như hướng
tiếp cận nội dung. Chương trình giảng dạy phải đảm bảo phát triển theo hướng cả chiều
rộng và chiều sâu, tính tương hỗ giữa các môn học nhằm hình thành kiến thức, kỹ năng,
giá trị, hành vi, và thái độ theo yêu cầu đề ra cho học viên.
Đầu ra của giáo dục dựa trên năng lực được thể hiện ở thì hiện tại, nghĩa là dựa trên
những gì người học làm được ngay sau khi kết thúc chương trình học. Trong khi đó giáo
dục bám vào nội dung lại thể hiện ở thì tương lai, nghĩa là khả năng người học sẽ làm được
trong tương lai. Cách tiếp cận theo năng lực nhấn mạnh đến đầu ra khả năng thực tế của
học viên thay vì khả năng được mong đợi trong tương lai. Nó cũng công nhận rằng khả
năng học, mức độ nhận thức của mỗi học sinh là khác nhau vì vậy giáo dục dựa trên năng
lực phải tập trung vào phát triển khả năng riêng của mỗi người học, chú ý tới phong cách
học và mức độ tiếp thu khác nhau của mỗi người, tức là cần cá nhân hóa.
Trong giáo dục dựa trên năng lực, giảng viên giữ vai trò hướng dẫn và thiết kế nội
dung giảng dạy, còn học viên phải tự xây dựng kiến thức và hiểu biết riêng của chúng thông
qua khả năng tìm tòi, khám phá, sáng tạo, kiểm tra và quan sát. Vì vậy, môi trường giáo
dục cũng phải được tạo ra tương hợp để thúc đẩy và tạo điều kiện cho học viên hiện thực
hóa năng lực. Tổ chức dạy học phải linh hoạt và đa dạng thay vì lối dạy truyền thống, một
chiều, nên hướng tiếp cận dạy dựa trên năng lực có thể tổ chức học theo nhóm, học theo cá

nhân hóa, tự học, học viên học theo sở thích và mối quan tâm riêng của chính mình. Giảng
dạy dựa trên năng lực khuyến khích việc ứng dụng công nghệ, công cụ dạy học nhằm tối
ưu hóa việc phát huy năng lực của người học. Hướng tiếp cận nội dung nhấn mạnh đến vai
trò của phương pháp dạy học thì hướng tiếp cận năng lực quan tâm đến cách học, yếu tố tự
học của người học.
Để triển khai một cách hiệu quả, đào tạo theo hướng phát triển năng lực cần phải
đánh giá “năng lực” của học viên; khai thác các thế mạnh của công nghệ cho việc đào tạo;
cá nhân hóa việc học viên; thay đổi căn bản vai trò của giảng viên, chuyển từ nhà hiền triết,
4


suối nguồn của tri thức đến người hướng dẫn, đồng hành, các giảng viên làm việc với học
sinh, hướng dẫn chúng học tập, trả lời các câu hỏi, hướng dẫn thảo luận và giúp học viên
tổng hợp và áp dụng kiến thức; xác định năng lực và phát triển các đánh giá phù hợp, tin
cậy.
Đối với hoạt động đánh giá, theo Gervais (2016) đánh giá trong chương trình giáo
dục dựa trên năng lực giữ vai trò quan trọng. Việc đánh giá sẽ cung cấp cho học viên biết
mức độ đạt được kiến thức và năng lực của mình cũng như năng lực giảng dạy của giảng
viên, từ đó xác định được nhu cầu của người học và có những điều chỉnh, bổ sung hợp lý.
Đánh giá phải dựa trên mức độ năng lực đạt được của học viên chứ không để so sánh giữa
các học viên với nhau. Vì vậy sẽ không tồn tại việc xếp loại trong mô hình giáo dục dựa
trên năng lực mà chỉ dựa trên đánh giá mức độ học viên đó đạt được. Việc đánh giá học
viên trong giáo dục dựa trên năng lực phục vụ cho nhiều mục đích, không chỉ đơn thuần
để phục vụ cho khen thưởng hay lên lớp. Việc đánh giá trước và sau chương trình học của
mỗi học viên giúp giảng viên nắm rõ được các nhu cầu cũng như mức độ năng lực của
người học. Nó sẽ cho biết nhu cầu học tập cụ thể, khả năng học tập của học viên, từ đó có
thể xác định được học viên cần hỗ trợ những gì, và cần bao nhiêu thời gian để đầu tư cho
học viên đạt được các tiêu chí năng lực đề ra.
Có hai loại đánh giá để đo việc học của học sinh trong mô hình giáo dục dựa trên
năng lực là đánh giá quá trình và đánh giá kết quả. Đánh giá quá trình giúp học viên đo

