Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT đối với NGƯỜI dưới 18 TUỔI PHẠM tội từ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.3 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THÀNH LONG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THÀNH LONG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC
TIỄN TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” là công trình nghiên cứu khoa học
của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sỹ Nguyễn Văn Hiển.
Các số liệu, kết quả, trích dẫn được đề cập trong Luận văn hoàn toàn
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của Luận văn
chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Đinh Thành Long


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI.......................................................... 8
1.1. Lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội....................................................................... 8
1.2. Lý luận về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............13
1.3. Mối quan hệ giữa quyết định hình phạt và áp dụng hình phạt đối với người

dưới 18 tuổi phạm tội.................................................................................................................... 22
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH GIA LAI............................................................................ 25
2.1. Quy định của pháp luật hình sự về áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội................................................................................................................................ 25
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh
Gia Lai................................................................................................................................................... 38

CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI......57
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
.........................................................................................................................57
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội................................................................................................................................................ 61
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CQĐT


Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

NCTN

Người chưa thành niên

TAND

Tòa án nhân dân

THAHS

Thi hành án hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1.

Số bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội đã xét xử giai
đoạn 2014 – 2019

39

2.2.

Các tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trong
giai đoạn 2014 – 2019

40

2.3.

Kết quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội giai đoạn 2014 – 2019

44



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia Lai là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh
của khu vực Bắc Tây Nguyên. Với diện tích tự nhiên lớn thứ hai cả nước
(15.536km2), tỉnh Gia Lai có 17 đơn vị hành chính cấp huyện, 222 đơn vị
hành chính cấp xã, trong đó có 07 xã thuộc 03 huyện có đường biên giới tiếp
giáp với nước Campuchia. Dân số của tỉnh có hơn 1,3 triệu người với 34 dân
tộc. Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 45% dân số, chủ yếu là dân tộc
Jrai và Bahnar.
Với diện tích rộng, dân số đông, cơ cấu dân cư đa dạng, một bộ phận
không nhỏ người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng khó khăn hoặc đặc biệt
khó khăn có trình độ học vấn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là một
trong những nguyên nhân khách quan làm cho tình hình tội phạm trên địa bàn
tỉnh diễn biến phức tạp và không ổn định. Thời gian gần đây, không nằm
ngoài xu thế chung của cả nước, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Gia Lai
có xu hướng diễn biến phức tạp và trẻ hóa về độ tuổi.
Người dưới 18 tuổi phạm tội là phạm trù có tính pháp lý và xã hội sâu
sắc. Xuất phát từ đặc điểm thể chất, tâm sinh lý, nhận thức chưa hoàn thiện
của người dưới 18 tuổi, một yêu cầu quan trọng đặt ra trong chính sách pháp
luật hình sự là phải xây dựng các nguyên tắc xác định trách nhiệm và xử lý
hình sự phù hợp với lứa tuổi, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật nhưng
cũng bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Mặc dù BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng về
nguyên tắc xử lý cũng như các quy định về xác định trách nhiệm hình sự và
áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng yêu cầu, đòi hỏi
thực tiễn đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, hệ thống
1



TAND tỉnh Gia Lai nói riêng trong việc áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội ngày càng khó khăn, nặng nề. Bên cạnh những kết quả tích
cực đã đạt được, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trong hệ thống TAND tỉnh Gia Lai vẫn còn xảy ra vi phạm, sai lầm như: việc
đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân người
dưới 18 tuổi phạm tội chưa chính xác; quan điểm áp dụng hình phạt chưa
thống nhất; việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc phạt cải
tạo không giam giữ chưa đúng pháp luật; áp dụng hình phạt còn nặng về răn
đe, trừng trị, chưa đề cao mục đích giáo dục, hướng thiện... Những tồn tại, hạn
chế này là nguyên nhân dẫn đến việc các bản án áp dụng hình phạt còn bị
kháng cáo, kháng nghị, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
dưới 18 tuổi phạm tội, làm suy giảm niềm tin của người dân vào tính nghiêm
minh của pháp luật.
Chính vì những lý do nêu trên, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
bàn tỉnh Gia Lai có ý nghĩa quan trọng trong quá trình xây dựng và áp dụng
pháp luật hình sự. Một mặt góp phần hoàn thiện, làm phong phú cơ sở lý luận
về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, mặt khác góp phần
nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trong thực tiễn xét xử của hệ thống TAND.
Mặc dù việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã
được các tác giả nghiên cứu trong nhiều công trình hoặc bài viết nhưng cho
đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ
thống về vấn đề này gắn với thực tiễn của tỉnh Gia Lai. Chính vì vậy, tác giả
chọn đề tài “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực
tiễn tỉnh Gia Lai” để làm Luận văn kết thúc chương trình đào tạo Thạc sĩ
Luật học của Học viện Khoa học xã hội.
2



