Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện bắc trà my, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.04 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH CÚC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
TẠI HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH CÚC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
TẠI HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. BÙI NHẬT QUANG

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN


Trong quá trình thực hiện luận văn này, tác giả có tham khảo, kế thừa và sử
dụng những thông tin, số liệu từ một số tài liệu như: sách chuyên ngành, luận văn,
tạp chí, bài tham luận… theo danh mục tài liệu tham khảo.
Tác giả cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng mình và chịu hoàn
toàn trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Quảng Nam, ngày tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Trần Thanh Cúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM ..........................................................7
1.1. Tổng quan về giảm nghèo bền vững ....................................................................7
1.2. Nội dung thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. ......................................15
1.3 Quy trình thực hiện chính sách về giảm nghèo bền vững ……………………. 17
1.4. Kinh nghiệm của một số địa phương về thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững ...........................................................................................................................20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN
VỮNG TẠI HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM...................................26
2.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Bắc Trà My, tỉnh
Quảng Nam ...............................................................................................................26
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững huyện Bắc Trà
My .............................................................................................................................36
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Bắc

Trà My thời gian qua. ................................................................................................49
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TẠI HUYỆN BẮC TRÀ MY,
TỈNH QUẢNG NAM ..............................................................................................55
3.1. Định hướng.........................................................................................................55
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên
địa bàn huyện Bắc Trà My ........................................................................................58
3.3. Kiến nghị, đề xuất, ..............................................................................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Viết đầy đủ

Từ viết tắt

1

ĐBKK

Đặc biệt khó khăn

2

CS


Chính sách

3

CSC

Chính sách công

4

DTTS

Dân tộc thiểu số

5

GN

Giảm nghèo

6

GNBV

Giảm nghèo bền vững

7

KHXH


Khoa học xã hội

8

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

9

LĐ - TB & XH

Lao động - Thương binh và Xã hội

10

MTQG

Mục tiêu quốc gia

11

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

12

UBND


Ủy ban nhân dân

13

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1

2.2

2.3

2.4.

2.5

2.6

2.7


Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn của một số ngành chủ yếu
Hộ dân cư nghèo trên địa bàn huyện qua các năm phân theo cấp

Hộ dân cư cận nghèo tại huyện Bắc Trà My
Thống kê hộ nghèo chia theo tiêu chí thu nhập và thiếu hụt các
dịch vụ xã hội cơ bản năm 2016
Tổng hợp nguyên nhân nghèo của hộ nghèo
Phân tích hộ nghèo theo mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ
bản
Tổng hợp kinh phí thực hiện dự án, chương trình giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2016 - 2020

Trang

29

30

32

33

34

35

48


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo được Đảng ta
xác định là nhiệm vụ trọng điểm trong quá trình phát triển KT - XH của đất nước.
Việc triển khai thực hiện Chương trình MTQG về GNBV trong thời gian qua, với
nhiều chương trình dự án như Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong công tác xóa đói, giảm nghèo,
góp phần hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ. Đến cuối năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo của
cả nước khoảng 4%; của tỉnh Quảng Nam khoảng 7,57%; tuy nhiên, kết quả giảm
nghèo chưa thực sự bền vững, tình trạng tái nghèo rất dễ xảy ra; khoảng cách giàu
nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn khá lớn, đời sống vật chất và tinh thần của
đại bộ phận nhân dân nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhất là khu
vực miền núi, vùng cao, vùng đồng bào DTTS.
Đối với Bắc Trà My, là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, đại bộ phận
nhân dân sống bằng nghề nông, lâm nghiệp, có 7/13 xã, thị trấn là người DTTS.
Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chương trình MTQG GNBV, tỷ lệ
hộ nghèo của huyện từ 52,06% năm 2015 giảm xuống còn 33,63% năm 2919, bình
quân mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm 4,6%; dự tính năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo của
huyện giảm khoảng 4,35%, còn dưới 25% vào cuối năm 2020.
Tình hình trên trước hết do điều kiện KT - XH của một huyện miền núi còn rất
nhiều nhiều khó khăn, nguồn lực để đầu tư thực hiện công tác giảm nghèo còn hạn
hẹp, phải lồng ghép từ nhiều chương trình, dự án nên mặc dù đã ưu tiên nguồn lực
thực hiện công tác giảm nghèo những vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Bên cạnh
đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện chưa được các cấp, các ngành
quan tâm đúng mức; công tác quản lý, đánh giá chưa được thường xuyên; việc điều
tra, khảo sát hộ nghèo ở một số địa phương chưa sát với thực tế; một số bộ phận
người nghèo còn tâm lý ỷ lại, chưa tích cực, không chủ động vươn lên thoát nghèo,
còn trông chờ nhiều vào chính sách hỗ trợ của nhà nước.
Mặc dù, tỷ lệ hộ nghèo của huyện trong 5 năm qua đã giảm đáng kể; tuy
nhiên, so với mặt bằng chung của cả nước và tỉnh Quảng Nam thì tỷ lệ hộ nghèo

