Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN sử dụng nguồn tư liệu để giảng dạy bài trách nhiệm của học sinh với nhiệm vụ bảo vệ an ninh tổ quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.27 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NGỌC LẶC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG NGUỒN TƯ LIỆU ĐỂ GIẢNG DẠY BÀI “
TRÁCH NHIỆM CỦA HỌC SINH VỚI NHIỆM VỤ BẢO
VỆ AN NINH TỔ QUỐC”

Người thực hiện: Mai Đình Võ
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Giáo dục Quốc phòng – An ninh

THANH HOÁ NĂM 2019


TT

Đề
mục

1
2
3
4
5
6
7
8


9

I.
I.1
I.2
I.3
I.4
II.
II.1
1.1
1.2

10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27

28
29
30
31
32
33

2
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
II.2
2.a
2.b
2.c
2.d
2.e
II.3
3.a
3.b
II.4
4.a
4.b
4.c
III
III.1

III.2

1. PHẦN MỤC LỤC
Nội dung tiêu đề
- Mở đầu
- Lý do chọn đề tài
- Mục đích nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu
- Nội dung
- Cơ sở lý luận của vấn đề
- Tình hình an ninh Quốc gia và trật tự an toàn xã hội
- Đối tác và đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ
ANQG, giữ gìn trật tự ATXH
- Nội dung và giải pháp bảo vệ An ninh Quốc gia
- Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ
- Bảo vệ an ninh kinh tế
- Bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng
- Bảo vệ an ninh dân tộc
- Bảo vệ an ninh tôn giáo
- Bảo vệ an ninh biên giới
- Bảo vệ an ninh thông tin
- Thực trạng của vấn đề
- Tính tích cực của vấn đề
- Tính tiêu cực
- Sự mâu thuẫn
- Khó khăn
- Thuận lợi
- Giải pháp và tổ chức thực hiện
- Tổ chức hướng dẫn và giảng dạy

- Tổ chức hoạt động ngoại khóa
- Hiệu quả và tác dụng của đề tài
- Với giáo viên
- Với bản thân
- Với học sinh
- Kết luận và kiến nghị
- Kết luận
- Kiến nghị

Trang
3- 4
3
3
3
3- 4
4-21
4
4- 7
7- 8
8-18
8- 9
9-10
11 - 12
13
10 - 14
14 - 16
16 - 18
18 - 20
18
18

19
19
19 - 20
20
20
20
20 - 21
20 - 21
21
21
21 - 22
22
22


I. MỞ ĐẦU
I.1. Lí do chọn đề tài
Đại hội VI (1986) Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước…đến Đại
hội XII của Đảng nhìn lại hơn 30 năm đổi mới, đánh giá những thành tựu đạt được,
chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, rút ra những bài học. Thực tế chỉ rõ: hơn 30 năm
đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta,
đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới
mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để,
là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường hòa
bình, ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định một số nội dung, quan điểm bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội trong tình hình mới. Đây là vấn đề sống còn, một đường lối chiến lược trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Sự chuyển mình, phát

triển mạnh mẽ, đi lên của đất nước một cách tích cực được nhân dân trong nước, kiều
bào ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế ghi nhận một cách thiết thực.
Cùng với sự phát triển đó là việc nảy sinh không ít những khó khăn, thách thức trong
lòng đất nước và sự tác động tiêu cực của các thế lực thù địch chống phá nước ta trên
thế giới, làm chậm hoặc có thể suy thoái sự phát triển của đất nước ở mọi lĩnh vực.
Là học sinh những năm cuối cấp THPT, sắp và sẽ trở thành lực lượng trí thức
trẻ, nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao của đất nước trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Trước hết các em phải nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng,
pháp luật của Nhà nước trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội, qua đó để xác định rõ nghĩa vụ và trách nhiệm cụ thể như thế nào thông
qua bài học?
- Đó là cơ sở, là lý do tôi lựa chọn đề tài Sử dụng nguồn tư liệu để giảng dạy
bài: “ Trách nhiệm của học sinh với nhiệm vụ bảo vệ An ninh Tổ quốc ” là vấn đề
sống còn của đất nước để giảng dạy cho học sinh lớp 12 Trường THPT Ngọc Lặc
trong năm học 2018 - 2019 và các năm học tiếp theo
I. 2. Mục đích nghiên cứu.
- Phổ biến những kiến thức về “Nội dung, trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia
” mang tính sống còn của đất nước đến thế hệ trẻ ( trong đó có cán bộ giáo viên và
học sinh Trường THPT Ngọc Lặc) hiểu, biết được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình
trong hành xử trước vận mệnh của đất nước.
I. 3. Đối tượng nghiên cứu.
- Khách thể: Quá trình giảng dạy môn học Giáo dục Quốc phòng - An ninh bậc THPT
+ Thực trạng tiếp thu kiến thức, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của học sinh
Trường THPT Ngọc Lặc -H. Ngọc Lặc - Tỉnh Thanh Hóa trong năm học 2018 - 2019.
- Chủ thể: Giáo viên và học sinh khối 12 Trường THPT Ngọc Lặc.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
+ Điều tra, khảo sát thực tế, thu thập tài liệu
+ Tổng hợp và phân tích tài liệu
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn,
+ Điều tra dư luận ( ý kiến tiếp thu, phản hồi của giáo viên và học sinh)



+ Kiểm chứng bằng thực nghiệm
- Phương pháp toán học xắc suất thống
kê . + Đưa ra số liệu
+ Phân tích và tổng hợp số liệu.

II. NỘI DUNG
II. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1.1. Tình hình an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội
a) Một số nét về tình hình an ninh quốc gia
Trong những năm qua, sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã đã có tác động tiêu
cực và tạo thuận lợi cho các hoạt động chống phá của các tổ chức, thế lực phản động
cả ở trong nước lẫn bọn phản động lưu vong bên ngoài. Chúng cho rằng thời cơ đã
đến trong lúc chúng ta gặp rất nhiều khó khăn và chúng đã hi vọng vào một cuộc "lật
đổ" ở Việt Nam. Chính vì thế mà hoạt động chống phá của các tổ chức và các thế lực
phản động nhằm cản trở công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta cũng có những
diễn biến rất phức tạp.
- Trước hết là hoạt động của các tổ chức phản động của người Việt Nam ở nước
ngoài. Hiện nay có khoảng 200 tổ chức chính trị phản động người Việt lưu vong tại
các nước tư bản núp dưới các danh nghĩa khác nhau bao gồm các tổ chức phản động
mang tính chính trị rõ nét, các tổ chức tập hợp bọn ngụy quân, ngụy quyền, các tổ
chức lợi dụng nhân quyền hoặc núp dưới các danh nghĩa "từ thiện". Các tổ chức phản
động này có cơ sở vật chất tương đối khá gồm 50 nhà xuất bản, 500 tờ báo Việt ngữ, 6
chương trình truyền hình, 10 đài phát thanh. Các tổ chức phản động này đều có sự
dung túng của chính quyền một số nước tư bản nên có điều kiện về kinh phí, trụ sở để
hoạt động. Hiện nay tại các nước như : Mĩ, Pháp, Bỉ, Canađa, Ôxtrâylia,... có các tổ
chức phản động lớn như các tổ chức của Võ Văn Ái, Hoàng Cơ Minh, Võ Đại Tôn...
Hầu hết các tổ chức phản động lưu vong này đều kêu gọi các nước cấm vận,
trừng phạt Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, chúng lợi dụng khó khăn, thiếu sót trong

quản lí của ta để thực hiện kế hoạch "chuyển lửa về quê" đưa ra các lời kêu gọi lật đổ
và tiếp tay, kích động cho các hoạt động của bọn phản động trong nước. nổi bật là
hoạt động diễn biến hoà bình với 3 nội dung: chiếm lĩnh thị trường, ngoại giao hữu
nghị và khoét sâu mâu thuẫn mà mục đích chính là thôn tính hay xoá bỏ Việt Nam.
Hoạt động của các tổ chức phản động nội địa như các tổ chức phản động của
bọn ngụy quân, ngụy quyền còn chống đối không chịu cải tạo, cũng như bọn phản
động lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân tộc và số cơ hội bất mãn trong những năm qua
cũng diễn biến khá phức tạp, nhiều nơi chúng cấu kết và được các tổ chức nước ngoài
cung cấp tài liệu, tiền bạc, vũ khí để tập hợp lực lượng, nhen nhóm tổ chức, tiến hành
các vụ gây rối bạo loạn. Một số đối tượng bất mãn viết tin tài liệu nói xấu chống lại
Đảng và Nhà nước ta, đòi thay đổi đường lối rồi tán phát qua mạng Internet hoặc phổ
biến thông qua các cuộc gặp gỡ với các phóng viên báo chí nước ngoài.
- Tình hình an ninh văn hoá tư tưởng, an ninh kinh tế trong những năm qua còn nhiều
bất cập. Phá hoại tư tưởng là một dạng đặc biệt của chiến tranh lạnh, một hình thức
chủ yếu trong cuộc đấu tranh tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc chống chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm qua các hoạt động phá hoại văn hoá tư tưởng được các bọn phản
động nhất là bọn phản động bên ngoài tiến hành thông qua hoạt động của các đài phát
thanh, mạng Internet. Hiện tại có nhiều đài phát thanh và chương trình do bọn phản


