Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT về dân CHỦ cơ sở từ THỰC TIỄN HUYỆN DUY XUYÊN, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.2 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ HOÀNG MI

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN DUY XUYÊN,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ HOÀNG MI

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN DUY XUYÊN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THANH HÀ

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn “Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ
thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp
với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Dương Thị Hoàng Mi


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ .................................................................................................................. 8
1.1. Khái niệm và nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở ........................................ 8
1.2. Khái niệm, vai trò và các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở... 22
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở .......... 29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ
SỞ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN DUY XUYÊN, TỈNH QUẢNG NAM ..............33
2.1. Khái quát chung về huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam ............................ 33
2.2. Thực trạng triển khai việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở huyện Duy
Xuyên ................................................................................................................... 36
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở huyện Duy
Xuyên ................................................................................................................... 49
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
DUY XUYÊN, TỈNH QUẢNG NAM ........................................................................59
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ
thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam..................................................... 59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực
tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam............................................................. 62
KẾT LUẬN .......................................................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

2

DS-KHHGĐ

Dân số - Kế hoạch hóa gia đình


3

HĐND

Hội đồng nhân dân

4

Nxb

Nhà xuất bản

5

UBND

Ủy ban nhân dân

6

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Dân chủ ngày nay đã trở thành một chuẩn mực giá trị của xã hội văn
minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa

là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả
các lĩnh vực.
Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập của Việt Nam hiện nay, việc xây
dựng nền dân chủ XHCN và thực hiện dân chủ ở cơ sở là một yêu cầu khách
quan của sự nghiệp đổi mới, nhất là sau khi có Chỉ thị 30/CT-TW ngày
18/02/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở. Theo đó, dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở phải được thể chế hóa bằng
pháp luật và phải được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm. Tuy nhiên, việc
thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và các quy định pháp luật trong
các văn bản pháp luật về dân chủ cơ sở thực hiện chưa hiệu quả. Một số mặt
bất cập trong pháp luật và thực hiện pháp luật hiện hành về bầu cử. Thực tiễn
ở địa phương, có một số đại biểu dân cử tuy đã không còn được tín nhiệm của
nhân dân, song trên thực tế pháp luật lại chưa quy định rõ về các thủ tục để
tiến hành bãi nhiệm (chưa xác lập được cơ chế để cử tri và nhân dân tiến hành
bãi nhiệm). Vấn đề trưng cầu ý dân hiện nay đang còn khó thực hiện dù là đã
có Luật trưng cầu ý dân 2015. Việc xây dựng Quy chế thực hiện dân chủ đơn
vị mình còn có tính hình thức, thể hiện ít nhiều về sự sao chép lại Nghị định
của Chính phủ… Đây là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu.
Liên hệ đến tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Duy Xuyên nói riêng,
bên cạnh việc đẩy mạnh tuyên truyền về các chính sách kinh tế - xã hội đến
1


với người dân, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam đã triển khai Quyết định
350-QĐ/TU ngày 14/9/1998 về Thành lập Ban Chỉ đạo triển khai thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở (các huyện, thành phố và các cơ quan đều thành lập
Ban Chỉ đạo do đồng chí cấp uỷ hoặc lãnh đạo chủ chốt chính quyền làm
trưởng ban); các cấp ủy Đảng và chính quyền ở địa phương từng bước chú

trọng phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở thông qua xây dựng kế hoạch thực
hiện quy chế dân chủ ở địa phương mình, cụ thể hoá một bước về nội dung,
hình thức và các biện pháp thực hiện nhằm gia tăng sự đồng thuận xã hội
trong thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, góp phần đẩy
nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Quảng Nam nói chung và huyện Duy Xuyên nói riêng; tạo đà chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành, lĩnh vực đúng hướng CNH,HĐH; cũng như tạo các cơ hội
việc làm và giải quyết việc làm cho người dân ở địa phương thông qua
triển khai các chương trình phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn
đề xã hội, ổn định đời sống...
Tuy vậy, một số vấn đề tồn tại bất cập đang đặt ra trong quá trình thực
hiện dân chủ cơ sở ở địa phương: (1) Trình độ dân trí chưa đồng đều, ý thức
và năng lực thực hành dân chủ, năng lực giám sát của nhân dân còn thấp. Thói
quen tùy tiện của một bộ phận nhân dân và việc tuân thủ pháp luật của người
dân chưa cao, nhận thức về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân,
giữa dân chủ với kỉ cương pháp luật còn chưa đầy đủ nên dễ bị lôi kéo lợi
dụng, khiếu kiện đông người, gây rối trật tự công cộng; (2) Việc áp dụng kết
hợp giữa hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong thực hiện các
nội dung của pháp luật về dân chủ ở các xã, thị trấn trên địa bàn chưa được
tăng cường; (3) Hiệu quả Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
không ít xã còn thấp. Một số nơi còn chưa chú trọng phát huy dân chủ từ cơ
sở hoặc triển khai thực hiện pháp luật về quy chế dân chủ ở cơ sở thiếu
2