1


của huyện Bắc Trà My còn ở mức khá cao. Đây thật sự là một vấn đề bức xúc, cấp
bách, là thách thức lớn trong việc thực hiện mục tiêu phát triển KT - XH trong
những năm đến, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Bắc Trà My phải
tập trung mọi nguồn lực để tập trung giải quyết.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính giảm
nghèo bền vững tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Chính sách công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giảm nghèo là mục tiêu thiên niên kỷ, là vấn đề các quốc gia đều quan tâm
trong quá trình phát triển KT - XH, đối với Việt Nam, giảm nghèo là chương trình
MTQG đã được đặt ra từ lâu, đến nay công tác giảm nghèo đã mang lại hiệu quả
đáng kể. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước hiện nay còn cao, thiếu tính bền
vững, tình trạng tái nghèo đang diễn ra ở nhiều nơi. Vì vậy, cần phải được nghiên
cứu một cách nghiêm túc về thực trạng giảm nghèo ở Việt Nam để có các giải pháp
thực hiện hiệu quả. Trong thời gian qua cũng có nhiều công trình nghiên cứu công
phu về vấn đề giảm nghèo như: “Giảm nghèo ở Việt Nam, thành tựu và thách thức”
của nhóm nghiên cứu Viện Khoa học xã hội và nhân văn (2011); công trình này đã
chỉ ra những xu hướng gần đây trong công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam đồng thời
phân tích những tác động đến các gia đình trong vấn đề thoát nghèo, các biện pháp
cải tiến nhằm giảm nghèo bền vững..Tuy nhiên vấn đề này nghiên cứu trên phạm vi
cả nước trong bối cảnh kinh tế mới giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức
Thương mại tế giới; “Đánh giá giữa kỳ CTMTQG- giảm nghèo và Chương trình
135-II giai đoạn 2006-2008”, Bộ LĐ - TB & XH, cơ quan Liên Hợp Quốc tại Việt
Nam (2009); “Chính sách xóa đói, giảm nghèo, thực trạng và giải pháp” của tác
giả Lê Quốc Lý, Nxb Chính trị Quốc gia, 2012; vai trò của vốn con người trong
giảm nghèo bền vững ở Việt Nam của tác giả Thái Phúc Thành (2014) nhìn nhận và
đánh giá vai trò con người trong giảm nghèo bền vững, tác giả cho rằng trình độ


giáo dục tác động đến khả năng thoát nghèo của hộ sản xuất nông nghiệp rất
thấp và đầu tư nâng cao trình độ giáo dục, chuyên môn kỹ thuật để giảm
nghèo trong khu vực sản xuất nông nghiệp hiệu quả sẽ không cao. So với

2


trình độ giáo dục chính quy, trình độ hiểu biết và kỹ năng cụ thể tích lũy từ
cuộc sống và làm việc như cách làm ăn, chi tiêu, ứng phó rủi ro có tác động
mạnh mẽ hơn đến khả năng thoát nghèo của người nghèo ở nông thôn.Việc
nâng cao vốn con người là ở chính người nghèo…. Luận văn thạc sỹ kinh tế
“giải pháp xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam”
của tác giả Đỗ Thị Dung đã nêu ra thực trạng xóa đói giảm nghèo trên địa bàn
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam, đề ra những giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo
ở Nông Sơn giai đoạn 2011-2015 ; Luận văn thạc sỹ “Giải pháp chính sách giảm
nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” của Trần Anh Tuấn đã đánh giá
chung thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Nam,
từ đó có những giải pháp nhằm thoát nghèo nhưng đây là những giải pháp chung
của toàn tỉnh giai đoạn 2015-2020 ….Hầu hết điểm chung của các đề tài nghiên
cứu trên là đã phân tích thực trạng đói nghèo ở một số nơi, đưa ra các biện pháp cơ
bản nhằm thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh trên nước ta, nhất là
những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn như huyện miền núi, nơi có nhiều đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống. Nhiều giải pháp đã đánh giá được thực trạng thực
hiện công tác xóa đói giảm nghèo và GNBV ở một số địa phương trong thời gian
qua còn nhiều bất cập, đặc biệt là ở vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu , vùng xa…
Các tác giả đã làm rõ được nguyên nhân gây ra tình trạng đói nghèo và việc giảm
nghèo chậm, ở cả nước nói chung và một số tỉnh, huyện nói riêng.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể và
sâu sắc về thực tế hộ nghèo và GNBV tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.

Những nghiên cứu của các tác giả đều có ý nghĩa bao quát trong việc xóa đói giảm
nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Việc phân tích đánh giá thực trạng hộ nghèo và
chính sách giảm nghèo cũng như đề ra các giải pháp chính sách giảm nghèo bền
vững ở các địa phương trên chưa được nói đến một cách cụ thể, thiết thực phù hợp
với thực tế sự phát triển của xã hội. Điều này, đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu
một cách hệ thống và có cách nhìn mới về thực hiện chính sách giảm nghèo tại
huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam để có tính thiết thực và đạt được hiệu quả cao
trong công tác giảm nghèo, phát triển kinh tế ở huyện nhà.
Từ những phân tích trên, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách giảm
3


nghèo bền vững tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam” nhằm góp phần
thực hiện chính sách GNBV của huyện trong thời gian đến.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững tại huyện Bắc Trà My trong giai đoạn hiện nay và có thể
áp dụng cho một số địa phương khác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách GNBV ở
Việt Nam nói chung và tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
hiện nay tại huyện Bắc Trà My.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách
giảm nghèo bền vững tại huyện Bắc Trà My trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng
Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: tập trung nghiên cứu những vấn đề về thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững.
- Về thời gian: từ năm 2015 đến năm 2019.
- Về không gian: các hoạt động nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn huyện
Bắc Trà My.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về
công tác GNBV. Đồng thời, sử dụng những kiến thức kinh tế tổng hợp về công tác
quản lý Nhà nước về XĐGN, GNBV. Ngoài ra, luận văn còn kế thừa có chọn lọc và
4