động lưu vong tham gia, trong đó có 5 chương trình, 300 báo được thực hiện ở Mĩ, có
175 tờ báo chống cộng như "Quê mẹ", "Hoa sen", "Công luận" hoạt động phá hoại
được tiến hành theo các chiến dịch, có sự phối hợp giữa các nước đế quốc với bọn
phản động, gắn liền với các hoạt động tình báo gián điệp. Tất cả các hoạt động đó đều
nhằm vào xuyên tạc, nói xấu, kích động nhằm gây mất ổn định trong nước.
- Trong những năm qua, tình hình lộ bí mật, mất thông tin bí mật về kinh tế đã xảy ra
ở nhiều cơ quan, xí nghiệp và đã gây ra nhiều thiệt hại. Các hoạt động nhằm phá hoại
được tiến hành cả bề rộng lẫn bề sâu thông qua các hoạt động lấy cắp bí mật kinh tế,
tuyên truyền và lôi kéo cán bộ quản lí kinh tế và khoa học kĩ thuật phá hoại cơ sở vật
chất. Trong tình hình hiện nay, chúng nhằm vào phá hoại các chủ trương đường lối

kinh tế, các công trình trọng điểm của ta.
- Tình hình an ninh biên giới còn nhiều phức tạp, các vụ xâm nhập qua biên giới diễn
ra với nhiều hình thức, hoạt động xuất nhập cảnh cũng có nhiều thiếu sót dẫn đến tình
trạng nhập cảnh trái phép, nhất là các khu vực giáp biên. Lợi dụng các mối quan hệ
của các dân tộc hai bên biên giới, chúng qua lại, móc nối, lôi kéo, chia rẽ các dân tộc,
dòng họ trong nước hòng làm suy yếu, tiến tới gây bạo loạn ở những nơi này.
- Trong nhiều năm qua xuất hiện nhiều điểm nóng về an ninh trật tự, xuất phát từ
những bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc làm sai trái, thiếu sót của cán
bộ cơ sở trong việc giải quyết đền bù đất đai... Do làm chưa triệt để, chưa công bằng
nên đã để một bộ phận nhân dân bị một số phần tử quá khích kích động dẫn đến manh
động làm rối loạn an ninh trật tự ở một số địa phương.
b) Tình hình về trật tự, an toàn xã hội
- Tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội, tội phạm kinh tế, tội phạm ma tuý trong
những năm qua có những diễn biến rất phức tạp. Số vụ phạm tội hàng năm bị phát
hiện có sự tăng giảm không đều trong đó các vụ trọng án có chiều hướng tăng. Bình
quân hàng năm có khoảng 70.000 vụ phạm tội được phát hiện trong đó các vụ án giết
người, cướp của, cướp giật có xu hướng tăng. Trong các vụ án giết người thì nguyên
nhân chủ yếu là nguyên nhân xã hội ( ở Bình Dương, Bình Phước, Điện Biên…).
Các loại tội phạm xâm phạm trật tự, an toàn xã hội ngày càng có xu hướng
chuẩn bị trước, tình hình các băng nhóm tội phạm câu kết với nhau tạo thành những tổ
chức tội phạm rất nguy hiểm gây nhức nhối, bức xúc cho xã hội.
Các loại tội phạm hình sự khác như bọn đâm thuê, chém mướn, trả thù cá nhân
bằng bom thư, bom mìn hoặc tạt axít trong những năm qua cũng rất đa dạng và là một
nỗi nhức nhối của xã hội. Loại tội phạm này hoạt động rất manh động, bất chấp hậu
quả gây ra cho dù người bị hại có thể không phải là người mà chúng cần trả thù, có
những vụ tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm hình sự hoạt động ngày càng táo
bạo, manh động, chúng sử dụng đủ các loại hung khí, kể cả vũ khí nóng.Thành phần
đối tượng phạm tội rất đa dạng, đủ các loại người, có cả lưu manh cũng như nông dân,
cán bộ, đảng viên, trí thức, sinh viên, học sinh. Trong đó đáng lo ngại là các vụ trả thù
cá nhân do mâu thuẫn nội bộ rồi đi thuê giang hồ xã hội đen trả thù.

Thủ đoạn gây án của bọn tội phạm hình sự rất đa dạng, từ những thủ đoạn đơn giản cổ
điển nhưng hiệu quả như "vãi thóc gọi gà" của bọn lừa đảo đến những thủ đoạn tinh
vi, xảo quyệt của bọn giết người dùng các loại độc chất khó phát hiện.Về địa bàn hoạt
động, tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xảy ra ở tất cả các địa bàn trong cả nước
nhưng tập trung vào các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng và một số tỉnh như: Bình Dương, Nam Định, Thanh Hóa, Điện Biên...


Các loại án kinh tế, tuy số vụ không tăng nhiều nhưng quy mô, tính chất rất
nghiêm trọng như: ( tập đoàn Dầu khí Việt Nam PVN, các đại án Trịnh Xuân Thanh,
Hà Văn Thắm, Vũ Nhôm, Châu Thị Thu Nga, Phạm Công Danh, Hứa Thị Phấn… )
tham ô với số tiền bị chiếm đoạt lên tới hàng ngàn tỉ đồng, các vụ án lớn dùng công
nghệ cao để tổ chức đánh bạc, các loại hình tín dụng đen, cho vay với lãi suất cắt cổ...
Loại tội phạm này thường có sự "bọc lót", "che chắn" cho nhau, tài sản bị mất là tài
sản nhà nước nên ý thức tự giác đấu tranh của công dân tại những cơ quan, doanh
nghiệp này chưa cao, đây cũng là lí do giải thích tại sao công tác điều tra, thanh tra
chưa đạt hiệu quả cao. Các lĩnh vực xảy ra tội phạm kinh tế thường có ở các ngành
kinh tế như xây dựng cơ bản, ngân hàng, đầu tư, xuất nhập khẩu, giao thông, vận tải.
Tình trạng buôn lậu trốn thuế trong những năm qua vẫn chưa giảm đáng kể,
chúng được thực hiện cả ở vùng cửa khẩu biên giới, trên biển, trên các tuyến vận
chuyển, kể cả các tuyến hàng không. Mặt hàng buôn lậu đa dạng chủng loại từ vải
vóc, máy móc đến điện thoại di động, thuốc chữa bệnh. Buôn lậu xảy ra phức tạp nhất
ở các địa bàn trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, các khu vực biên giới
Tây Nam, biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Trung Quốc.
Tội phạm kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng không chỉ về vật chất, mà còn làm
mất đi cả một bộ phận cán bộ, đảng viên gây ảnh hưởng xấu về chính trị, xã hội.
Tội phạm ma tuý ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng sẵn sàng chống trả quyết
liệt với các lực lượng đấu tranh, đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ hi sinh trong đấu tranh
với loại tội phạm này. Địa bàn hoạt động của loại tội phạm này tập trung ở các thành
phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng và các tỉnh biên giới Việt Nam - Lào,

Việt Nam - Campuchia, các tuyến trục đường 6, 7, 8. Các băng, nhóm, tổ chức tội
phạm ma tuý thường có sự liên kết với nhau cả trong nước lẫn quốc tế, quy mô, tính
chất ngày càng lớn và ác liệt, số lượng rất lớn nghe đến giật mình.
Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực gây ra những hậu quả vô cùng
to lớn. Nó còn là bạn đồng hành, là sân sau của các loại tội phạm. Trong những năm
qua, các loại tệ nạn ở nước ta vẫn chưa giảm: như mại dâm, cờ bạc, nghiện hút... nó
diễn ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nó có một số đặc điểm sau :
+ Tệ nạn xã hội mang tính phổ biến.
+ Tệ nạn xã hội mang tính lây lan rất nhanh, tệ nạn xã hội có quan hệ chặt chẽ với tội
phạm. Hậu quả do tệ nạn xã hội gây ra ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc gia đình, xã hội
và nó còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến nghiện ma túy, sinh hoạt tập thể
thác loạn, bầy đàn, căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS. Đối tượng tham gia tệ nạn đủ các lứa
tuổi, giới tính. Mặc dù Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều loại văn bản pháp luật
về phòng chống tệ nạn, công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn đã được toàn dân và
các cơ quan chức năng tích cực tham gia, tuy nhiên hiệu quả còn thấp. Vì vậy, trong
những năm tới cần phải đẩy mạnh hơn nữa, kiên quyết hơn nữa.
+ Cùng với tệ nạn xã hội, tình trạng tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn nghề
nghiệp rủi ro xảy ra rất nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng. Trong các loại tai
nạn thì tai nạn giao thông chiếm tỉ lệ cao nhất, các vụ tai nạn giao thông đường bộ,
đường sắt, đường thuỷ hàng năm cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người và
hàng trăm nghìn người trở thành phế nhân, tài sản bị hư hỏng rất nghiêm trọng,
nguyên nhân của các vụ tai nạn giao thông có rất nhiều như :
Do số lượng phương tiện giao thông tăng rất nhanh, nhất là ô tô, xe máy. Bên cạnh đó,
việc xử lí những vi phạm trật tự, an toàn giao thông còn nhiều bất cập, phiền nhiễu