nghiêm túc; (4) Chức năng giám sát của nhân dân chưa được coi trọng đối với
nhiều công trình có quy mô lớn do cấp trên làm chủ đầu tư. Tình trạng quy
hoạch “treo”, dự án “treo” diễn ra ở không ít nơi khiến người dân phản ứng…
Với lý do nêu trên, tác giả đăng ký lựa chọn đề tài nghiên cứu “Thực
hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng

Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là vấn đề đã nhận được sự quan tâm
của các nhà quản lý, hoạch định chính sách, nhà khoa học. Tiêu biểu các công
trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề này ở nhiều góc nhìn tiếp cận, có thể kể
đến dưới đây:
- Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong
tiến trình đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội. Công trình này làm rõ vai trò của dân
chủ và dân chủ hóa ở nông thôn nước ta, làm rõ vai trò lý luận và thực tiễn
đối với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, tác giả chỉ ra vai trò thực
hiện dân chủ của nông dân và coi vấn đề dân chủ là vấn đề bức xúc của nông
dân, nhưng cũng là động lực để phát triển nông thôn hiện nay.
- Hoàng Chí Bảo (2008), “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội
trong phát triển biền vững”, Tạp chí Triết học số 7 năm 2008. Bài nghiên cứu
đã được tác giả chỉ ra: việc đồng thuận trong xã hội là cơ sở cho tính chặt chẽ
trong sự liên minh, liên kết giữa các tổ chức xã hội đồng thời là điều kiện cho
quá trình thực hiện dân chủ xã hội. Tuy vậy, nghiên cứu này chưa chỉ rõ cách
thức, biện pháp để thiết lập sự đồng thuận xã hội, bài nghiên cứu này chủ yếu
là đặt cách tiếp cận lý luận.
- Phạm Văn Đức - Nguyễn Đình Hòa (2013), Dân chủ và phát huy dân
chủ trong công tác tham mưu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ở
3


nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, Số 11. Bài nghiên cứu này đã được nhóm
tác giả nhận định: Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm
quyền của Đảng Cộng sản là yêu cầu cấp thiết, là nội dung cơ bản của công
tác xây dựng Đảng và việc phát huy dân chủ trong công tác tham mưu được
xem là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo

của Đảng Cộng sản với tư cách đảng cầm quyền.
- Cuốn “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” của
tác giả Nguyễn Trọng Thóc, xuất bản năm 2005; Cuốn “Xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn
Văn Niên, xuất bản năm 1996; Cuốn “Phản biện xã hội và phát huy dân chủ
pháp quyền” của Hồ Bá Thâm - Nguyễn Tôn Thị Tường Vân, xuất bản năm
2009; và Cuốn “Mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa pháp luật” của Hoàng
Chí Bảo - Tống Đức Thảo, xuất bản năm 2011... Các công trình này có điểm
chung là xác định: Dân chủ là thước đo để đánh giá sự tiến bộ của pháp luật
giữa các quốc gia. Để thực thi quyền dân chủ của nhân dân, trước hết cần phải
tăng cường xây dựng và hoàn thiện pháp luật; dân chủ phải đi đôi với pháp
luật (việc thực hiện dân chủ phải dựa vào pháp luật và thông qua pháp luật),
không có dân chủ ngoài pháp luật.
- Lương Đình Hải (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề
dân chủ hóa xã hội ở nước ta, Tạp chí Triết học số 01 năm 2006. Bài viết đã
nhấn mạnh vai trò của dân chủ hóa xã hội trong nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân, dân chủ đóng vai trò cơ sở, động lực thúc đẩy sự phát
triển của nhà nước pháp quyền. Đồng thời, nghiên cứu này nhận định không
có nhà nước pháp quyền thực sự thì không có nền dân chủ rộng rãi và bền
vững.
- Thomas Meyer và Nicole Breyr (2007), Tương lai của nền dân chủ xã