được việc học của mình hàng ngày và giúp xác định được nội dung quan trọng mà học viên
cần học và thực hành thêm. Đánh giá kết quả là đánh giá kết thúc của mỗi chương trình
hay cấp độ của người học nhằm giúp xác định khả năng của học viên có thể tiếp tục cho
cấp độ năng lực tiếp theo. Đánh giá kết quả cũng giúp giảng viên xác định mức độ khoảng
cách giữa việc học và năng lực đạt được của người học, đưa ra những thay đổi cần thiết
cho chương trình học.
Thực hiện công tác đổi mới giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29/NQ-TW ngày
04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, việc xây dựng chương trình
đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực đáp ứng các tiêu chí như phải lấy người học làm trung
tâm, chỉ học những vấn đề cốt lõi, đa dạng hóa môi trường học tập, và đa dạng hóa cách
thức kiểm tra và đánh giá.
Đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực người học chính là việc giảng viên phải có
phương pháp dạy học theo hướng tích cực, lấy người học làm trung tâm, phải khơi gợi
được niềm đam mê của người học và đặc biệt phải tạo điều kiện học đi đôi với hành để
người học vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ mà mình lĩnh hội được vào giải quyết các
tình huống thực tiễn. Và để thực hiện điều này, mỗi cơ sở đào tạo cần thoát khỏi mô hình
giáo dục truyền thống, chuyển từ việc trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm
5


chất và năng lực người học. Nghĩa là phải thay đổi quan điểm, mục tiêu dạy học từ chỗ chỉ
quan tâm tới việc người học học được gì đến chỗ quan tâm tới việc người học làm được
cái gì qua việc học.
Mỗi học sinh là một cá thể độc lập với sự khác biệt về năng lực, trình độ, sở thích,
nhu cầu và nền tảng xuất thân. Dạy học phát triển năng lực thừa nhận thực tế này và tìm ra
được những cách tiếp cận phù hợp với mỗi học sinh. Không giống như phương pháp một
cỡ vừa cho tất cả, một chiếc áo tất cả đều mặc vừa, nó cho phép học viên được áp dụng
những gì đã học, thông qua sự gắn kết giữa bài học và cuộc sống. Điều này cũng giúp học
viên thích ứng với những thay đổi của cuộc sống trong tương lai. Đối với một số học viên,
đào tạo phát triển năng lực cho phép đẩy nhanh tốc độ hoàn thành chương trình học, tiết