Mặc dù đã có Luật Giao thông đường bộ, Nghị quyết 13,14,15 của Chính phủ, nhưng
tình trạng vi phạm vẫn không giảm. Những vụ tai nạn lao động, nghề nghiệp, rủi ro,
các vụ cháy nổ trong những năm qua xảy ra cũng hết sức lo ngại. Đã có nhiều vụ sập
nhà, sập hầm lò và đặc biệt là tình hình cháy nổ xảy ra ngày càng tăng. Vấn đề ô

nhiễm môi trường cũng đáng báo động. Tình trạng chặt phá rừng đầu nguồn bừa bãi,
dẫn đến ô nhiễm gây lũ lụt, hạn hán ; ô nhiễm nguồn nước rất cao, việc không đảm
bảo nước sạch, vệ sinh ATTP cộng với các dịch cúm gà, lở mồm long móng, dịch tả
lợn châu phi lây lan gây nên tình trạng nhiễm bệnh rất lớn, bên cạnh đó là hàng nghìn
vụ ngộ độc thức ăn, có những vụ ngộ độc tập thể gây nguy hiểm tính mạng cho cả
hàng trăm người.
1.2. Đối tác và đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Trong tình hình hiện nay, cần có cách nhìn nhận mới và thống nhất về vấn đề
đối tác và đối tượng đấu tranh theo nguyên tắc :
- Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với VN đều là đối tác của chúng ta.
- Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.
- Mặt khác, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn
nhận biện chứng : trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác ; trong
một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó,
cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận
thức, chủ trương và trong xử lí các tình huống cụ thể.
a) Đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia
Có nhiều loại cụ thể, trong tình hình hiện nay cần tập trung đấu tranh:
- Gián điệp : Gián điệp là người Việt Nam hay người nước ngoài, hoạt động cá nhân
hay có tổ chức, chịu sự chỉ huy của nước ngoài để tiến hành các hoạt động điều tra thu
thập tình báo, gây cơ sở bí mật và phá hoại nhằm chống lại nước ta.
- Phản động : Phản động là những cá nhân hay tổ chức có âm mưu và hoạt động phản
cách mạng chống lại chế độ XHCN, nhưng không chịu sự chỉ huy của nước ngoài.
* Trong tình hình hiện nay cần tập trung đấu tranh với những loại sau :
+ Các tổ chức và cá nhân phản động trong số người Việt Nam ở nước ngoài đang có
những hoạt động chống Việt Nam.
+ Bọn phản động lợi dụng tôn giáo.

+ Bọn phản động lợi dụng dân tộc ít người, nhất là bọn có sự câu kết của các lực
lượng phản động bên ngoài.
+ Bọn phản động trong ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động cũ không chịu
cải tạo.
+ Bọn có tư tưởng, quan điểm sai trái, những phần tử trong nội bộ bất mãn thoái hoá
biến chất trở thành phản động, chống Đảng, chống CNXH; số cơ hội chính trị.
b) Đối tượng xâm phạm về trật tự, an toàn xã hội.
Đối tượng xâm phạm về trật tự, an toàn xã hội là những người có hành vi phạm tội
gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, đến tính mạng sức
khỏe và danh dự phẩm giá của con người, đến trật tự an toàn xã hội nhưng không có
mục đích chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Trong các đối tượng xâm phạm trật tự, an toàn xã hội hiện nay có những người phạm
tội nhất thời, có đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, với tính chất và mức độ nguy
hiểm khác nhau. Các đối tượng này bao gồm :
Các đối tượng xâm phạm trật tự xã hội (tội phạm hình sự).
Các đối tượng xâm phạm trật tự quản lí kinh tế và chức vụ (tội phạm kinh
tế). Các đối tượng về ma tuý (tội phạm ma tuý).
Trong số các đối tượng trên cần tập trung vào đấu tranh với các đối tượng sau :
+ Bọn tội phạm kinh tế, nhất là bọn tham nhũng, bọn buôn lậu, bọn sản xuất tàng trữ
và tiêu thụ tiền giả.
+ Bọn tội phạm về ma tuý.
+ Bọn tội phạm hình sự, tập trung vào bọn hoạt động có tổ chức, bọn lưu manh
chuyên nghiệp, sử dụng bạo lực, tội phạm có quan hệ với nước ngoài.
2. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA.
2.1. Bảo vệ an ninh chính trị nội bộ
Tình hình trên đòi hỏi các cơ quan, đơn vị phải hết sức cảnh giác, chú trọng
công tác bảo vệ chính trị nội bộ; coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, cấp
bách hiện nay của cấp ủy, chỉ huy các cấp, các ngành và mọi cán bộ, đảng viên trong

toàn quân. Bảo vệ chế độ chính trị, Đảng, Nhà nước, giữ gìn sự trong sạch, vững
mạnh về mọi mặt của tổ chức Đảng, Nhà nước, các cơ quan, người Việt Nam đang
làm việc học tập ở nước ngoài với những biện pháp sau:
- Một là, thường xuyên quán triệt, giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác và trách
nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ đối với việc bảo vệ Đảng, bảo vệ Quân đội, Công an . Đây
là cơ sở quan trọng để tiến hành tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là trong tình
hình hiện nay. Mục tiêu của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là nhằm làm cho các cơ
quan, đơn vị Quân đội, Công an tuyệt đối an toàn về chính trị. Do đó, nội dung giáo
dục cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải toàn diện, song cần tập trung giáo dục về tầm
quan trọng của công tác bảo vệ chính trị nội bộ và việc xây dựng Quân đội, Công an
về chính trị luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó máu thịt với
nhân dân. Trong đó, cần coi trọng giáo dục cho những cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ
đặc biệt, công tác lẻ, những người làm công tác bảo mật, cảnh vệ, quản lý kho tàng,
vũ khí, trang bị kỹ thuật, chiến sĩ mới.
- Hai là, cấp ủy, chỉ huy các cấp phải nắm vững và tổ chức thực hiện nghiêm các nghị
quyết, chỉ thị, quy chế, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an về công tác
bảo vệ chính trị nội bộ. Trước hết, cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt Quy định 57QĐ/TW, ngày 03-5-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) quy định một số vấn đề về bảo vệ
chính trị nội bộ Đảng; Chỉ thị 39-CT/TW, ngày 18-8-2014 của Bộ Chính trị (khóa XI)
về tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay; Chỉ thị
05/CT-TTg, ngày 21-02-2012 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong tình hình mới; Quy chế quản lý, cung cấp
và sử dụng dịch vụ Internet trong Quân đội, Công an, đẩy mạnh học tập làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Làm tốt việc rà soát, xét duyệt, tuyển chọn
người vào Quân đội, Công an như: công tác tuyển quân, tuyển sinh quân sự, tuyển
nhân viên vào cơ quan, đơn vị, vị trí trọng yếu cơ mật. Trong bố trí sử dụng, điều
động, bổ nhiệm cán bộ, phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn chính trị, thủ tục, nguyên tắc
quy định, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn kẻ địch, phần tử xấu cài cắm, xâm
nhập vào nội bộ, góp phần đảm bảo nội bộ cơ quan, đơn vị trong sạch.



- Ba là, thường xuyên rà soát, nắm và quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ,
nhất là tư tưởng, mối quan hệ của cán bộ, đảng viên. Coi trọng việc nắm, phòng
ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng và người lao động; kiên quyết đấu
tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Phối hợp
chặt chẽ với công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kịp thời phát hiện, xử lý những cán
bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước và kỷ luật Quân đội, Công
an. Để quản lý chặt chẽ, các đơn vị cần vận dụng nhiều hình thức, biện pháp và thực
hiện tốt chế độ phân công, phân cấp trong nắm bắt, báo cáo tình hình theo quy định.
Đồng thời, chăm lo xây dựng, củng cố các tổ chức trong đơn vị luôn trong sạch, vững
mạnh; phát huy tốt vai trò của đội ngũ bí thư, cấp ủy viên phụ trách công tác bảo vệ
và chiến sĩ bảo vệ ở cơ sở trong thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Cùng với
đó, các cơ quan đơn vị phải chấp hành nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước,
Quân đội, Công an về bảo vệ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự.
- Bốn là, chấp hành nghiêm các quy định trong hoạt động đối ngoại quốc phòng, an
ninh. Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị cần lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ các hoạt động đối
ngoại; các cơ quan chức năng liên quan làm tốt công tác tham mưu, đề xuất trong
triển khai thực hiện; đảm bảo việc xét duyệt, tuyển chọn cán bộ ra nước ngoài công
tác, chặt chẽ về tiêu chuẩn chính trị, thủ tục, nguyên tắc và phải xuất phát từ yêu cầu,
nhiệm vụ. Đồng thời, tăng cường biện pháp quản lý chặt chẽ đối với các đoàn, cá
nhân ra nước ngoài công tác, học tập, thăm thân,… tránh làm lộ, lọt bí mật trong quan
hệ tiếp xúc với nước ngoài. Đặc biệt, không để cán bộ, đảng viên bị các thế lực thù
địch, phần tử xấu mua chuộc, khống chế, móc nối, lôi kéo, v.v.
- Năm là, thực hiện tốt công tác xây dựng đơn vị an toàn, gắn với xây dựng địa bàn
an toàn. Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt phương châm lấy xây
dựng bên trong để hỗ trợ ngoài và lấy xây bên ngoài để củng cố bên trong. Thường
xuyên phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chức năng địa
phương; bám sát thực tiễn, nắm chắc tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
và những âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của địch trên địa bàn đóng quân để
xây dựng kế hoạch thực hiện. Khi xảy ra các tình huống phức tạp, các đơn vị phải kịp

thời báo cáo trên và chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trên địa bàn để xử
lý triệt để, không để kéo dài, lan rộng. Đồng thời, duy trì tốt việc sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm cũng như tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nâng
cao cảnh giác, thực hiện nghiêm những quy định về phòng gian, giữ bí mật.
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội, Công an trong tình hình
hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thiết thực góp phần quán triệt, thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về
xây dựng Đảng, đảm bảo cho Quân đội, Công an vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, tạo cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội.
2.2. Bảo vệ an ninh kinh tế
Để bảo vệ sự ổn định phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo
định hướng XHCN giai đoạn hiện nay ở Việt Nam và bảo vệ đội ngũ quản lý kinh tế,
các nhà khoa học, kinh doanh cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, tăng cường đấu tranh phản biện các luận điệu sai trái của các thế lực thù
địch phá hoại nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam.