hội, tương lai của nền dân chủ xã hội, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. Công
4


trình này đã xác định các quyền cơ bản của con người và đối tượng thực thi
dân chủ ở trên các lĩnh vực, không chỉ có trong quá khứ, hiện tại mà còn có cả
trong tương lai. Dân chủ xã hội không chỉ là một đòi hỏi để cải thiện cuộc
sống của con người mà nó còn đảm bảo quyền thực thi các quyền cơ bản của

họ. Ở tài liệu này được tác giả nhìn nhận nền dân chủ trong kinh tế thị trường
trong xu thế toàn cầu hóa.
- Phan Xuân Sơn (2003) (chủ biên), Các đoàn thể nhân dân với việc
bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Công trình này được
tác giả phân tích vai trò, vị trí của các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện
quy chế dân chủ và chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế trong quá
trình thực hiện quy chế dân chủ: (1) nhiều nơi còn làm đại khái, qua loa, hời
hợt, một số nơi tổ chức lúc đầu thì rầm rộ nhưng sau đó lại lắng xuống; (2)
một số nơi, quyền dân chủ ở nhiều mặt còn bị hạn chế dẫn đến sự hoài nghi,
thiếu tin tưởng trong nhân dân; (3) nhiều cơ sở xã, phường, thị trấn chưa phát
huy được tính tích cực của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị…
Tuy vậy, đề cập nghiên cứu cụ thể vấn đề pháp luật về thực hiện quy
chế ở cơ sở xã, phường trên địa bàn quận Cẩm Lệ cho đến nay vẫn chưa có đề
tài nào nghiên cứu trùng lặp. Song với các công trình vừa nêu trên lại có giá
trị kế thừa tham khảo tốt. Chính vì vậy, nghiên cứu về Thực hiện pháp luật
về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam có ý
nghĩa thời sự cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, từ
thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nhằm rút ra những kinh
nghiệm, phương hướng, giải pháp để tiếp tục nâng cao hiệu quả, thực hiện tốt
hơn pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn địa phương (huyện Duy Xuyên)
5


nói riêng và vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ, trong đó có dân chủ cơ sở
ở Việt Nam nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về dân chủ

cơ sở.
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở xã,
phường, thị trấn từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân
chủ cơ sở giai đoạn hiện nay từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ở phạm vi nghiên cứu của luận văn, thực hiện pháp luật về dân chủ cơ
sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên - tỉnh Quảng Nam, chủ yếu là: tập trung
thực hiện những nội dung quy định của pháp luật dân chủ ở cấp xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung:
Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực tiễn huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi không gian:
Các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi thời gian:
Từ năm 2013 (gắn liền với sự sửa đổi ban hành Hiến pháp 2013) đến
năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống.
- Phương pháp thu thập thông tin, phân tích văn bản.
- Phương pháp thống kê so sánh, phân tích tổng hợp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung, làm rõ hơn một số vấn đề liên
quan đến cơ sở lý luận và pháp lý về thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực
tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam sẽ góp phần cung cấp luận cứ cho
các giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực hiện pháp luật về dân chủ cơ
sở ở Việt Nam hiện nay.
Đóng góp tư vấn cho chính quyền địa phương trong triển khai chính
sách, pháp luật về dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu nội
dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1.Cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở từ thực
tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở hiện nay từ thực tiễn huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm và nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở
1.1.1. Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở
- Dân chủ.

Dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội, nó xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của Nhà nước. Nên quan niệm về dân chủ đã có từ rất lâu trong lịch sử
xã hội. Dân chủ (theo tiếng Hy Lạp dêmocratia) có nghĩa là “quyền lực của
Nhân dân”, nên về cơ bản dân chủ được định nghĩa là một hình thức chính
quyền trong đó quyền lực tối cao thuộc về Nhân dân[10].
Dân chủ với tính cách là một chế độ Nhà nước là một phạm trù lịch sử,
biểu hiện khát vọng tự nhiên của loài người. Dân chủ là một quá trình biểu
hiện mong muốn của con người được làm chủ cuộc sống mình: làm chủ chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Dân chủ được hiểu là một giá trị xã hội nhân văn, phản ánh khả năng
giải phóng con người, nâng cao vị trí của con người trong lịch sử, hình thành
và phát triển ở con người ý thức và năng lực làm chủ xã hội. Dân chủ còn
được xem xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành và phát triển một nhân
cách toàn diện của các chủ thể chính trị. Đó là sự hình thành thái độ, tinh thần
trách nhiệm, tính tích cực chính trị, tính chủ động, nhu cầu và sự tự giác tham
gia vào các quá trình chính trị thực tiễn.
Ở khía cạnh nghiên cứu của luận văn, xem xét dân chủ với tư cách là
một hình thức tổ chức nhà nước, là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối
quan hệ giữa cộng đồng dân chúng với nhà nước. Trong đó, cộng đồng dân
chúng là chủ thể gốc của quyền lực và có quyền năng áp đặt ý chí lên nhà
nước. Dân chủ là “hình thức tổ chức thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc
8


thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình
đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của
những tổ chức và thiết chế nhất định…”[37; tr. 653]. Nói cách khác, dân chủ
là một hình thức thiết chế chính trị của xã hội thể hiện quyền lực của quần
chúng nhân dân thông qua một hệ thống bầu cử tự do (dân chủ luôn đề cao vai
trò của quần chúng nhân dân).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là dân là chủ (vị thế của nhân
dân) và dân làm chủ (khả năng của nhân dân) luôn đi liền với nhau, thể hiện
vị trí, vai trò và quyền của nhân dân đối với nhà nước.
- Dân chủ cơ sở.
Xuất phát từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách là những con
người, rút ra cái quyền có một giá trị ngang nhau về chính trị và xã hội cho tất
cả mọi người, hay ít ra là cho công dân trong một nước, hay cho mọi thành
viên trong xã hội (Ph.Ăngghen). Và bất kỳ một thành viên xã hội nào thì cũng
đều gắn liền với việc sinh sống, lao động và học tập ở một cơ sở nhất định
trong hệ thống xã hội.
Với hệ thống chính trị ở Việt Nam, dân cư ở cấp xã, các cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp là các đơn vị cơ sở - nơi diễn ra các quan hệ căn bản trên
nhiều lĩnh vực đời sống giữa các tầng lớp nhân dân.
Theo đó, dân chủ cơ sở là vị thế và quyền của người dân ở cơ sở mà
chủ thể chủ yếu là những tầng lớp người lao động sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần để bảo đảm cho xã hội tồn tại, phát triển. Việc “thực hiện dân chủ
cơ sở được thông qua bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, cụ thể
là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham gia”[36; tr.58].
- Pháp luật về dân chủ cơ sở.
Pháp luật về dân chủ cơ sở là lĩnh vực pháp luật về quyền dân sự của
người dân. Pháp luật về dân chủ cơ sở được xem xét ở nhiều khía cạnh.
9


Pháp luật về dân chủ cơ sở theo nghĩa rộng, bao gồm các quy định điều
chỉnh: (1) Vấn đề thực hiện dân chủ của người dân ở cơ sở - nhất là cấp xã,
phường, thị trấn; (2) Vấn đề dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước,
trong các đơn vị sự nghiệp công lập; trong các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng
lao động…
Pháp luật về dân chủ cơ sở theo nghĩa hẹp, bao gồm các quy định về

những nội dung mà chính quyền xã (gồm HĐND và UBND), Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, cá nhân, cán bộ, công chức, có trách nhiệm
kịp thời công khai để nhân dân biết, những việc nhân dân được bàn và quyết
định, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; những nội dung liên
quan đến trách nhiệm của người có thẩm quyền ở cơ sở.
Pháp luật về dân chủ cơ sở được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự do
Nhà nước ban hành và thực hiện nhằm bảo đảm điều chỉnh các quan hệ phát
sinh giữa Nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức
kinh tế và công dân để tạo điều kiện cho công dân đảm bảo thực hiện quyền
làm chủ của mình trên các lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội.
1.1.2. Nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở
Nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở là sự cụ thể hóa về các quyền và
giá trị của dân chủ đã được quy định trong Hiến pháp 1992. Nội dung pháp
luật về dân chủ cơ sở chính là các quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa
và xã hội (Điều 50), mà ở đó có: quyền tự do bầu cử và ứng cử (Điều 2, Điều
7, Điều 54); quyền của nhân dân được tham gia vào quản lý Nhà nước (Điều
11, Điều 53); quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin (Điều 69); quyền
của nhân dân được kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy và cán bộ công
chức Nhà nước ( Điều 8); quyền khiếu nại (Điều 74); quyền bình đẳng nam
nữ (Điều 63)…
10