vận dụng phù hợp những quan điểm lý luận, các khung lý thuyết về thực hiện chính
sách GNBV của các nhà khoa học trong nước và thế giới về những nội dung liên
quan đến đề tài này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề thực hiện luận văn này tác giả sử dụng các phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp thu thập dữ liệu: Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả
đã thực hiện phân tích định tính. Tiến hành thu thập dữ liệu để phân tích từ nhiều
nguồn thông tin khác nhau, cụ thể:
+ Nguồn thông tin thứ cấp: Những vấn đề lý luận đã được đúc kết trong các giáo
trình chuyên ngành trong nước và quốc tế; các báo cáo tổng hợp, các Nghị quyết,
Chương trình, Kế hoạch tại huyện Bắc Trà My.
+ Nguồn thông tin sơ cấp: Phỏng vấn trực tiếp một số lãnh đạo, cán bộ tại huyện
Bắc Trà My và các đơn vị khác để nhận diện những mặt thành công và các mặt hạn
chế trong thực hiện chính sách giảm nghèo tại huyện Bắc Trà My trong thời gian qua.
- Phương pháp thống kê: Sau khi thu thập dữ liệu có liên quan đến đề tài

nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp thống kê mô tả, thu thập và xử lý thông
tin từ các nguồn khác nhau làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng thực
hiện chính sách GNBV tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sau khi sử dụng phương pháp thống kê để
tổng hợp các số liệu liên quan đến đề tài, tác giả sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, kết hợp với lý luận để đánh giá thực trạng thực hiện chính sách GNBV
giai đoạn 2015 -2019 và đưa ra giải pháp cho các năm tiếp theo.
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần cung cấp những vấn đề có tính lý luận về thực hiện chính sách
GNBV trên địa bàn huyện Bắc Trà My và tỉnh Quảng Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục
vụ đào tạo, giảng dạy, học tập và nghiên cứu những chuyên đề thực tế liên quan đến
công tác thực hiện chính sách GNBV. Nguồn tài liệu sử dụng cho các cơ quan quản
lý cấp huyện tham khảo để đề xuất giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách
5


GNBV trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện
Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững tại huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.


6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM
NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về giảm nghèo bền vững
1.1.1. Các khái niệm liên quan.
1.1.1.1. Khái niệm chính sách công
Có nhiều cách tiếp cận nghiên cứu về chính sách công (CSC) từ những góc độ
khoa học khác nhau, theo đó có nhiều cách hiểu về khái niệm và các thuộc tính của
CSC cũng có sự khác nhau. Theo quan niệm của Peter Aucoin (1971) “Chính sách
công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành”; William Jenkin
(1978) cho rằng “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan
lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa
chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó); đối với B. Guy Peter
(1990) thì “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh
hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”; theo
Charle L. Cochran and Eloise F. Malone (1995) “Chính sách công bao gồm các
quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu
xã hội”; trong giáo trình Kinh tế công cộng do PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hoan chủ
biên xuất bản năm 2012 quan niệm “CSC bao gồm các hoạt động thực tế do chính
phủ tiến hành để đảm bảo cho sự phát triển nền KT - XH của đất nước”.
Từ các quan niệm trên, CSC có thể được nhìn nhận ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính
phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của
mỗi nước. Thứ hai, về mặt kinh tế, CSC phản ánh và thể hiện hoạt động cũng như
quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cộng
cho nền kinh tế. Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử
dụng để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền kinh

tế, khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực công
một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi
trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác CSC là một trong những
căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm
7


tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân
sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước.
Nhằm giải quyết vấn đề đặt ra về thực hiện chính sách GNBV, khái niệm CSC
của Đỗ Phú Hải (2014) được lựa chọn trong luận văn này, theo đó “Chính sách
công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể
và lựa chọn các giải pháp, các công cụ nhằm giải quyết các vấn đề của xã hội theo
mục tiêu tổng thể đã xác định”.
1.1.1.2. Khái niệm nghèo.
Theo Tuyên bố Liên Hợp quốc, tháng 6/2008: “Nghèo là thiếu năng lực tối
thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ
ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để
trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận
tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ
bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và
công trình vệ sinh”. Nghèo là tình trạng một bộ phân dân cư chỉ có điều kiện thỏa
mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mưc sống thấp
hơn trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện [7].
Theo Bộ LĐ - TB & XH “nghèo là một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa
mãn một phần nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn trung
bình của cộng đồng, của từng vùng, từng khu vực xét trên mọi phương diện”; đây là
quan niệm được tác giả sử dụng trong luận văn này.
1.1.1.3. Khái niệm giảm nghèo
Giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Về khái niệm giảm nghèo, đến nay vẫn chưa
có một định nghĩa, một khái niệm rõ ràng; tuy nhiên, giảm nghèo được hiểu là làm cho
bộ phận dân cư nghèo nâng mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo, vươn lên
làm giàu; đó chính là nâng cao thu nhập, nâng cao mức độ tiếp cận và hưởng thụ các
dịch vụ xã hội của người dân, của hộ gia đình.
Giảm nghèo hay chính là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng mức sống, từng
bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo

8


giảm xuống. Nói một cách khác, giảm nghèo là một quá trình chuyển một bộ phận dân
cư nghèo lên một mức sống cao hơn [19].
1.1.1.4. Khái niệm giảm nghèo bền vững.
Cụm từ giảm nghèo bền vững được sử dụng rất nhiều trong các văn bản hành
chính, như:
Nghị quyết số: 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/02/2008 của Chính phủ về Chương
trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo.
Nghị quyết số: 80/NQ-CP, ngày 19/5/2010 của Chính phủ về Định hướng
GNBV giai đoạn 2011 – 2020.
Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về một số vấn đề về CSXH giai đoạn 2011 – 2020.
Quyết định số: 1722/QĐ-TTg, ngày 02/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định phê duyệt Chương trình MTQG GNBV giai đoạn 2016 – 2020.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào cụ thể, GNBV có thể hiểu
là quá trình giảm nghèo đảm bảo được sự cải thiện đồng thời của sự bền vững về
kinh tế, xã hội, môi trường của một đất nước, một địa phương, một cộng đồng dân
cư hay của một hộ gia đình. Nói cách khác là hộ đạt được mức thỏa mãn các dịch
vụ xã hội, mức thu nhập cao hơn người nghèo và không có nguy cơ tái nghèo trong
thời gian dài. GNBV là kiên quyết không để tái nghèo, là phải duy trì các nguồn

lực, các nguồn đầu tư và các biện pháp chỉ đạo triển khai thực hiện liên tục có
hướng đích, có mục tiêu để không cho đói nghèo quay trở lại chính nơi chúng ta
đang tích cực thực hiện xói đói, giảm nghèo. Giảm nghèo ở đây không đơn thuần là
sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó
khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho
phát triển, tạo thêm lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn
sau tăng trưởng nhanh hơn, mạnh hơn.
GNBV phải được tập trung vào việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ
nghèo có tư liệu và phương tiện để sản xuất tạo ra sản phẩm, nâng cao thu nhập, cải
thiện đời sống, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục, y tế, nước sạch, giảm
thiểu rủi ro do thiên tai, dịch bệnh và các tác động tiêu cực từ bên ngoài. Theo đó,
tác giả thống nhất với quan niệm giảm nghèo bền vững được hiểu là tình trạng dân

9


cư đạt được mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản hay mức thu nhập trên chuẩn
nghèo đó ngay cả khi gặp các cú sốc hay rủi ro [18] .
Có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách GNBV, theo quan niệm của các
nhà kinh tế học người Đức thì khái niệm về chính sách giảm nghèo đó là những
biện pháp của nhà nước tác động vào người nghèo để nhằm GN và giảm nghèo đó
được bền vững tức là không tái nghèo. Tác giả đồng ý với quan niệm chính sách
giảm nghèo bền vững là tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm
lựa chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ chính sách để GNBV, cải thiệu đời sống vật
chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách, chênh lệch về
mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân
cư.
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách GNBV.
Việc thực hiện chính sách GNBV có nhiều yếu tố tích cực và tiêu cực tác
động, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình triển khai và kết quả thực

hiện; trong đó có những nhân tố khách quan như điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
và những nhân tố chủ quan là các chủ thể tham gia vào quá trình hoạch định và tổ
chức thực hiện chính sách như các cơ quan nhà nước và các đối tượng của chính
sách.
1.1.2.1. Về điều kiện tự nhiên:
Thời tiết và khí hậu là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất, sinh
hoạt đời sống của nhân dân; đối với những nơi có khí hậu, thời tiết ôn hòa thì rất
thuận tiện trong các hoạt động sản xuất, sinh hoạt; ngược lại những nơi khí hậu
khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai như hạn hán, bão lũ thì rất khó khăn cho
quá trình sản xuất, sinh hoạt của người dân, thậm chí có thể làm hủy hoại tài sản,
hoa màu và tính mạng của con người. Đây chính là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng nghèo đói, bệnh tật mà đòi hỏi cần phải có nhiều thời gian để
khắc phục. Vì vậy, việc tổ chức sản xuất, lựa chọn mô hình để đầu tư cần phải tính
toán đến yếu tố về thời tiết, khí hậu phù hợp với từng vùng miền.
Điều kiện đất đai, tài nguyên khoáng sản cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình sản xuất, là nguyên nhân gây nên tình trạng nghèo đói. Đặc biệt, đối với vùng
núi, địa hình đồi núi, dốc đứng, hiểm trở, thiếu đất sản xuất lương thực là vấn đề đặt