Trước âm mưu diễn biến hòa bình, phá hoại định hướng XHCN trong nền kinh tế thị
trường của các thế lực thù địch, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế”
Theo đó, để giữ vững tính định hướng XHCN trong nền kinh tế, cần đảm bảo vai trò
lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối của Đảng đối với công tác công an nói riêng, và sự
nghiệp đảm bảo an ninh kinh tế nói chung.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phản tuyên truyền các thế lực thù
địch lợi dụng mạng xã hội tuyên truyền, xuyên tạc về kinh tế thị trường của Việt Nam.
Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, bổ sung phổ biến những nội dung liên quan
đến quan điểm của Đảng, Nhà nước về kinh tế thị trường định hướng XHCN đến
quần chúng nhân dân thông qua các kênh khác nhau...
- Thứ hai, kiểm soát hiệu quả dòng vốn nước ngoài, kiểm soát nợ công, nợ nước

ngoài quốc gia.
Việt Nam cần nâng cao năng lực hệ thống tài chính trong nước, bao gồm hệ thống
ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm để có đủ sức “đề kháng” trước những cú sốc trong
hệ thống tài chính quốc tế. Nâng cao hiệu quả các cơ quan giám sát tài chính bao gồm
Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước nhằm đối phó với tình huống dòng vốn đảo chiều đột ngột và
hướng dòng vốn vào các ngành có hiệu quả và kiểm soát dòng vốn vào các ngành có
tính đầu cơ cao như bất động sản, chứng khoán.
Việt Nam cần có những biện pháp quyết liệt nhằm siết chặt quản lý đầu tư công, Kiểm
soát mua sắm công hướng tới các mục tiêu: Nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư phát
triển; Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và Chính phủ không bảo
lãnh vốn vay cho các dự án thương mại của doanh nghiệp nhà nước; Tinh giản bộ máy
nhà nước nhằm tiết kiệm ngân sách.
Từ phía nguồn thu, trước xu hướng giảm nguồn thu xuất nhập khẩu, tăng cường hiệu
quả hệ thống thu thuế nội địa nhờ mở rộng thuế thu nhập cá nhân và thuế giao dịch tài
sản là những nguồn thu hiện nay còn chưa khai thác hiệu quả.
- Thứ ba, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xét duyệt các dự án đầu tư công và
dự án có yếu tố nước ngoài.
Lỗ hổng trong thanh tra, kiểm tra, xét duyệt các dự án đầu tư công hoặc các dự án có
yếu tố nước ngoài đã và đang gây ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế và kìm hãm sự phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Theo đó, cần nhanh
chóng khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong quá trình thanh tra, kiểm tra, thẩm định
các dự án, lựa chọn tổng thầu chiến lược.
Xây dựng cơ quan thanh tra chuyên trách phụ trách mảng thanh tra chuyên ngành về
thẩm định các hồ sơ dự án, hồ sơ chủ đầu tư và nhà thầu một cách chuyên nghiệp,
khoa học. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý trực tiếp của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Công Thương và các bộ ngành có liên quan trong kiểm tra, xét duyệt,
thanh tra định kỳ và báo cáo Thủ tướng Chính phủ đúng hạn.
- Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế,
đặc biệt là tái cấu trúc đầu tư công.

Gánh nặng từ bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, thủ tục mặc dù đã
tinh gọn tuy nhiên vẫn phiền hà, chưa xây dựng được tác phong công nghiệp. Bên
cạnh đó, gánh nặng từ đầu tư công đang kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.


Do đó, cần tiếp tục duy trì môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, ổn định; Thực hiện
quyết liệt, hiệu quả 3 trọng tâm tái cơ cấu kinh tế, (tái cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước); tái cơ cấu các tổ chức tín dụng); Tái cơ cấu các ngành sản
xuất và dịch vụ, điều chỉnh chiến lược thị trường, tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia
tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế; Tái
cơ cấu, xây dựng và phát triển cơ cấu vùng kinh tế hợp lý. Thực hiện tinh gọn bộ máy
nhà nước theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
- Thứ năm, giảm phụ thuộc về công nghệ, tiền vốn và các nguồn lực khác.
Thiếu công nghiệp hỗ trợ là nguyên nhân cốt lõi của thực trạng nhập siêu của Việt
Nam, vì vậy phát triển công nghiệp hỗ trợ là một ưu tiên chính sách trong giai đoạn
tới. Tuy nhiên, cần nhìn nhận một thực tế, doanh nghiệp trong nước với năng lực tài
chính và khoa học công nghệ hiện nay khó có thể đảm nhiệm vai trò dẫn dắt sự phát
triển của lĩnh vực công nghiệp vì đây là lĩnh vực đòi hỏi trình độ công nghệ cao và
nguồn lao động có kỹ năng, tận dụng cơ hội từ các FTA để thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài vào phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam thông qua Quy tắc xuất xứ.
Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực cạnh tranh khu vực xuất khẩu thông qua các giải
pháp đổi mới công nghệ, tăng hàm lượng công nghệ, cải thiện giá trị gia tăng cho các
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
- Thứ sáu, tăng cường kiểm soát chất lượng về môi trường đối với các doanh nghiệp
ở Việt Nam hiện nay.
Tiếp tục tăng cường kiểm soát đối với 28 doanh nghiệp đã được Bộ Tài nguyên và
Môi trường phân loại, trong đó có một số doanh nghiệp lớn như Formosa, Núi Pháo,
Bauxit Tây Nguyên… Cần xây dựng và hoàn thiện bộ tiêu chí về môi trường trong
các khu công nghiệp, các nhà máy để xác định những loại hình doanh nghiệp có phát
sinh chất thải gây ô nhiễm như: quy mô, công suất có tầm ảnh hưởng rộng; vị trí đặt

dự án; công nghệ sản xuất; công tác kiểm soát của dự án. Bên cạnh đó, tập trung rà
soát ngay từ khâu cấp phép đầu tư, đánh giá tác động môi trường, tránh bất ngờ.
2.3. Bảo vệ an ninh văn hóa, tư tưởng
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng đang chịu những tác động hết sức to
lớn từ tiến trình toàn cầu hóa. Chúng ta có nhiều thời cơ, vận hội mới để phát triển đất
nước, nhưng cũng gặp không ít nguy cơ, thách thức lớn, đặc biệt đối với nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia về văn hóa, tư tưởng trên nền tảng sự đúng đắn vai trò chủ
đạo của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần và xã
hội, những giá trị đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc.
*. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thực hiện NQ TW 8 (khoá iX) về “Chiến
lược bảo vệ tổ quốc” trong tình hình mới trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa
3. a. Nhóm giải pháp về đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
- Đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
chiến lược bảo vệ Tổ quốc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
- Tăng cường tuyên truyền, cổ vũ tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, phát huy chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, tạo ra phong trào hành động
cách mạng của toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Khắc phục tình trạng mơ hồ, mất cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch cũng như tư tưởng coi nhẹ nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong cán bộ, đảng viên.


- Tiếp tục tuyên truyền, kiểm tra việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng,
nhất là NQTW 4 (khóa XI); tổ chức thực hiện rộng khắp, nền nếp, thường xuyên, có
hiệu quả Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, gắn với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
3.b. Nhóm giải pháp về xây dựng và phát triển nền văn hóa

- Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Xây dựng cơ chế quản lý và
chế tài ngăn chặn các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các sản phẩm văn hóa độc hại.
Định hướng, động viên văn nghệ sĩ nêu cao trách nhiệm công dân, chống các biểu
hiện ảo tưởng, mơ hồ, hữu khuynh, mất cảnh giác, tiếp tay cho các thế lực thù địch
chống phá chế độ trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
- Coi trọng công tác bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp dân tộc
đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại.
- Ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm thực văn hóa của các thế
lực thù địch; đấu tranh kiên quyết đẩy lùi các loại văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại, các
loại hủ tục, mê tín dị đoan,…
- Đẩy mạnh giao lưu, hợp tác văn hóa, chủ động quảng bá lịch sử, văn hóa, con người,
đất nước Việt Nam ra nước ngoài, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị,
hợp tác lâu dài với các nước.
3.c. Nhóm giải pháp về đấu tranh với các luận điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng
- Tăng cường huy động, tổ chức lực lượng trong toàn Đảng và xã hội tham gia
nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình, đấu tranh, chống “diễn biến hòa bình”, phản
bác các thông tin, quan điểm sai trái; kết hợp tốt giữa đấu tranh trên mạng với tuyên
truyền công khai; kết hợp giữa tuyên truyền thông qua bài viết với tuyên truyền miệng
qua hệ thống báo cáo, tuyên truyền viên.
- Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ và quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là kỷ
luật phát ngôn, không để nảy sinh những khuynh hướng, quan điểm sai trái để các thế
lực thù địch có thể lợi dụng.
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại theo
tinh thần Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020.
3.d. Nhóm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí - xuất bản
- Tăng cường chỉ đạo, định hướng kịp thời để báo chí tuyên truyền có hiệu quả các
vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm; nâng cao hiệu quả quản lý Internet, các thiết
bị kỹ thuật số, điện thoại di động, hạn chế các thông tin có nội dụng phản động, thù
địch tác động vào xã hội; xử lý nghiêm minh, kịp thời, có lý, có tình các sai phạm trên

lĩnh vực báo chí, xuất bản.
- Chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao vai trò, vị trí, tác dụng của tổ chức đảng
trong cơ quan báo chí, xuất bản. Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhận thức
chính trị, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý báo chí, xuất bản; cán bộ,
biên tập viên, phóng viên.
- Tiếp tục mở rộng sóng phát thanh, truyền hình ra các nước, các khu vực; đưa được
sách, báo có nội dung tốt trong nước phục vụ đồng bào ta ở nước ngoài.
Trích nguồn của PGS,TS. Phạm Văn Linh
(Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương)