Từ căn cứ cốt lõi ở các quy định của Hiến pháp năm 1992, nội dung
pháp luật về dân chủ cơ sở được thể chế hóa ở các luật quan trọng và được
điều chỉnh trực tiếp bằng các văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở.
Theo đó, Chính phủ triển khai hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành đối
với từng loại hình cơ sở. Các văn bản hướng dẫn thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn được ban hành từ năm 1992 đến nay khá đầy đủ và có hệ

thống, như: Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về “Xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Nghị định số 29/1998/NĐ-CP
của chính phủ ngày 11/5/1998 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn; Chỉ thị số 22/1998/CT- TTg ngày 15/5/1998 của Thủ tướng Chính
phủ về việc triển khai Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Thông tư số
03/1998/TT- TCCP ngày 06/7/1998 về hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã, phường và thị trấn…
Để đáp ứng yêu cầu mới, Chính phủ đã có Nghị định số 79/2003/NĐ –
CP ngày 07/7/2003 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (thay thế Nghị
định số 29/1998/CP). Trên cơ sở này, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số
12/2004/TT – BNV ngày 20/02/2004 hướng dẫn thực hiện Quy chế dân chủ ở
xã, phường, thị trấn. Tiếp tục xác định nhiệm vụ phát huy dân chủ là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển nước ta (theo chủ trương
của Đại hội X của Đảng) và để đưa thực hiện dân chủ ở cơ sở vào thực tiễn
cuộc sống với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, ngày
20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số
34/2007/PL- UBTVQH11 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Để triển
khai thuận lợi về nội dung của Pháp lệnh 34, Chính phủ đã phối hợp với Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Nghị quyết liên tịch
09/2008/NQLT - CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 về hướng dẫn thi
hành các điều 11, 14, 16, 22, 26 của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,

11


phường, thị trấn. Để đáp ứng của tình hình phát triển mới, các quyền và giá trị
của dân chủ cơ sở tiếp tục được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013 (thông
qua Điều 6, Điều 7, Điều 8, Điều 14, Điều 25, Điều 26, Điều 27, Điều 28,
Điều 29, Điều 79, Điều 115,…). Chẳng hạn, Điều 28 của Hiến pháp năm
2013: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia

thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến,
kiến nghị của công dân”[32] (tức là quyền tham gia của người dân thể hiện ở
ba khía cạnh: quyền tham gia quản lý nhà nước; quyền tham gia quản lý xã
hội; và quyền tham gia thảo luận, kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn
đề của cơ sở, địa phương và cả nước)...
Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 và Luật
trưng cầu ý dân năm 2015 cùng với hệ thống văn bản của Đảng, các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan thông qua: Quyết định số 217-QĐ/TW ngày
12-12-2013 của Bộ chính trị về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218QĐ/TW ngày 12/12/2013 về việc ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày
19/6/2013 về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc gồm các
doanh nghiệp, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê, mướn, sử
dụng lao động làm việc theo hợp đồng; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày
09/01/2015 của Chính phủ; Nghị định số 149/2018/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 07-11-2018 Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ Luật lao động về
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc...

12


Như vậy, Hiến pháp năm 2013, Luật trưng cầu ý dân năm 2015, Pháp
lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11, Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12-12-2013,
Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013, Nghị định số 60/2013/NĐ-CP,
Nghị định 04/2015/NĐ-CP và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo những
bước chuyển mới trong việc thực hiện dân chủ cơ sở - nhất là ở xã, phường,
thị trấn. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng tạo động lực thúc đẩy, phát huy

quyền làm chủ của người dân, thu hút người dân tham gia, giám sát các hoạt
động của cơ quan nhà nước...
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, thực hiện pháp luật về dân
chủ cơ sở ở cấp xã bao gồm các nội dung căn bản sau:
Một là: Nội dung cần công khai để dân biết.
Các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; dự toán và quyết
toán ngân sách cấp xã thường niên; phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Dự án, công trình đầu tư ưu tiên theo thứ tự ở cấp xã, tiến độ triển khai
thực hiện, phương án đền bù, hỗ trợ, tái định cư liên quan tới các dự án, công
trình đó; kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh,
quy hoạch dân cư trên địa bàn cấp xã.
Nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp trong
giải quyết các công việc của nhân dân.
Việc quản lý và sử dụng những khoản đầu tư, tài trợ, loại quỹ theo dự
án, chương trình đối với cấp xã; những khoản huy động nhân dân đóng góp.
Các chủ trương, chính sách, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát
triển sản xuất, giảm nghèo; phương thức và kết quả xét hộ nghèo vay vốn phát
triển sản xuất, cấp thẻ bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình
thương.
Đề án thành lập mới, chia - nhập đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới
hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.
13