kiệm thời gian và công sức của việc học tập.
Mỗi cách tiếp cận phát triển chương trình giáo dục, đào tạo có những ưu điểm cũng
như nhược điểm riêng. Trong giai đoạn đầu của đào tạo/giáo dục, thì đào tạo/giáo dục được
coi là quá trình truyền thụ kiến thức. Do vậy điều quan trọng nhất là khối kiến thức cần
truyền thụ, và chương trình đào tạo/giáo dục chỉ là phác thảo nội dung khối kiến thức cần
dạy - học. Hệ quả là người dạy cũng chỉ cần tìm các phương pháp phù hợp để truyền đạt
khối kiến thức đó một cách tốt nhất, vô hình chung đẩy người học vào thế thụ động trong
tiếp thu. Mặc dù khối kiến thức mà người dạy, người học phải cùng nhau đạt tới là rất quan
trọng, tuy quá trình đào tạo/giáo dục không chỉ dừng lại ở đó. Trong thời đại mà công nghệ
thông tin và kiến thức mới phát triển không ngừng, nếu nền giáo dục chỉ đơn thuần là quá
trình truyền thụ kiến thức với thời gian đào tạo/giáo dục chính khoá gần như cố định (thậm
chí còn giảm đi), thì người dạy - người học không đủ khả năng để truyền thụ cũng như tiếp
thu khối kiến thức khổng lồ do thông tin mang lại. Hơn nữa, cho dù có được kiến thức tối
đa thì nó cũng nhanh chóng bị lạc hậu.
Do đó, rất khó có thể đánh giá được mức độ hoàn thành chương trình thiết kế theo
cách tiếp cận nội dung. Bởi vì chương trình mới là những nét phác thảo về nội dung, kiến
thức, kĩ năng mà người dạy cần rèn luyện cho người học. Bản thân người thiết kế có thể
nắm được mức độ, phạm vi, khối lượng kiến thức, kĩ năng cần có ở mỗi ngành học, môn
học (thang bậc kiến thức, kĩ năng) nhưng người dạy trực tiếp chưa chắc đã có khái niệm
đầy đủ về điều đó; hệ quả sẽ là sự tuỳ tiện trong biên soạn chương trình giảng dạy, đề
cương bài giảng. Người học sẽ còn bỡ ngỡ hơn nữa vì không biết sẽ phải học, phải thi như
thế nào. Nhược điểm chính của cách tiếp cận trong thiết kế chương trình giáo dục theo nội
dung là khó xác định được mục tiêu chi tiết, cụ thể, định hướng để thầy và trò cùng nhau
đi tới, đồng thời qua đó xác định được chuẩn để kiểm tra, đánh giá thành quả giảng dạyhọc tập của giảng viên và sinh viên.

6


Ý tưởng coi đào tạo là quá trình truyền thụ kiến thức và chương trình đào tạo chú
trọng trước hết đến nội dung có thể là quá giản đơn, bởi lẽ nó bỏ qua nhiều khía cạnh khác

không kém phần quan trọng khi thảo luận và thiết kế chương trình. Cách tiếp cận này có
thể dẫn đến hiện tượng không khuyến khích hoặc yêu cầu người dạy có trách nhiệm với
người học, và cũng không có trách nhiệm về sự tác động của nội dung kiến thức lên người
học. Trong khi đó người học chỉ có cách học tốt nhất là học những gì người dạy truyền thụ
cho họ. Trong trường hợp kiến thức có tác động nhất định tới người học thì cũng không có
phương thức nào kiểm tra đánh giá chính xác được hiệu quả của quy trình đào tạo, mà chỉ
đánh giá kết quả học tập thông qua xác định lượng kiến thức, kĩ năng mà người học tiếp
thu và đồng hoá được.
Sự khác biệt giữa việc xây dựng chương trình đào tạo theo cách tiếp cận nội dụng
và tiếp cận năng lực được tóm lượt trong bảng dưới:
Các thành tố
Mục tiêu

Nội dung

Phương pháp

Chương trình dựa theo nội dung
Chương trình dựa theo năng lực
• Chú trọng cung cấp tri thức; Tiếp • Vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
nhận kiến thức
• Người học cần nắm bắt được tri thức,
kỹ năng và thực hiện được các kỹ
năng → Tự hình thành các năng lực
theo từng chủ đề; vận dụng kiến thức
đã học vào thực tế; Có thái độ tích
cực, đam mê môn học, ngành học
• Người học học các nội dung quy • Người học và người dạy cùng hợp tác
định sẵn, và phát triển theo các kiến • Người học được truyền đạt những nội
thức đã được truyền đạt một cách