2.4 Bảo vệ an ninh dân tộc.
- Khi kháng chiến thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nơi biên cương, biển
đảo như cánh cửa của đất nước. Ðồng bào các dân tộc cư trú trên những miền biên
vẫn đóng vai trò quan trọng, thường xuyên và trực tiếp trong việc bảo vệ chủ quyền
biên giới và an ninh quốc gia.
- Nước ta có hơn 4.500 km đường biên giới với nhiều cửa khẩu quốc tế quan
trọng. Ðịa bàn miền núi chiếm tới hai phần ba diện tích đất đai của Tổ quốc, với nhiều
tiềm năng to lớn về nông lâm nghiệp, về công nghiệp, năng lượng, khoáng sản, về văn
hóa, du lịch... Chúng ta còn có gần 3.300 km đường bờ biển và vùng lãnh hải rộng lớn
với nhiều tài nguyên và tiềm năng kinh tế biển. Ðây là những địa bàn rất quan trọng
cần được bảo vệ. Các dân tộc cư trú trên những địa bàn quan trọng này cũng thường
xuyên là mục tiêu lôi kéo, chống phá của các thế lực thù địch.
- Khối đại đoàn kết dân tộc được xây dựng vững chắc, quyền bình đẳng giữa
các dân tộc được khẳng định, đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế... của
các dân tộc thiểu số được nâng cao từng bước, an ninh chính trị và toàn vẹn lãnh thổ
được bảo đảm.
- Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng bào các dân tộc chính là
lực lượng biên phòng nhân dân hỗ trợ đắc lực và bảo đảm cho lực lượng Bộ đội Biên
phòng hoàn thành nhiệm vụ. Nhân dân vùng biên cũng là người đùm bọc, nuôi nấng,

che chở, động viên, giúp đỡ cho các chiến sĩ biên phòng trong cuộc sống hằng ngày
tại những vùng núi rừng hẻo lánh. Xây dựng thành công trận tuyến lòng dân, hình
thành thế trận an ninh nhân dân vững chắc là yếu tố quan trọng bảo đảm giữ vững an
ninh biên giới, bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
- Lấy bài học về vấn đề xung đột sắc tộc trên thế giới làm bài học cho Việt nam
hướng đến một tương lai hòa bình, bình đẳng, hữu nghị, và phát triển.
( Trích Hồ Chí Minh - Toàn tập - Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tập 8, tr 51.)
2.5 Bảo vệ an ninh tôn giáo
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Ngoài 6 tôn giáo lớn được
Nhà nước thừa nhận như Công giáo, Phật giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo
(với số lượng tín đồ chiếm gần 1/4 dân số trong cả nước), đa phần người Việt Nam
đều theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và cùng với nhiều phong tục, lễ hội khác. Sự đan
xen, hoà đồng nhiều tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những nét đặc trưng của đời
sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam. Thấu hiểu sâu sắc nhu cầu đó, Đảng và Nhà nước
ta luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân; thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương - giáo và giữa các tôn giáo; khắc
phục thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống và ngăn
chặn kịp thời hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời nghiêm cấm lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách
của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia .
Hiện nay cả nước có 22.195 cơ sở thờ tự các loại, trong đó có nhiều cơ sở được
xây dựng mới và trùng tu rất khang trang. Những ngày lễ lớn của các tôn giáo được tổ
chức trọng thể ở mọi miền đất nước... đã thu hút hàng triệu tín đồ; có lễ hội diễn ra
với sự tham gia của hàng trăm nghìn người mà vẫn được tổ chức chu đáo, an toàn.


Tuy nhiên, tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay đã và đang xuất
hiện nhiều vấn đề mới nổi cộm mà căn nguyên của nó là sự chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch, phản động nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc,

tôn giáo Việt Nam. Những năm gần đây, nhiều hiện tượng mê tín dị đoan cũng như
hoạt động truyền đạo trái pháp luật có xu hướng gia tăng, nhất là ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số miền núi, biên giới. Điều đáng lo ngại là một số tôn giáo lạ, tà đạo, tạp
giáo đã nhen nhóm phát triển nhanh như tà đạo "Vàng Chứ" trong dân tộc Mông, tà
đạo "Thìn Hùng" trong dân tộc Dao ở Tây Bắc, tà đạo "Tin lành Đề-ga" ở Tây Nguyên
và một số giáo phái khác ở Tây Nam Bộ... Từ góc độ Quốc phòng – An ninh và từ
những bài học trong thực tế. Đảng và Nhà nước cần tiến hành đồng bộ những giải
pháp thiết thực sau:
a. Chăm lo, đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động các tầng
lớp nhân dân, nhất là đồng bào có đạo hiểu rõ và nắm vững đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới.
tạo cở sở, niềm tin vững chắc cho đồng bào có đạo yên tâm làm tròn bổn phận "sống
tốt đời đẹp đạo", "sống phúc âm trong lòng dân tộc", tăng cường Quốc phòng - An
ninh cũng như đời sống của nhân dân, trực tiếp là đồng bào tôn giáo.
b. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong công tác dân tộc,
tôn giáo; tích cực nghiên cứu, đề xuất, bổ sung và ban hành kịp thời các luật và văn
bản qui phạm pháp luật để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức điều hành, hướng dẫn, giúp đỡ
các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng theo hiến chương, điều lệ của giáo hội và tuân
thủ các qui định của pháp luật .
c. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng
xa, trong đó có vùng đồng bào dân tộc có đạo; thực hiện có hiệu quả các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, y tế, giáo dục, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống.
Giải quyết tốt tình trạng tranh chấp đất đai, đẩy nhanh tiến độ giao đất, khoán rừng, tổ
chức lại sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ, tạo việc làm ổn định, giúp
bà con an cư, lạc nghiệp. Áp dụng KH - KT tiên tiến, chuyển đổi ngành nghề, phát
triển chăn nuôi, trồng trọt, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống để đồng
bào yên tâm xây dựng cuộc sống lâu dài trên các địa bàn miền núi, biên giới. Bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, phục hồi các lễ hội, phong tục, tập quán
tốt đẹp, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá cho bà con các dân tộc, tôn giáo.
d. Tăng cường xây dựng, củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị

các cấp, nhất là cấp cơ sở vững mạnh toàn diện. Phát huy vai trò già làng, trưởng bản,
nhân sĩ trí thức là người dân tộc thiểu số và các chức sắc tôn giáo tiến bộ cùng vận
động, thuyết phục đồng bào dân tộc có đạo nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các qui định của địa phương;
chủ động phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả tình trạng truyền
đạo trái pháp luật và kiên quyết đấu tranh, xử lý kịp thời theo pháp luật những tổ
chức, cá nhân lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến an ninh con người và
an ninh quốc gia.
2.6 Bảo vệ an ninh biên giới
Ngày 28-9-2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết 33- NQ/TW
về Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia. Đây là một chiến lược chuyên ngành quan
trọng, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, thể hiện rõ tư duy,


tầm nhìn chiến lược của Đảng về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Về đối tác, đối tượng xác định trong Chiến lược
Nhất quán với quan điểm về đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam đã được xác
định trong Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia khẳng
định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biên giới Việt Nam,
cùng mục đích xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển đều
là đối tác. Bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động xâm phạm chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xâm phạm tính nguyên trạng
của biên giới quốc gia, hệ thống mốc quốc giới, dấu hiệu đường biên giới, cửa khẩu;
sử dụng biên giới quốc gia để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa đều là đối tượng ”. Như vậy, Chiến lược tiếp tục nhất quán
khẳng định và cụ thể hóa quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng của cách mạng
Việt Nam. Với cách nhìn biện chứng, Đảng ta đã có sự thay đổi nhận thức từ tư duy
bạn - thù sang tư duy “đối tác, đối tượng” để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, xây
dựng, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.

a. Mục tiêu của Chiến lược
Trước bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới, khu
vực đang diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là trong giải quyết các tranh chấp về
chủ quyền, lãnh thổ, biên giới và thực tiễn tình hình mọi mặt của đất nước, Chiến lược
Bảo vệ biên giới quốc gia xác định rõ mục tiêu, gồm mục tiêu chung và các mục tiêu
cụ thể. Theo đó, mục tiêu chung là: “… Xây dựng biên giới quốc gia hòa bình, hữu
nghị, ổn định, hợp tác; bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc gia; góp phần phát
triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở
khu vực biên giới và cả nước”. Muốn xây dựng, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền
biên giới quốc gia, phải tiếp tục đẩy mạnh việc quán triệt, kiên định nguyên tắc “dĩ
bất biến, ứng vạn biến” trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ,
biên giới trên đất liền, biển, đảo của Tổ quốc bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn
trọng luật pháp, thông lệ quốc tế; đồng thời, tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trên
các bình diện, cả song phương và đa phương với các đối tác, nhất là với các nước láng
giềng, đối tác chiến lược, bạn bè truyền thống, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn
định, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới.
b. Về quan điểm chỉ đạo
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin: “Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi nhân dân là cội nguồn sức
mạnh vô tận, là yếu tố quyết định sự thành bại của cách mạng, “ lấy dân làm gốc”.
củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân”
vững chắc. Thường xuyên chăm lo củng cố niềm tin của nhân dân, nhất là khu vực
biên giới trên bộ và trên biển. Thực hiện tốt phương châm: tích cực phòng ngừa, chủ
động ngăn chặn, xử lý khôn khéo các tình huống, giải quyết nhanh gọn, thu hẹp những
bất đồng, hạn chế sự việc gây nguy hại đến quốc phòng, an ninh, không để các thế lực
thù địch bên trong, bên ngoài câu kết thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ.
c. Về nguyên tắc:
- Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực
trong các quan hệ quốc tế; không liên minh, liên kết với nước này để chống lại nước