Kết quả thanh - kiểm tra, giải quyết vụ việc tiêu cực, tham nhũng của
cán bộ, công chức cấp xã và của cán bộ cấp thôn; kết quả bỏ phiếu tín nhiệm
chủ tịch và phó chủ tịch UBND, chủ tịch và phó chủ tịch HĐND cấp xã.
Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân về các vấn đề thuộc
thẩm quyền cấp xã quyết định mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến người
dân.

Đối tượng, mức thu những loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu như: dự toán và quyết toán ngân sách cấp xã,
hàng năm; dự toán và quyết toán thu, chi các quỹ, dự án và những khoản huy
động đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng, công trình phúc lợi cộng đồng của
cấp xã, thôn và kết quả thực hiện; những chương trình, dự án do Nhà nước,
các tổ chức và cá nhân đầu tư tài trợ trực tiếp cho cấp xã.
Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công
việc do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện liên quan tới người dân.
Những nội dung khác theo luật định, theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã xét khi cần thiết.
Những việc cần thông báo công khai để nhân dân biết gồm các vấn đề
về phát triển kinh tế - xã hội, an sinh xã hội, văn hoá xã hội, chính trị - xã hội
liên quan trực tiếp đến đời sống và sinh hoạt nhân dân ở cấp xã và cộng đồng
dân cư.
Nội dung những việc cần công khai để nhân dân biết được tổ chức dưới
các hình thức: (1) Niêm yết công khai tại trụ sở chính quyền cấp xã và các
trung tâm dân cư, văn hoá; (2) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp
xã; (3) Công khai tại các kỳ họp của HĐND, thông qua Trưởng thôn, Tổ
trưởng tổ dân phố và các cuộc họp của các tổ chức quần chúng để thông báo
đến nhân dân.

14


Hai là: Nội dung những việc nhân dân được bàn và quyết định trực
tiếp.
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp bao gồm các công việc như: chủ
trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công
cộng (điện, đường giao thông, trường học, nhà văn hoá, trạm y tế, nghĩa trang
…); lập thu chi các quỹ trong khuôn khổ pháp luật ở phạm vi cấp xã, thôn, tổ

dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công
việc khác (tổ chức bảo vệ sản xuất kinh doanh; thành lập ban giám sát công
trình xây dựng do dân đóng góp; xây dựng quy ước, hương ước làng văn hoá,
giữ gìn an ninh trật tự, bài trừ các tệ nạn xã hội và hủ tục mê tín dị đoan)
trong cộng đồng dân cư phù hợp với luật định.
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những nội dung này bằng một
trong các hình thức: (1) Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia
đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố;; (2) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri
hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
Ba là: Nội dung và hình thức mà nhân dân bàn, biểu quyết, tham gia ý
kiến để cấp có thẩm quyền quyết định.
- Những việc mà nhân dân bàn và biểu quyết bao gồm các việc, như:
Hương ước, quy ước của thôn làng, tổ dân phố; Bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm
tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn; Bầu, bãi nhiệm thành viên của Ban thanh
tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; những việc xây dựng cộng
đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản. Đây là nội dung các công việc trong thực
hiện dân chủ cơ sở nhằm bàn bạc, thảo luận đi đến thống nhất quyết định các
vấn đề thuộc công việc nội bộ của cộng đồng dân cư về xây dựng cơ sở hạ
tầng, sản xuất, giải quyết việc làm, giảm nghèo, các vấn đề văn hoá, xã hội, vệ
sinh môi trường, an ninh và trật tự an toàn xã hội ở cấp xã.
Những việc mà nhân dân tham gia bàn bạc – thảo luận, biểu quyết