10


ra từ lâu nhưng vẫn chưa có hướng khắc phục; tình trạng thiếu đói trong mùa giáp
hạt thường xuyên xảy ra nếu như không có sự hỗ trợ kịp thời từ phía nhà nước.
Người dân ở nơi đây sống chủ yếu dựa vào rừng như khai thác tài nguyên thiên
nhiên sẵn có, phát rừng làm nương rẫy nên không chủ động được nguồn lương thực
cũng như thu nhập và đặc biệt là gây hậu quả rất lớn về môi trường sinh thái.
Vị trí địa lý có tác động đến việc thực hiện các chính sách đầu tư, hỗ trợ sản
xuất, đối với khu vực đồng bằng, thành thị rất thuận lợi trong việc đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như hệ thống giao thông, hạ tầng thông tin liên lạc,
các khu chế biến, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trong khi đó, ở các khu vực miền

núi, hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu, tuy nhiên việc xây dựng hạ tầng kỹ
thuật phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của người dân gặp rất nhiều khó khăn do
địa hình đồi núi, nhiều sông suối nên việc. Do vậy, việc lựa chọn hình thức tổ chức
sản xuất, xác định các ngành, nghề, lĩnh vực phải phù hợp với vị trí địa lý của từng
địa phương, khu vực.
1.1.2.2. Về điều kiện kinh tế, xã hội:
Điều kiện về kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tổ chức sản xuất, như
hạ tầng về giao thông, hệ thống hồ đập, kênh mương thủy lợi, điện, trường học,
bệnh viện, công nghệ thông tin, chợ và hệ thống phân phối, thu mua, tiêu thụ sản
phẩm, bán lẻ hàng hóa; đây là những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, sản
lượng, chất lượng, giá cả, thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa.
Nguồn lực tài chính là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo
thực hiện chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo. Việc huy động nguồn vốn để
thực hiện chính sách giảm nghèo ở nước ta hiện nay chủ yếu là từ ngân sách hỗ trợ
của nhà nước, ngoài ra huy động các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế, tổ chức phi
chính phủ và các nguồn xã hội hóa khác từ các tổ chức, cá nhân trong nước và sự
đóng góp của người dân. Nền kinh tế đất nước ổn định và phát triển, tăng thu ngân
sách là điều kiện thuận lợi để đầu tư các chương trình, dự án GNBV. Đặc biệt là
việc đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi ở những vùng sâu, vùng xa, vùng
ĐBKK ảnh hưởng tích cực đến quá trình phát triển kinh tế hàng hóa ở từng vùng,
miền. Những dự án đầu tư cho nông nghiệp, khu vực nông thôn, miền núi như hệ
thống kênh mương thủy lợi, hình thành các khu sản xuất hàng hóa tập trung, công

11


nghiệp chế biến và bảo quản hàng hóa nông sản, những ngành nghề thu hút nhiều
lao động cũng đóng góp tích cực cho GNBV.
Dân số, lao động, việc làm ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức thực hiện các
chính sách, chương trình giảm nghèo. Quy mô, mật độ dân số lớn, sự gia tăng dân

số nhanh sẽ gây ra sức ép không nhỏ cho đời sống xã hội về y tế, giáo dục, môi
trường, sự ổn định về an ninh trật tự an toàn xã hội. Lực lượng lao động đóng một
vai trò không nhỏ vào quá trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động; khi trình độ
dân trí được nâng cao, người lao động được đào tạo nghề sẽ nhanh chóng tiếp cận
và áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất,
giá trị sản phẩm. Dân số, lao động còn là một lực lượng quan trọng góp phần tiêu
thụ sản phẩm của xã hội; khi đời sống của người dân được nâng cao, nhu cầu tiêu
thụ sản phẩm càng lớn sẽ kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất. Đầu tư
vào con người và phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh
và bền vững. Tuy nhiên, người lao động chỉ có thể phát huy được vai trò chủ thể
của mình trong quá trình sản xuất khi họ có việc làm. Việc làm đối với người lao
động là nhu cầu để tồn tại và phát triển. Vì vậy, giải quyết việc làm là vấn đề quan
tâm hàng đầu đối với mọi quốc gia, mọi cấp chính quyền. Giải quyết việc làm cho
người lao động sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định KT - XH, XĐGN, giảm
thiểu tệ nạn xã hội phát sinh và an ninh quốc phòng được đảm bảo.
Bên cạnh đó, phong tục tập quán, thói quen trong sản xuất, sinh hoạt của
người dân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc GNBV, bởi nó liên quan đến việc tổ
chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Đặc biệt là lao động nông
thôn, miền núi, DTTS khi tham gia vào chuỗi sản xuất trong các công ty, nhà máy
phần lớn là không thích nghi với môi trường công nghiệp. Hiểu rõ những đặc điểm
văn hoá của đồng bào sẽ góp phần cải thiện hoạt động sinh kế, làm tăng hiệu quả các
chương trình, chính sách tạo việc làm cho người lao động DTTS. Trong những phong
tục tập quán, đặc điểm văn hóa của đồng bào DTTS có những đặc tính tốt cần phát
huy là: Truyền thống yêu lao động, cần cù, chịu khó, tính cộng đồng cao, ý thức đoàn
kết, tương trợ giúp đỡ nhau. Đó là những cơ sở, điều kiện cho việc thực hiện các hoạt
động giải quyết việc làm. Cần phải vận dụng các giá trị văn hóa này để phát triển các
hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động DTTS. Tuy nhiên, cũng cần khắc