kia; giải quyết mọi mâu thuẫn, bất đồng, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới
bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở pháp luật Việt Nam, luật pháp quốc tế và các điều
ước quốc tế về biên giới quốc gia mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
- Chiến lược đã kế thừa sâu sắc truyền thống yêu chuộng hòa bình, giữ vững ý chí độc
lập, tự do của dân tộc qua lịch sử đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm để giành và
bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc; đồng thời, còn thể chế hóa, cụ thể những nội dung
cơ bản đường lối chính trị của Đảng, Luật Quốc phòng, Chiến lược Quốc phòng,
Chiến lược An ninh.
- Chiến lược còn đề cập một hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức thực hiện phù
hợp với thực tiễn. Những nhiệm vụ, giải pháp này, có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc củng cố, phát huy tiềm lực, xây dựng lực lượng chất lượng cao để tạo ra
sức mạnh tổng hợp nhằm quản lý và bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia trong tình
hình mới.
- Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia ra đời đã thể chế hóa sâu sắc các quan điểm,
chủ trương, tư duy mới về quốc phòng, an ninh của Đảng; cơ sở pháp lý quan trọng để
phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm
túc, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược là nghĩa vụ, trách nhiệm chính
trị của mọi công dân, tổ chức, đoàn thể, của cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
( trích bài của Thiếu tướng, TS. ĐẶNG QUANG MINH, Phụ trách Viện
trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng )
2.7 Bảo vệ an ninh thông tin
Hàng tỷ người có thể được kết nối thông tin qua các thiết bị di động có khả
năng xử lý, dung lượng lưu trữ chưa từng có trước đây và khả năng tiếp cận tri thức là
không có giới hạn; Được tiếp cận với nhiều nguồn dữ liệu khổng lồ, được trang bị
năng lực tính toán ngày càng mạnh nên có khả năng tự học, tự suy luận, tự hành xử ở
tốc độ rất nhanh, một cách vượt trội về một số phương diện.

Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích to lớn không thể phủ nhận, nhưng cũng xuất hiện
nhiều nguy cơ tiềm ẩn vô cùng lớn. Đối với Việt Nam, khoa học và công nghệ được
xác định là một trong những khâu trọng tâm của quá trình CNH, HĐH đất nước. Đại
hội Đảng lần thứ XII khẳng định khoa học và công nghệ thật sự là quốc sách hàng
đầu. Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020 (theo Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ) xác định công nghệ thông tin và truyền thông là “ngành kinh tế mũi
nhọn”, là công cụ quan trọng hàng đầu thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, rút ngắn quá
trình CNH, HĐH đất nước. Tầm nhìn đến năm 2020 đặt mục tiêu ứng dụng rộng rãi
công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi lĩnh vực, khai thác hiệu quả thông tin
và tri thức trong tất cả các ngành...
Với định hướng này, Việt Nam được xem là một trong những quốc gia có sự
phát triển nhanh về công nghệ thông tin trên thế giới và đang nỗ lực trở thành quốc
gia thứ hai trong khu vực Đông - Nam Á triển khai xây dựng thành phố thông minh
phục vụ cuộc sống. Chúng ta có thị trường Internet vào loại năng động nhất thế giới
với 52% số dân sử dụng vào năm 2016 (đứng thứ 16 trong số 20 quốc gia có số lượng
người sử dụng Internet nhiều nhất châu Á); các thiết bị thông minh đã trở nên phổ
biến và quen thuộc, gắn liền với sinh hoạt, học tập, lao động của người dân. Ước tính,


khoảng 78% số người dùng Internet ở Việt Nam lên mạng mỗi ngày, 55% số đó online
bằng điện thoại thông minh; riêng mạng xã hội facebook có 48 triệu tài khoản/ 95
triệu dân, trong đó 30 triệu tài khoản online hằng ngày. Bên cạnh đó, Chính phủ điện
tử cũng đang được triển khai rộng khắp ở các bộ, ngành, địa phương.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều thách thức rất lớn về An ninh
thông tin, an ninh mạng. Năm 2016 đã có tổng cộng khoảng 145 nghìn cuộc tấn công
mạng khác nhau nhằm vào hệ thống thông tin Việt Nam với ba loại hình tấn công
chính là: lừa đảo, mã độc và thay đổi giao diện, gây thiệt hại hơn 10.400 tỷ đồng; hơn
10 nghìn trang/cổng thông tin điện tử có tên miền “.vn” bị tấn công, chiếm quyền điều
khiển, thay đổi giao diện, cài mã độc và có hơn 70% số máy tính bị lây nhiễm. Theo

ghi nhận của Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính (VNCERT) thì Quý I năm 2017
đã có gần 7.700 sự cố tấn công mạng vào các website tại Việt Nam. Tháng 7-2016 đã
xảy ra vụ tấn công vào hệ thống mạng của Hàng không Việt Nam theo hình thức APT
(tấn công có chủ đích) làm ảnh hưởng hơn 100 chuyến bay, đồng thời làm rò rỉ dữ liệu
của hơn 400 nghìn tài khoản khách hàng thường xuyên của hãng. Tháng 3-2017, một
số website của các cảng hàng không như Tân Sơn Nhất, Rạch Giá, Tuy Hòa đã bị tin
tặc tiến công.
Công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng, An ninh thông tin cũng được đặt ra rất sớm
tại Việt Nam, đi đôi với các chủ trương, chiến lược phát triển công nghệ thông tin,
xây dựng Chính phủ điện tử và hình thành xã hội thông tin. Nghị quyết số 28-NQ/TW
ngày 25-10-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã xác định nhiệm vụ phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả
các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, chiến tranh mạng… Ngày 27-5-2016,
Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 898/QĐ-TTg phê duyệt phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm An toàn thông tin mạng giai đoạn 2016-2020 như sau:
a. Một là, thống nhất và nâng cao nhận thức về an ninh mạng, An ninh thông tin trong
thời kỳ kỹ thuật số. Xác định công tác bảo đảm an ninh, An ninh thông tin, phòng,
chống vi phạm và tội phạm mạng là một bộ phận trọng yếu của cuộc đấu tranh bảo vệ
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, là trách nhiệm của các cấp, các
ngành, trong đó lực lượng công an giữ vai trò nòng cốt. Về phía mỗi cá nhân, tổ chức
trước hết cần tự đề cao cảnh giác, chủ động tham khảo, tìm hiểu và triển khai các biện
pháp bảo đảm An ninh thông tin, lựa chọn, sàng lọc, kiểm tra thông tin cho mình.
b. Hai là, tăng cường năng lực và nâng cao một bước hiệu quả quản lý nhà nước về
công nghệ thông tin và truyền thông, Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
về an ninh mạng, An ninh thông tin, quy chuẩn về An ninh thông tin. Kiện toàn tổ
chức bộ máy thực thi quản lý nhà nước về an ninh, an toàn mạng thông tin quốc gia,
hệ thống các đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin. Chủ động phòng ngừa, phát
hiện, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, hoạt động phạm tội trên không gian
mạng. Tăng cường các biện pháp bảo vệ cơ sở hạ tầng thông tin quan trọng. Nghiên

cứu xây dựng, hoàn thiện hệ thống quản lý mạng theo pháp luật, bảo đảm mở và minh
bạch, tạo điều kiện xử lý nghiêm các hành vi vi phạm phát luật trên không gian mạng.
c. Ba là , coi trọng đẩy mạnh việc xây dựng nguồn nhân lực An ninh thông tin Việt
Nam cả về số lượng lẫn chất lượng. Tập trung triển khai hiệu quả Nghị quyết số 36NQ/TW ngày 1-7-2014 của Bộ Chính trị về phát triển nguồn nhân lực công nghệ
thông tin đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm đáp ứng nhu cầu trong nước về số lượng và chất


lượng, có khả năng cung cấp nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao cho
khu vực và thế giới; Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn lực công nghệ thông tin đến
năm 2015 và định hướng đến năm 2020 (Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 1-6 -2009).
d. Bốn là , đẩy mạnh hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành, địa phương
trong bảo đảm an ninh thông tin, đồng thời chủ động, tích cực tham gia hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực an ninh mạng - thông tin. Cần đạt được đồng thuận giữa các quốc gia
và cộng đồng quốc tế về những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực chung, đặt dưới sự
dẫn dắt của Liên hợp quốc để nâng cao trách nhiệm cũng như thái độ ứng xử của mỗi
quốc gia trong môi trường thông tin quốc tế, nhất là các quốc gia có ưu thế về công
nghệ, trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ mạng, internet, trên cơ sở tôn trọng
quyền tự do và những quyền cơ bản khác của con người, đồng thời không can thiệp
công việc nội bộ lẫn nhau; phản đối mọi hình thức lợi dụng vấn đề “tự do thông tin”,
“nhân quyền”, “dân chủ” trên không gian mạng để xâm hại lợi ích của các quốc gia,
quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân.
II. 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
2. a. Tính tích cực:
- Xác định được mục tiêu, vấn đề: Bảo vệ an ninh Tổ quốc là nhiệm vụ của
toàn xã hội, là trách nhiệm của mọi công dân trong đó có học sinh, sinh viên, những
chủ nhân tương lai của đất nước.
+ Nhận thức được tính chất, nhiệm vụ, nội dung bảo vệ an ninh quốc gia là
thường xuyên, phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Từ đó xác định trách nhiệm là một lực
lượng tuyên truyền tích cực cho nhiệm vụ này.
- Đại đa số người dân tin tưởng vào đường lối, chủ trương chính sách của