15


thường được tổ chức dưới các hình thức, như: (1) Cuộc họp cử tri hoặc cử tri
đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; (2) Phát phiếu lấy ý
kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình, trừ việc bầu, bãi nhiệm, miễn
nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
- Những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền

quyết định bao gồm: phương án đền bù giải phóng mặt bằng; giới thiệu những
người ứng cử đại biểu HĐND cấp xã; các dự thảo về kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội cấp xã, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế; dự thảo quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản lý, sử
dụng quỹ đất của cấp xã; dự thảo quy hoạch khu dân cư, đề án định canh định cư, vùng kinh tế mới, phương án phát triển ngành nghề, giải quyết việc
làm của cấp xã Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa
bàn cấp xã;; dự thảo đề án thành lập mới, chia - nhập đơn vị hành chính, điều
chỉnh địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã, thôn; kế hoạch huy
động khoản đầu tư đóng góp từ người dân để xây dựng kết cấu hạ tầng do xã
quản lý; dự thảo các chương trình quốc gia về y tế, nước sách, vệ sinh môi
trường; những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của
pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính
quyền cấp xã xét khi cần thiết.
Về hình thức đối với những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi
cấp có thẩm quyền quyết định, đó là: (1) Họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia
đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; (2) Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc
cử tri đại diện hộ gia đình; (3) Hòm thư góp ý.
Bốn là: Các nội dung được nhân dân giám sát.
Nội dung được nhân dân giám sát, đó là những nội dung công khai; nội
dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; những nội dung nhân dân bàn,
biểu quyết; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến như đã nêu trên.

16


Việc triển khai các nội dung để nhân dân giám sát được tổ chức dưới
các hình thức: (1) Nhân dân thực hiện việc giám sát thông qua hoạt động của
Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; (2) Nhân dân
trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Uỷ ban Mặt

trận Tổ quốc cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp xã, Ban thanh
tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Trình tự, thủ tục khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị của nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Năm là: Trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở.
- Đối với các nội dung công khai để dân biết:
UBND cấp xã có trách nhiệm lập, thông qua kế hoạch thực hiện những
nội dung công khai, trong đó nêu rõ cách thức triển khai thực hiện, thời gian
thực hiện và trách nhiệm tổ chức thực hiện. Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện và chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch, phương án đã
được thông qua. UBND cấp xã báo cáo HĐND cùng cấp về quá trình và kết
quả thực hiện các nội dung công khai tại kỳ họp gần nhất của HĐND.
Chính quyền cấp xã có trách nhiệm niêm yết những nội dung cần công
khai theo quy định. Chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày văn bản được thông
qua, ký ban hành đối với những việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc kể từ ngày nhận được văn bản đối với những
việc thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên. Thời gian
niêm yết ít nhất là ba mươi ngày liên tục, kể từ ngày niêm yết. Trường hợp
công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã thì thời hạn công khai là ba
ngày liên tục.
- Đối với các nội dung được nhân dân bàn và quyết định trực tiếp:
UBND cấp xã có trách nhiệm lập, thông qua kế hoạch thực hiện những
nội dung nhân dân bàn và quyết định; phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
17


Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp tổ chức thực hiện; chỉ đạo
Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố thực hiện kế hoạch đã được thông qua.
Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm lập biên bản tổng hợp kết quả về
những nội dung đã đưa ra nhân dân toàn cấp xã bàn và quyết định; tổ chức
triển khai thực hiện những nội dung đã được nhân dân quyết định; phối hợp

với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã tổ chức việc bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố. UBND cấp xã báo cáo HĐND
cùng cấp về quá trình và kết quả thực hiện các nội dung nhân dân bàn và
quyết định tại kỳ họp gần nhất của HĐND.
Trách nhiệm của Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, đó là: (1) Chủ trì,
phối hợp với Ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố tổ chức cuộc họp cử tri
hoặc cử tri đại diện hộ gia đình, phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử tri đại
diện hộ gia đình để nhân dân thực hiện; (2) Lập biên bản về kết quả đã được
nhân dân thôn, tổ dân phố bàn và quyết định trực tiếp những công việc của
thôn, tổ dân phố; (3) Lập biên bản về kết quả đã được nhân dân thôn, tổ dân
phố bàn và quyết định trực tiếp những công việc thuộc phạm vi cấp xã; báo
cáo kết quả cho Chủ tịch UBND cấp xã; (4) Tổ chức thực hiện những công
việc trong phạm vi thôn, tổ dân phố đã được nhân dân quyết định.
Những nội dung đưa ra nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, nếu có
trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố
hoặc trong toàn cấp xã tán thành thì có giá trị thi hành. Nhân dân có trách
nhiệm tham gia bàn và quyết định các công việc của thôn, tổ dân phố và của
cấp xã theo quy định của pháp luật; chấp hành và thực hiện các quyết định đã
có giá trị thi hành. Chính quyền cấp xã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp tổ chức tuyên truyền, vận động,
thuyết phục những cử tri, hộ gia đình chưa tán thành trong việc thực hiện
những quyết định đã có giá trị thi hành.
18