12



phục và xoá bỏ những phong tục tập quán không còn phù hợp với xu thế hiện nay
như: làm theo kinh nghiệm, tính bảo thủ, bình quân, tự cung tự cấp, khép kín, lối
canh tác dựa nhiều vào tự nhiên, tính thụ động, chỉ quen sống dựa vào tự nhiên để
khai thác.
Về nguồn nhân lực: Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin: Bất kỳ một quá trình sản
xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố cơ bản đó là sức lao động, tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Vì vậy, nhân tố con người vừa là chủ thể vừa là mục
tiêu, động lực của sự phát triển KT - XH. Đảng ta coi việc phát huy nhân tố con
người như là một nguồn lực quan trọng nhất của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Nói về nguồn lực con người, trước tiên phải nói đến quan điểm,
nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước về việc đề xuất, xây dựng chính sách,
chương trình phù hợp nhằm tạo cơ sở cho việc thực hiện chính sách có hiệu quả
trong thực tiễn. Nhận thức về GNBV khác nhau sẽ có những chương trình, trình
sách, cơ chế thực hiện, mức độ quan tâm khác nhau. Vì vậy, có những địa phương
sử dụng các nguồn lực để đầu tư không đúng mục đích, gây thất thoát, lãng phí
ngân sách nhà nước.
Việc tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các
chính sách, chương trình giảm nghèo có ý nghĩa quan trọng trọng việc duy trì và
điều chỉnh chỉnh sách. Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ thời gian
qua đã tác động rất lớn đến các huyện nghèo, xã nghèo, người nghèo tạo tiền đề để
giảm nghèo nhanh và bền vững của địa phương nói riêng cũng như của cả nước nói
chung. Việc thực hiện đồng bộ các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo và
xây dựng hệ thống tiêu chí, phương pháp đánh giá phù hợp có vai trò quan trọng
đến hiệu quả của công tác giảm nghèo. Vì vậy, cần phải có một hệ thống chính
sách, chương trình, dự án vừa khuyến khích, tạo động lực cho cho kinh tế phát triển
gắn với GNBV, hạn chế tình trạng tái nghèo; đồng thời, đảm bảo cho người nghèo
và nhóm dân cư có mức thu nhập thấp được hưởng thụ những thành quả phát triển
kinh tế.
1.1.3. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách giảm nghèo

bền vững.

13


Chính phủ quản lý chung về thực hiện công tác GNBV; trong đó, Bộ Lao
động Thương bình và Xã hội là cơ quan chịu trách nhiệm giúp Chính phủ trong việc
triển khai thực hiện chương trình MTQG về GNBV; phối hợp với các bộ ngành có
liên quan và các địa phương tổ chức, điều hành và thực hiện quản lý nhà nước đối
với công tác GNBV.
UBND cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện chương trình GNBV của Trung
ương tại địa phương; xây dựng và trình Tỉnh ủy, HĐND tỉnh ban hành chủ trương,
cơ chế chính sách để hỗ trợ GNBV; phê duyệt chương trình, kế hoạch cụ thể để
thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo trong từng giai đoạn. Tổ chức huy
động và quản lý, sử dụng nguồn kinh phí, điều phối các hoạt động giảm nghèo trong
phạm vi của địa phương. Trong đó, Sở LĐ - TB & XH là cơ quan chủ trì phối hợp
với Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Ban Dân tộc và các sở, ngành liên quan để tham mưu UBND tỉnh quản lý nhà nước
về công tác giảm nghèo; định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện.
UBND cấp huyện xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chương
trình GNBV, xác định cụ thể mục tiêu giảm nghèo, số hộ đăng ký thoát nghèo, số
hộ dự kiến có khả năng thoát nghèo, nguồn vốn thực hiện, số mô hình, dự án triển
khai, công trình đầu tư. Tổ chức quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của Trung
ương, của tỉnh, của huyện; đồng thời, huy động nguồn kinh phí từ các tổ chức, cá
nhân để tham gia vào hoạt động giảm nghèo tại địa phương. Trên cơ sở tiêu chuẩn,
định mức theo các giảm nghèo, chương trình của Nhà nước, xây dựng đề án giảm
nghèo trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; định hướng cho cấp xã xây dựng các dự
án, mô hình phù hợp với quy hoạch, điều kiện thực tế của địa phương và nhu cầu
của thị trường.
UBND cấp xã là đơn vị trực tiếp triển khai thực hiện chính sách, chương trình,

dự án, đề án, kế hoạch GNBV của cấp trên tại địa phương. Tổ chức điều tra, rà soát,
bình xét hộ nghèo theo các tiêu chí quy định để báo cáo cấp trên.
Giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội, mà trước
hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự vận động tự giác của bản
thân người nghèo, cộng đồng nghèo. GNBV phải được coi là sự nghiệp của bản
thân người nghèo, cộng đồng người nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát

14


nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói
nghèo ở các nước. Nhà nước và người nghèo đều phải có trách nhiệm và cùng cam
kết để thực hiện các chinh sách giảm nghèo có hiệu quả trợ giúp người nghèo biết
cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro.
1.2. Nội dung thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
1.2.1. Chính sách của nhà nước về giảm nghèo bền vững
Chính sách của nhà nước là định hướng hành động được lựa chọn phù hợp với
đường lối chính trị để giải quyết những vấn đề chung của xã hội trong một thời kỳ
nhất định. Chính sách có vai trò to lớn trong hoạt động quản lý xã hội của nhà nước
đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sách giảm nghèo là những
quyết định của nhà nước nhằm cụ thể hóa các chương trình dự án cùng với nguồn
nhân lực, vật lực và cơ chế tác động đến đối tượng người nghèo, hộ nghèo, xã
nghèo, huyện nghèo nhằm tục tiêu giảm nghèo. Chính sách sẽ là tiền đề thúc đẩy
kinh tế xã hội phát triển, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống, giảm tỷ lệ hộ nếu chính đó đúng đắn, phù hợp với điều kiện tình hình thực tế
của địa phương. Hoặc là cản trở sự phát triển kinh tế xã hội, gây thất thoát, lãng phí
nguồn lực của nhà nước, tiền của của người nghèo nếu chính sách đó không không
hợp với địa phương. Chính sách GNBV bao gồm:
1.2.1.1. Chính sách đất đai cho hộ nghèo.
Đất đai là phương tiện quan trọng nhất của người nghèo nhằm tạo sinh kế và