Đảng, pháp luật của nhà nước.
- Phong trào toàn dân tích cực thực hiện tốt những nội dung bảo vệ an ninh
quốc gia mang tính chất lan tỏa và rộng khắp đến đời sống tinh thần và vật chất trên
cả nước, kiều bào ở nước ngoài trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
- Tranh thủ một cách triệt để sự tin tưởng, ủng hộ một cách tích cực của cộng
đồng quốc tế.
2. b. Tính tiêu cực
- Hiện nay sự hiểu biết cũng như ý thức thực thi pháp luật về “ Trách nhiệm,
nhiệm vụ bảo vệ an ninh tổ quốc” của một số ít cán bộ, học sinh, sinh viên, nhân dân
ta còn thờ ơ, mơ hồ, chưa đầy đủ, suy đồi đạo đức lối sống...
- Đặc điểm địa lý và văn hoá xã hội của từng vùng miền có ảnh hưởng đến
phương pháp xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Hệ thống pháp luật vẫn đang ở quá trình hoàn thiện, chưa cụ thể hóa sâu sắc,
tạo ra lỗ hổng hay lỏng lẻo về hành lang pháp lý ở một số khía cạnh về chính trị - kinh
tế - XH...gây nên nhiều bất cập trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
- Cũng nhân cơ hội này, nhiều thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước
đã lợi dụng tình hình, để xuyên tạc, kích động, nói xấu, bôi nhọ chế độ, kìm hãm sự
phát triển kinh tế và làm một số người hiểu sai về các chủ trương, chính sách của
Đảng pháp luật của Nhà nước ta.
- Âm mưu, ý đồ của họ là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động hằn
thù dân tộc, gây chia rẽ quan hệ Việt Nam với các nước bạn bè trên thế giới, muốn
biến nước ta thành quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, lệ thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc
về chính trị và thành sân sau của chúng.


* Bảng kháo sát thực trạng trước khi thực hiện đề tài: ( bảng 1)
Số
Chưa ý thức hết
Còn mơ hồ
Hiểu biết và

TT Khối lớp lượng
được trách
về trách nhiệm
nêu cao trách
12
Tham
nhiệm của bản
của bản thân
nhiệm của bản
gia
thân
thân
02 lớp
50 hs - chiếm
33 hs – chiếm
7 hs – chiếm
1
chọn tự
90
55,56%
36, 67%
7, 77%
nhiên
02 lớp
42 hs - chiếm
30 hs – chiếm
18 hs – chiếm
2
chọn xã
90

46, 67%
33, 33%
20, 00%
hội
3
06 lớp
223
173 hs - chiếm
42 hs – chiếm
8 hs – chiếm
đại trà
77, 58%
18, 83%
03, 59%
Tổng 10 lớp

403

265 hs – chiếm
65, 76%

105 hs - Chiếm
26, 05%

33 hs – chiếm
8, 19%

* Kết quả từ bảng khảo sát trên cho thấy sự thiếu hiểu biết của thế hệ trẻ nói
chung và tuổi trẻ Trường THPT Ngọc Lặc nói riêng về nhận thức “ Trách nhiệm của
học sinh với nhiệm vụ bảo vệ an ninh tổ quốc ”còn quá nhiều hạn chế nó thể hiện ở

các mặt sau:
2. c. Sự mâu thuẫn của vấn đề:
- Kinh tế phát triển, CNTT bùng nổ một cách mạnh mẽ đem lại lợi ích to lớn ở
nhiều khía cạnh cho nhà nước và nhân dân, nhưng kèm theo đó là hệ lụy sự xâm nhập
nhanh chóng của các loại hình văn hóa, trò chơi không lành mạnh, độc hại, thậm chí
có tính chất lừa đảo, phản động khó kiểm soát, xã hội hóa giáo dục còn hạn chế, mặt
trái của cơ chế thị trường, chính sách và sự hạn chế hiểu biết về vấn đề dân tộc, tôn
giáo, văn hóa đặc trưng vùng miền, biên giới, biển đảo…đã ảnh hưởng lớn đến hệ tư
tưởng, thiếu hiểu biết và nhận thức chưa rõ ràng liên quan đến vấn đề này của thế hệ
trẻ về lịch sử truyền thống đánh giặc, giữ nước, chính trị, văn hóa - xã hội, phát triển
kinh tế của đất nước và mâu thuẫn này cần được giải quyết thông qua đề tài.
2. d. Khó khăn của vấn đề: ( Trước khi thực nghiệm đề tài )
+ Giáo dục Việt Nam chưa đưa đầy đủ nội dung, kiến thức về “ Bảo vệ an ninh
Quốc gia” vào sách giáo khoa môn Giáo dục Quốc phòng - An ninh
+ Tài liệu tham khảo khan hiếm.
+ Sự thật còn chưa được công khai nhiều và cho rằng liên quan đến chính sách
ngoại giao, kinh tế, vấn đề địa chính trị trong khu vực.
+ Kiến thức về vấn đề này của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn học có liên
quan còn hạn chế.
+ Học sinh chưa chịu tìm tòi, học hỏi cũng do môn học khó lại ít liên quan đến
vấn đề hướng nghiệp, định hướng nghề nghiệp sau này.
2. e. Thuận lợi: ( Trong và sau khi thực nghiệm đề tài )
+ Được Ban Giám hiệu, các tổ chức đoàn thể, giáo viên trong nhà trường đặc biệt
quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện khi thực nghiệm đề tài này.
+ Phù hợp với các chương trình hoạt động ngoại khóa của nhà trường
+ Học sinh có hứng thú trong quá trình nhận thức, lĩnh hội kiến thức.


+ Khi thực nghiệm, đề tài mang tính thời sự, đáp ứng nhu cầu khám phá, tuyên truyền
sâu rộng, hiểu biết đúng đắn và ý nghĩa đối với tuổi trẻ Trường THPT Ngọc Lặc nói

riêng cũng như tuổi trẻ trên địa bàn huyện Ngọc lặc nói chung.
+ Phù hợp với đặc thù môn học, trình độ của giáo viên và học sinh và xu thế đổi mới
giáo dục ở nước ta và thế giới.
II. 3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
3.a. Tổ chức hướng dẫn và giảng dạy.
* Về phía giáo viên:
- Triển khai đến toàn bộ giáo viên giảng dạy trực tiếp môn GDQP & AN
- Đ/c Tổ trưởng chuyên môn tổ chức một đến hai buổi hội thảo công bố đề tài
đến các thành viên trong tổ và mời thêm đại diện Ban giám hiệu, Đoàn thanh niên,
giáo viên các tổ bộ môn Lịch sử, Địa lý, Giáo dục Công dân…cùng tham gia và đóng
góp, xây dựng ý kiến để đề tài được hoàn thiện và thực thi.
- Bố trí giảng dạy lồng ghép nội dung hiểu biết “ Trách nhiệm của học sinh với
nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc ”
* Về phía học sinh:
- Tích cực học và ghi chép bài đầy đủ nội dung theo chương trình quy định.
- Hiểu được tầm quan trọng của an ninh quốc gia và một số nội dung cơ bản
trong phong trào toàn dân bảo vệ tổ quốc là vấn đề sống còn của đất nước trong tình
hình mới hiện nay, nêu cao trách nhiệm, tuyên truyền rộng rãi đến đông đảo quần
chúng nhân dân nơi cư trú được rõ.
3. b. Tổ chức hoạt động ngoại khóa.
- Tổ chức tuyên truyền rộng rãi đề tài đến tất cả giáo viên và học sinh khối 12
Trường THPT Ngọc Lặc để mọi người cùng nắm được và ý thức sâu sắc, trách nhiệm
của bản thân về vấn đề này.
- Phối hợp với Huyện Đoàn huyện Ngọc lặc và Đoàn Trường THPT Ngọc Lặc
tổ chức hội thi “ RUNG CHUÔNG VÀNG ” chủ đề “Trách nhiệm của học sinh với
nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc ” với nội dung kiến thức:
* Tình hình An ninh Quốc gia và trật tự an toàn xã hội
+ Một số nét về tình hình an ninh quốc gia.
+ Tình hình về trật tự, an toàn xã hội.
+ Đối tác và đối tượng đấu tranh trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ

gìn trật tự, an toàn xã hội.
* Nội dung và giải pháp bảo vệ An ninh Tổ quốc
- Bảo vệ anh ninh chính trị nội bộ; an ninh kinh tế; an ninh văn hóa - tư
tưởng; an ninh dân tộc; an ninh tôn giáo; an ninh biên giới; an ninh thông tin.
+ Sưu tầm các video clip liên quan đến vấn đề mang tính tích cực có nội dung
tuyên truyền giáo dục, tính pháp lý cao tuân thủ luật pháp quốc tế, phù hợp luật pháp
Việt Nam trình chiếu cho học sinh xem một cách rộng rãi, có chủ đích.
+ Phát đề cương ôn tập, tìm hiểu cho học sinh nghiên cứu sau đó viết bài thu
hoạch hiểu biết về “Trách nhiệm của học sinh với nhiệm vụ bảo vệ an ninh tổ quốc”.
+ Thành lập ban giáo khảo chấm các bài thu hoạch, công bố cơ cấu giải
thưởng mang tính động viên và trao giải thưởng vào sáng thứ 2 tiết chào cờ.
II. 4. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI (Tác dụng của SKKN)
4. a. Giáo viên: Tổ chức tập huấn về kiến thức “Trách nhiệm của học sinh với
nhiệm vụ bảo vệ an ninh tổ quốc” với lượng kiến thức đầy đủ, công khai cho toàn bộ