dung định hướng nhằm đạt được các
thụ động, không gắn với các tình
đầu ra quy định
huống thực tế để xử lý.
• Nội dung kiến thức được lĩnh hội từ
• Nội dung người học được truyền thụ
nhiều nguồn khác nhau và trong quá
chủ yếu từ sách giáo khoa, giáo
trình học được sử dụng kiến thức để
trình và giảng viên.
xử lý và giải quyết các tình huống
thực tế nảy sinh.
• Chủ yếu tiếp nhận kiến thức, kĩ • Vận dụng kiến thức, kĩ năng, thái độ
năng nhận thức;
theo kiểu tích hợp trong bối cảnh thực
để phát triển dần năng lực.
• Nhấn mạnh kĩ năng nhận thức, tư
• Nhấn mạnh kĩ năng nhận thức, tư duy
duy logic.
phê phán, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
• Mỗi kiến thức, kĩ năng được học
hợp tác.
không liên tục, ít lặp lại và ở từng
môn học.
• Mỗi năng lực được phát triển liên tục
theo hình xoăn ốc ở nhiều lĩnh
• Giảng viên chủ yếu sử dụng phương
vực/môn học, dọc theo thời gian.
pháp diễn giảng, truyền thụ kiến
thức một chiều

• Giảng viên đóng vai trò định hướng,
hỗ trợ, tổ chức các hoạt động và đánh
• Người học thụ động tiếp thu kiến
giá người học.
thức đã được quy định sẵn

7


Giảng viên làm mẫu phân tích, • Giảng viên thực hiện nhiều phương
hướng dẫn người học luyện tập theo
pháp dạy học tích cực nhằm tăng tính
các phương pháp truyền thống
tương tác, phát huy khả năng tư duy,
sáng tạo của người học.
• Người học tự giác, chủ động tìm tòi,
nghiên cứu và sáng tạo trong tiếp
nhận tri thức, giải quyết các vấn đề.
Đồng thời bản thân người học tham
gia vào việc tự đánh giá, tự điều chỉnh
→ hình thành tri thức, kỹ năng và thái
độ học tập.
Trách nhiệm
• Chịu trách nhiệm cung cấp các
• Vừa cung cấp nguồn lực, vừa chịu
nguồn lực hỗ trợ là chủ yếu.
trách nhiệm đến kết quả cuối cùng.
Hình thức tổ
• Lớp học cố định trong 4 bức tường, • Lớp học linh động tùy theo từng chủ
chức lớp học

người học ngồi yên lặng nghe giảng
đề, nội dung buổi học. Học viên có
viên truyền đạt
thể học ở lớp, ở phòng thực hành,
phòng thí nghiệm, đi thực tế tại cơ
quan, doanh nghiệp, điền dã, học ở
hiện trường, học cá nhân, học theo
nhóm…
Đánh giá người • Nhấn mạnh những kiến thức, kĩ
• Nhấn mạnh những kết quả đầu ra
học
năng đã được quy định.
thực sự ở mỗi học viên
• Tập trung vào đánh giá tổng kết
• Tập trung đánh giá quá trình (theo dõi
sự tiến bộ) và đánh giá tổng kết.
• Tập trung đo lường các mục tiêu
• Tập trung đo lường nhiều năng lực
môn học đơn lẻ.
trong quá trình học viên tham gia
• Chủ yếu do giảng viên thực hiện.
hoạt động thực;
• Thường thu thập thông tin tại các
• Do giảng viên và học viên thực hiện.
thời điểm cố định.
• Đánh giá dựa trên tiêu chí có sẵn, và • Đánh giá cả quá trình học tập của
người học và đánh giá bằng nhiều
chỉ yêu cầu người học tái hiện lại
hình thức khác nhau, coi trọng đến
hình thức và kiến thức đã được học

khả năng hình thành năng lực và vận
dụng để giải quyết tình huống.