là phương tiện chính cho đầu tư, tích lũy của cải và chuyển giao giữa các thế hệ;
đây chính là tài sản chính của một số hộ gia đình. Chính sách đất đai có tầm quan
trọng thiết yếu đối với tăng trưởng bền vững, giá trị hiệu quả, phúc lợi và mở ra các
cơ hội phát triển kinh tế cho người nghèo. Chính sách đất đai sẽ bảo đảm cho nông
dân nói chung và người nghèo nói riêng có được tư liệu sản xuất. Dù vậy, khi gặp
rủi ro trong đời sống và sản xuất họ sẵn sàng cầm cố hay bán đất đai để giải quyết
khó khăn trước mắt. Các chương trình hỗ trợ đất sản xuất thường được thực hiện ở
các nước nông nghiệp và người nghèo chủ yếu là nông dân. Đối với nước ta, đặc
biệt là vùng núi, đồng bào DTTS, nhà nước có chính sách hỗ trợ khai hoang ruộng
lúa nước (ruộng bậc thang) để giúp người nghèo, người DTTS có đất sản xuất, đảm
bảo an ninh lương thực tại chỗ.
15


1.2.1.2. Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu:
Cơ sở hạ tầng là một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư,
tạo ra việc làm, tăng năng suất lao động, nâng cao thu nhập cho người dân, đặc biệt
là cho người nghèo ở các vùng nông thôn, miền núi. Các điều kiện về cơ sở hạ tầng
thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, công trình thủy lợi có ảnh hưởng rất lớn
đến công tác giảm nghèo, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, nơi người nghèo
chiếm tỷ lệ cao. Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn miền núi, do hạ tầng
giao thông kém phát triển nên rất khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; vì
vậy, người nghèo không thể khai thác tiềm năng đất đai và lao động của gia đình;
bên cạnh đó, các nhà doanh nghiệp cũng không mặn mà với việc đầu tư ở những
khu vực này do chi phí vận chuyển nguyên liệu đầu vào, hàng nông sản cao nên giá
trị sản xuất thấp. Hạn chế về hạ tầng thủy lợi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản
xuất của người dân, do không bảo đảm nguồn nước tưới. Hạ tầng về y tế, giáo dục
thấp kém sẽ gây ra không ít khó khăn đối với đời sống của người nghèo. Vì vậy,
việc đầu tư hỗ trợ hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống dân sinh ở những
vùng nông thôn, miền núi, vùng ĐBKK nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giúp

cho người nghèo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần vươn lên thoát nghèo bền
vững.
1.2.1.3. Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo.
Người nghèo thường thiếu hụt nhiều thứ, trong đó thiếu hụt về nguồn lực về
tài chính sẽ cản trở rất lớn đến việc tổ chức sản xuất của người nghèo. Hỗ trợ tín
dụng ưu đãi cho hộ nghèo nhằm tạo điều kiện cho người nghèo có điều kiện mua
sắm máy móc, phương tiện sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và sản
xuất, mở rộng quy mô, đổi mới phương thức sản xuất tăng năng suất lao động. Việc
hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo được thực hiện thông qua Ngân hàng CSXH,
quỹ tín dụng của các tổ chức chính trị xã hội, thủ tục vay đơn giản, thuận tiện, lãi
suất thấp, nguồn vốn vay quy mô nhỏ, phương thức thu hồi vốn phù hợp với hộ gia
đình. Ngoài ra, các tổ chức chính trị xã hội còn hỗ trợ cho hội viên, đoàn viên nghèo
thông qua mô hình góp vốn quay vòng, nhằm giúp hộ nghèo có điều kiện sản xuất,
vươn lên thoát nghèo bền vững.

16


1.2.1.4. Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo.
Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng, giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự
phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển KT XH. Tuy nhiên, không phải ai cũng có đầy đủ các điều kiện để cho con em mình
đến trường, đặc biệt là con em của hộ nghèo. Do mức thu nhập còn khá hạn chế, chi
phí phục vụ cho học tập, ăn ở, đi lại, sinh hoạt ngày một tăng, khiến cho nhiều gia
đình không đảm bảo được điều kiện kinh tế để cho con em đi học. Do đó, nhiều trẻ
em không được đi học hoặc không hoàn thành được chương trình phổ thông. Vì
vậy, các chính sách hỗ trợ về giáo dục như hỗ trợ chi phí học tập, ăn ở, miễn giảm
học phí, các khoản học bổng, xây dựng trường lớp… nhằm giảm bớt gánh nặng cho
người nghèo. Chính sách hỗ trợ giáo dục nhằm bảo đảm cho tất cả con em hộ nghèo
được tới trường, có điều kiện cần thiết trong học tập; giảm sự chênh lệch về môi