giáo viên trong trường, đây là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên truyền một cách
sâu rộng và cụ thể đến mỗi đối tượng học sinh trong mỗi vùng miền khác nhau.
- Đã có 79/ 81 cán bộ giáo viên là đoàn viên Công đoàn, Chi đoàn giáo viên,
Đoàn thanh niên trường THPT Ngọc Lặc tham gia học tập và tổ chức các hoạt động,
phong trào về Giáo dục “Trách nhiệm của học sinh với nhiệm vụ bảo vệ an ninh tổ
quốc”. chiếm 94,50%, họ đã tỏ ra rất hào hứng và nhận thức được ý thức trách nhiệm
của bản thân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc VN XHCN.
- 100% cán bộ GV tham gia, xem đây là bài học hết sức bổ ích sau khi kết thúc
đợt hoạt động và đề nghị sang năm học tới tiếp tục tổ chức tuyên truyền thêm với học
sinh khối 11 lên lớp 12.
4. b. Với bản thân: Đã nâng cao một cách rõ rệt chất lượng giờ dạy chính khóa
cũng như ngoại khóa, tự tin, vững vàng đứng trên bục giảng, khẳng định tầm quan
trọng của môn học Giáo dục Quốc phòng và An ninh, tạo được hứng thú cho người
dạy và người học hiểu biết trách nhiệm của bản thân của, xây dựng tình yêu, ý thức

bảo vệ quê hương, đất nước một cách bền vững và sâu sắc, góp phần vào việc giáo
dục phát triển toàn diện cho học sinh THPT
4.c. Học sinh:
- Nâng cao được nhận thức, trách nhiệm với nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc
- Quyết tâm thực hiện tốt những nội dung bảo vệ an ninh quốc gia.
- Nêu cao cảnh giác, chủ động, tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm
góp phần bảo vệ an ninh Tổ quốc trong thời kỳ mới.
* Kết quả đạt được khi đối chiếu với ( bảng1)
* Bảng kháo sát thực trạng sau khi thực hiện đề tài: ( bảng 2)
Số
Chưa ý thức hết
Còn mơ hồ
Hiểu biết và nêu
TT
Khối
lượng
được trách
về trách nhiệm cao trách nhiệm
lớp 12 Tham
nhiệm của bản
của bản thân
của bản thân
gia
thân
02 lớp
1
0 hs - chiếm
03 hs – chiếm
87 hs – chiếm
chọn tự

90
0%
03, 33%
96, 67%
nhiên
02 lớp
2
0 hs - chiếm
01 hs – chiếm
89 hs – chiếm
chọn xã
90
0%
01, 11%
98, 89%
hội
06 lớp
0 hs - chiếm
06 hs – chiếm
217 hs – chiếm
3
223
đại trà
0%
02, 70%
97, 30%
10 hs - Chiếm
393 hs – chiếm
Tổng 10 lớp
403 0 hs – chiếm 0%

02, 49%
97, 51%
* Đối chiếu 2 bảng số liệu thực trạng trước và sau khi thực hiện đề tài:
- Đã có 403/ 403 học sinh học tập và tham gia các phong trào do Giáo viên lựa
chọn đề tài này khi phối hợp với cán bộ giáo viên các tổ chức đoàn thể trong nhà
trường tổ chức thực hiện chiếm 100%.
- Quá trình nhận thức của học sinh Trường THPT Ngọc Lặc khi thực hiện đề
tài: Khảo sát trước khi thực nghiệm và sau khi thực nghiệm thông qua 2 bảng thống
kê số liệu ( Bảng 1 và 2 ) cho thấy sự thành công của đề tài với sự hiểu biết đạt trung
bình đến 97,51% tổng số học sinh khối 12


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
III. 1. KẾT LUẬN.
- Bản thân nắm bắt được thực tế hiện nay, đa số học sinh THPT đều còn thiếu
hiểu biết kiến thức về nội dung và trách nhiệm của bản thân với nhiệm vụ bảo vệ an
ninh tổ quốc vì nhiều lý do, nguyên nhân khác nhau . Với lượng kiến thức trước khi
thực nghiệm đề tài này còn hạn chế ( Bài 9: Trách nhiệm của học sinh với nhiệm vụ
Bảo vệ an ninh Tổ quốc) môn học Giáo dục Quốc phòng - An ninh lớp 12, chưa đủ
giúp học sinh có cái nhìn toàn diện và hiểu biết sâu sắc, bài học chỉ nêu vài nét mang
tính chất khái quát, giới thiệu qua . Vì vậy để học sinh xác định ý thức trách nhiệm
của bản thân trước vận mệnh sống còn của đất nước trong thời kỳ đổi mới một cách
đúng đắn, rõ ràng là hết sức quan trọng và cần thiết cho nên khi đưa ra lý do chọn và
triển khai vận dụng đề tài này cho giáo viên và học sinh khối 12 trường THPT Ngọc
Lặc thực hiện, bản thân thấy cũng hợp lý và được đồng nghiệp, học sinh đánh giá cao
và hưởng ứng nhiệt tình, đầy đủ.
- Thông qua giáo viên và học sinh, đề tài có thể là công cụ để tuyên truyền rộng rãi
đến quần chúng nhân dân trên địa bàn huyện Ngọc Lặc ( huyện miền núi trọng điểm
của tỉnh ) hiểu biết hơn về nội dung, giá trị, cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi
công dân trong vấn đề bảo vệ an ninh tổ quốc. Với nguồn kiến thức tạm đủ của đề tài

chí ít cũng trang bị cho các em học sinh khối 12 nắm vững đường lối, quan điểm của
Đảng, Nhà nước trong chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội. Lực lượng trí thức trẻ, nguồn nhân lực chất lượng cao tương lai của đất nước tích
cực phấn đấu học tập, rèn luyện, không ngừng tu dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt,
cảnh giác, chủ động, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm góp phần tích cực vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
III. 2. KIẾN NGHỊ
- Các Bộ Nghành có liên quan cần tổ chức nhiều lớp tập huấn xác định “ Bảo
vệ an ninh tổ quốc là nhiệm vụ của toàn xã hội, là trách nhiệm của mọi công dân”
trong đó có học sinh THPT, cho toàn bộ giáo viên một cách đại trà, đây là lực lượng
nòng cốt trong việc truyền thụ kiến thức, tuyên truyền về giá trị cốt lõi trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước bảo vệ an ninh Quốc gia trong tình hình mới một cách
sâu rộng và cụ thể đến mỗi đối tượng học sinh ở mỗi vùng miền, mỗi địa phương, đặc
biệt là các tỉnh/ thành giáp biên giới, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh
sống, nâng cao cảnh giác cách mạng trước các thế lực thù địch chống phá nước nhà .
- Trong chương trình cải cách giáo dục sắp tới nên đưa một cách chi tiết hơn
nữa phần nội dung “ Bảo vệ an ninh Quốc gia”để giáo viên truyền tải một cách đầy
đủ lượng kiến thức giúp học sinh nắm vững, sâu sắc hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Mai Đình Võ



2. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo CAND online.
2. Việt báo.vn
3. Báo Biên phòng online.
4. Báo QĐND online.
5. Biển Đông.net
6. Báo dân vận
7. Wikipedia Tiếng việt
8. Info Net
9. Việt Nam Net


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Đình Võ
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn – Trường THPT Ngọc Lặc

TT

Tên đề tài SKKN

Lựa chọn nguồn minh chứng cụ thể
1

2

3


4

5.

6

cho một tiết dạy
Giảng dạy và giáo dục cho học sinh
THPT hiểu biết thêm về quyền và
chủ quyền biển đảo Việt Nam –
Luật Biển Việt Nam năm 2013.
Nâng cao hiểu biết và nhận thức
cho học sinh THPT về “ Chiến
tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm
1979” để giảng dạy và giáo dục cho
học sinh trường THPT Ngọc Lặc
năm học 2015 – 2016.
Nâng cao hiểu biết cho học sinh
THPT về quyền và chủ quyền Biển
đảo Việt Nam – Luật Biển Việt
Nam năm 2013
“ Xây dựng bài tập thể dục Sport
Aerobic nhằm giảng dạy cho học
sinh nữ khối 10 Trường THPT
Ngọc Lặc ”
“ Nâng cao hiểu biết và nhận thức
cho học sinh THPT về “Chiến tranh
bảo vệ biên giới phía Tây Nam ” để
giáo dục cho học sinh Trường
THPT Ngọc Lặc năm học 2017 2018 ”


Cấp đánh giá xếp loại
( Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh…)
Hội đồng khoa học Sở
GD&ĐT Thanh hóa Theo
QĐ số 539/QĐ-SGD&ĐT
ngày 18/01/2011
Hội đồng khoa học Sở
GD&ĐT Thanh hóa Theo
QĐ số 743/QĐ-SGD&ĐT
ngày 04/11/2013
Hội đồng khoa học Sở
GD&ĐT Thanh hóa Theo
QĐ số 972/QĐ-SGD&ĐT
ngày 24/11/2016
Hội đồng khoa học sáng
kiến tỉnh Thanh Hóa Theo
QĐ số: 3134/QĐHĐKHSK ngày
18/8/2016
Số sổ vàng 46
- Hội đồng khoa học Sở
GD&ĐT
Thanh Hóa
- QĐ số 1112/QĐSGD&ĐT ngày18/ 10/
2017
- Hội đồng khoa học Sở
GD&ĐT
Thanh Hóa
- QĐ số 1455/QĐSGD&ĐT ngày

26/ 11/ 2018

Kết quả
đánh
giá xếp
loại
(A,B,
hoặc C)

Năm
học
đánh
giá xếp
loại

B

2011

A

2013

B

2016

B

2016


C

2017

B

2018



×