Hiện nay ở nước ta có nhiều mô hình giáo dục, đào tạo được xây dựng, phát triển
theo hướng tiếp cận năng lực. Việc tiếp cận này có thể tốn nhiều chi phí hơn so với cách
tiếp cận truyền thống bởi vì tính cá nhân hóa của từng học viên và tạo ra nhiều môi trường
học tập thích hợp hơn. Đối với chương trình giáo dục, nhiều trường đang áp dụng mô hình
này cho học sinh ví dụ như các trường thực nghiệm và một số trường công lập và tư thục
khác. Học sinh được tạo điều kiện phát triển toàn diện và khuyến khích phát triển điểm
mạnh cá nhân. Cuối mỗi học kỳ thì học sinh đều được đánh giá dựa trên năng lực cá nhân
chứ không đánh đồng hay so sánh với học sinh khác. Do đó sẽ có học sinh được khen vì

8


có năng lực trong lĩnh vực này, có học sinh được thưởng vì thể hiện năng lực trong lĩnh
vực khác.
Đối với chương trình đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, nhiều trường cũng đã
và đang tạo ra những môi trường giúp sinh viên có thể phát huy tối đa thế mạnh từng lĩnh
vực. Chương trình Robocon là một sân chơi tốt để cho sinh viên chuyên ngành cơ khí, điện
tử có thể thể hiện bản thân. Bên cạnh đó là các hoạt động nghiên cứu, hoặc ký kết các hợp
đồng giữa doanh nghiệp và nhà trường cũng là cách để giúp học viên được học tập qua
thực tế.
Nhìn một cách tổng thể thì hiện nay học sinh, sinh viên có nhiều cơ hội thực hành
và tiếp cận thực tế hơn cách giảng dạy truyền thống. Trước đây học sinh, sinh viên chỉ cần
học hết những gì thầy cô truyền đạt là có thể vững tin qua các kỳ thi. Trong khi đó giai
đoạn hiện nay thì thầy cô chỉ đóng vai trò định hướng, học viên cần tự tìm kiến thức ở
những nguồn khác nhau, do đó đòi hỏi tính chủ động ở học viên cao hơn. Nước ta cũng
đang thực hiện hoạt động giáo dục một chương trình với nhiều bộ sách để tăng tính tự chủ

cho giảng viên và học viên, các bộ sách đều chỉ đóng vai trò là tài liệu tham khảo. Giảng
viên và học viên chủ động hơn trong việc chọn nguồn tài liệu để sao cho quá trình dạy và
học đạt kết quả tốt nhất.
Có câu nói rằng “Nếu đất nước nào thắng trong cuộc đua giáo dục, sẽ thắng trong
phát triển kinh tế” hay “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay
đổi cả thế giới” để nói lên tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển và tầm ảnh
hưởng của quốc gia trên trường quốc tế. Hiện nay nền giáo dục nước ta vẫn còn một số hạn
chế nên vấn đề đổi mới chất lượng giáo dục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu hiện
nay, trong đó có đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực người học.
Đây là một nhiệm vụ cấp thiết cần triển khai ngay bởi chất lượng giáo dục sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Để thực hiện thành công phương pháp này cần có sự phối hợp đồng bộ từ nhà
trường, người dạy và người học. Đã có những câu nói mô tả tầm quan trọng giữa nhà
trường, người dạy và người học đó là nhiệm vụ của trường đại học không phải là cung cấp
những câu trả lời thích hợp, mà chính phải là đặt ra các câu hỏi thích hợp và người thầy
thực sự hiểu biết không bắt học viên bước vào ngôi nhà tri thức của thầy, mà hướng dẫn
học viên đến ngưỡng của tư duy và tri thức của. Đối với người học thì người nào chỉ biết
ngồi nghe giảng mà bản thân không cảm thấy khát khao đọc sách, không tự tìm hiểu, nghiên
cứu thì có thể nói tất cả những điều học viên ấy nghe giảng cũng sẽ chỉ như một tòa nhà
xây trên cát.

9


Tài liệu tham khảo:
Trường Đại Học Giáo Dục: Phát Triển Chương Trình Và Tổ Chức QTĐT (Dùng
cho các khóa bồi dưỡng giảng viên cao đẳng/đại học về nghiệp vụ Sư phạm đại học theo
chương trình của Bộ GD&ĐT)
Giáo trình Phát triển chương trình giáo dục - Gs.Ts. Nguyễn Đức Chính (Chủ biên).
Nghị quyết 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa XI.
VnExpress: Những ưu việt của giáo dục dựa trên năng lực, 17/1/2018.

10



×