trường học tập và sinh hoạt trong nhà trường giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng
bằng với miền núi, giữa các vùng khó khăn với các vùng thuận lợi.
1.2.1.5. Chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo
Cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo,
người DTTS là một trong những chính sách an sinh xã hội, có ý nghĩa nhân đạo,
nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Qua đó, giúp cho người nghèo có điều kiện để
tiếp cận các dịch vụ y tế, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng
cuộc sống.
1.2.1.6. Chính sách hỗ trợ về nước sạch, vệ sinh và nhà ở cho hộ nghèo.
Hỗ trợ dịch vụ về nước sạch và vệ sinh đối với người nghèo có vai trò quan
trọng nhằm cải thiện môi trường sống, bảo vệ sức khỏe. Do điều kiện kinh tế còn
quá chật vật, khó khăn, nên phần lớn hộ nghèo chưa có điều kiện để quan tâm đến
nước sạch, vệ sinh; vì vậy, chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với dịch vụ nước
sạch, vệ sinh cho người nghèo là hết sức cần thiết. Cùng với đó, nhà ở là một vấn đề
rất lớn đối với người nghèo, sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng và các tổ chức xã
hội nhằm xóa nhà tạm, tranh tre, nứa lá, nhà dột nát nhằm giúp cho người nghèo,
người DTTS định canh, định cư, ổn định cuộc sống và có điều kiện vươn lên thoát
nghèo.

17


1.2.1.7. Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý.
Thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, giúp cho
người nghèo, gia đình chính sách, những người yếu thế trong xã hội hiểu biết về
quyền và nghĩa vụ của mình, chủ động tiếp cận với các chính sách hỗ trợ của nhà
nước, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật; ngăn ngừa đấu tranh với các
hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của cá nhân, tập thể cũng như lợi ích
chung của toàn xã hội.
1.3. Quy trình thực hiện chính sách về giảm nghèo bền vững.

1.3.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
Để hiện thực hóa chính sách GNBV, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng kế
hoạch cụ thể nhằm đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để hoàn thành Chương trình
MTQG GNBV theo từng giai đoạn; nhiều chủ trương, chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước được ban hành và thực thi, như: Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày
27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ GN nhanh và bền vững đối với
61 huyện nghèo; Nghị quyết 80/ NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định
hướng GNBV thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020; Nghị quyết số 76/2014/QH13
ngày 24/6/2014 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm mục tiêu giảm
nghèo nhanh và bền vững đến năm 2020. Thực hiện mục tiêu giảm nghèo theo Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng đề ra, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 100/2015/
QH13 ngày 12/11/2015 phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình MTQG giai
đoạn 2016-2020; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1722/ QĐ-TTg
ngày 02/9/2016 phê duyệt Chương trình MTQG GNBV giai đoạn 2016-2020. Các
chương trình, CSGN được tiếp tục thực hiện nhằm hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo,
hộ mới thoát nghèo tiếp cận thuận lợi hơn các dịch vụ như y tế, giáo dục, tín dụng
ưu đãi, đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt… trong đó ưu tiên cho hộ đồng
bào DTTS nghèo, phụ nữ nghèo có đời sống khó khăn.
1.3.2. Tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Từ việc ban hành các văn bản để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, Nhà nước tổ
chức thực hiện chính sách GNBV đến các địa phương. Có thể nói, đói nghèo là một
trong những rào cản lớn làm giảm khả năng phát triển của con người, cộng đồng
cũng như mỗi quốc gia, dân tộc. Người nghèo thường không có điều kiện tiếp cận

18


các dịch vụ xã hội như việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thông tin… và điều
đó khiến cho họ ít có cơ hội thoát nghèo. Do vậy, việc bảo đảm mức sống tối thiểu,
mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực cũng như khả năng tiếp cận các dịch

vụ xã hội cơ bản cho người nghèo là phương thức tốt nhất để GNBV.
Tổ chức thực hiện giảm nghèo ở cấp huyện, cơ quan thực hiện các chính sách
GNBV chính là:
HĐND huyện là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. HĐND huyện
quyết định những chủ trương, giải pháp quan trọng để xây dựng và phát triển kinh
tế địa phương, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân địa phương.
UBND huyện: Chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của
cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm đảm bảo thực
hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh
trên địa bàn.
HĐND và UBND huyện thực hiện các chính sách GNBV trên các phương
pháp, nguyên tắc và công cụ hợp lý.
Phương pháp: Điều chỉnh các hoạt động giúp nhân dân địa phương GNBV
dựa trên các phương pháp cụ thể như: phương pháp tâm lý giáo dục, phương pháp
kinh tế (cho vay lãi suất thấp), phương pháp tổ chức hành chính.
Nguyên tắc: Các hoạt động nhằm GNBV phải hướng đến lợi ích thiết thực của
người nghèo, tạo động cơ để các hộ nghèo vươn lên, vượt qua những vướng mắc để
thoát nghèo bền vững.
Công cụ: Các quy định của pháp luật về cơ chế, chính sách là công cụ để các
cấp thực hiện chính sách GNBV.
Tổ chức thực hiện chính sách GNBV với mục đích chân chính là giúp người
nghèo nâng cao đời sống kinh tế cá nhân, góp phần giảm tỉ lệ nghèo ở địa phương,
từ đó thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các hộ trong địa phương, giữa các vùng
dân cư, giữa các địa phương trên cả nước.

19



×