- Đối với các nội dung được nhân dân bàn, biểu quyết:
Về việc nhân dân bàn và biểu quyết về hương ước, quy ước của thôn tổ chỉ có giá trị thi hành nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ
gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành và UBND cấp huyện ra quyết định
công nhận. Quy trình công nhận hương ước, quy ước của thôn - tổ, Trưởng
thôn - tổ có trách nhiệm báo cáo ngay với UBND cấp xã về kết quả việc nhân

dân bàn, biểu quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được
báo cáo, UBND cấp xã phải lập hồ sơ trình UBND cấp huyện. Trong thời hạn
07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, UBND cấp huyện phải xem
xét, ra quyết định công nhận; trường hợp không công nhận thì phải trả lời
bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Về việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố
chỉ có giá trị thi hành, nếu có trên 50% tổng số cử tri hoặc cử tri đại diện hộ
gia đình trong thôn, tổ dân phố tán thành và được UBND cấp xã ra quyết định
công nhận. Quy trình công nhận kết quả bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Trưởng
thôn - Tổ, người chủ trì cuộc họp thôn, tổ dân phố có trách nhiệm lập biên
bản, báo cáo ngay với UBND cấp xã kết quả bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
Trưởng thôn - Tổ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo
cáo, UBND cấp xã phải xem xét, ra quyết định công nhận; trường hợp không
công nhận thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Về việc bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám
sát đầu tư của cộng đồng chỉ có giá trị thi hành, nếu có trên 50% tổng số cử tri
hoặc cử tri đại diện hộ gia đình tán thành và được Uỷ ban MTTQ cấp xã công
nhận. Quy trình công nhận kết quả bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra
nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, người chủ trì cuộc họp có trách
nhiệm báo cáo ngay với Mặt trận Tổ quốc cấp xã kết quả bầu, bãi nhiệm
thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Trong
19


thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cấp xã phải xem xét, công nhận; trường hợp không công nhận
thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
- Đối với các nội dung được nhân dân tham gia ý kiến để cấp có thẩm
quyền quyết định:
UBND cấp xã có trách nhiệm lập kế hoạch và thông qua kế hoạch để

lấy ý kiến nhân dân về các nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của chính
quyền cấp xã, trong đó nêu rõ cách thức triển khai, thời gian tiến độ và trách
nhiệm tổ chức thực hiện. UBND cấp xã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc cấp xã
và các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp tổ chức thực hiện kế hoạch đã
được phê duyệt. Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm chỉ đạo trong việc
tổ chức thu thập ý kiến, tổng hợp ý kiến của cử tri (cử tri đại diện hộ gia
đình); nghiên cứu tiếp thu ý kiến và thông báo với nhân dân về tiếp thu ý kiến
của cử tri (cử tri đại diện hộ gia đình). Trường hợp chính quyền cấp xã quyết
định khác với ý kiến của đa số thì phải nêu rõ lý do và chịu trách nhiệm về quyết
định của mình.
Đối với những nội dung do cơ quan có thẩm quyền giao cho chính
quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến nhân dân (vì có liên quan trực tiếp đến quyền
và lợi ích của công dân trên địa bàn cấp xã) thì UBND cấp xã có trách nhiệm
lập, thông qua kế hoạch thực hiện, trong đó nêu rõ cách thức triển khai, thời
gian và trách nhiệm tổ chức thực hiện; chỉ đạo tổ chức thực hiện, tổng hợp ý
kiến và báo cáo với cơ quan có thẩm quyền về kết quả lấy ý kiến nhân dân
trên địa bàn. UBND cấp xã báo cáo HĐND cùng cấp về quá trình và kết quả
thực hiện các nội dung đưa ra lấy ý kiến nhân dân tại kỳ họp gần nhất của
HĐND. Về phía cơ quan có thẩm quyền cấp trên có trách nhiệm tổ chức thực
hiện những nội dung nhân dân cấp xã tham gia ý kiến: (1) Lấy ý kiến nhân
dân trước khi quyết định về các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi
20


×