2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng hình phạt nói chung và áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội nói riêng là vấn đề mới, có phạm vi nghiên cứu rộng. Một số
tác giả đã đề cập, nghiên cứu vấn đề này trong nhiều tài liệu, công trình với
góc độ và mức độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập một cách cụ thể về vấn đề áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội mà chỉ có các công trình nghiên cứu về áp dụng hình
phạt hoặc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: Luận
án Tiến sỹ Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam
hiện nay của Lê Xuân Thân (2014); Luận văn Thạc sỹ Áp dụng hình phạt theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình của Vũ
Quang Chung (2016); Luận văn Thạc sỹ Áp dụng hình phạt theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang của Hoàng Văn
Huyền (2016); Luận văn Thạc sỹ Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam của Đinh Tấn Long
(2017); Luận văn Thạc sỹ Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội từ thực tiễn huyện Bến Lức, tỉnh Long An của Nguyễn Thị Giang
(2017)...
Ngoài ra, vấn đề áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
còn được đề cập, phân tích ở các mức độ khác nhau trong các giáo trình, sách
chuyên khảo, sách bình luận của nhiều tác giả như: Giáo trình Luật Hình sự
Việt Nam phần chung, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2014, do GS.TS.
Võ Khánh Vinh chủ biên; Luật Hình sự so sánh, Nxb Chính trị quốc gia Sự
Thật, Hà Nội, năm 2018, của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn; Bình luận Bộ luật Hình sự
năm 2015 – Phần thứ nhất: Những quy định chung, Nxb. Thông tin và Truyền
thông, Hà Nội, năm 2018, của tác giả Đinh Văn Quế... Hoặc một số công trình
đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tư pháp hình sự đối với NCTN:
3



Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh
luật học, đăng trên Tạp chí TAND số 20/2004 của GS.TSKH. Lê Cảm, TS.
Đỗ Thị Phượng; Quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội, đăng trên Tạp
chí TAND số 6/2007 của Ths. Đinh Văn Quế…
Nhìn chung cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách độc lập, hệ thống ở mức độ Luận văn Thạc sĩ Luật học về áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Mặt khác, nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến các quy định của pháp luật hình sự về áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng cần được nghiên cứu toàn diện,
chuyên sâu hơn, gắn liền với thực tiễn của một địa phương cụ thể như tỉnh
Gia Lai mà tác giả lựa chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Gia Lai giai đoạn
2014 – 2019, Luận văn nêu lên các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn cần giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội như: khái niệm, đặc điểm của người dưới 18 tuổi
phạm tội; khái niệm, đặc điểm, chủ thể, nội dung, hình thức và ý nghĩa áp
dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; phân tích, làm rõ mối
quan hệ giữa quyết định hình phạt và áp dụng hình phạt và đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.

4



- Phân tích các quy định của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội gồm: các nguyên tắc xử lý, các hình phạt
được áp dụng và việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trong một số trường hợp cụ thể.
- Phân tích tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự có người dưới
18 tuổi phạm tội và đánh giá kết quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội tại tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014 – 2019; phân tích những vi
phạm, sai lầm, hạn chế trong việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trong hệ thống TAND tỉnh Gia Lai và nguyên nhân của những
vi phạm, sai lầm, hạn chế này.
- Phân tích các yêu cầu áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung của đề tài, Luận văn sử dụng
các quan điểm khoa học luật hình sự, lý luận về áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam được
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và kết quả áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014 – 2019.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý của ngành
Luật hình sự và tố tụng hình sự. Các số liệu nghiên cứu được thu thập từ kết
quả xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của hệ thống TAND tỉnh Gia
Lai trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2019.

5



5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người,
quyền công dân, quyền trẻ em, về tội phạm, hình phạt và đấu tranh phòng,
chống tội phạm… làm phương pháp luận nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, có mối
liên hệ logic và nằm trong một tổng thể thống nhất như: phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu vụ việc điển hình...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, có tính hệ
thống về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua
thực tiễn tại tỉnh Gia Lai; góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cơ sở lý
luận về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và nâng cao
năng lực áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của các chủ
thể có thẩm quyền.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn cũng góp phần làm phong phú thêm
cơ sở khoa học và lý luận của mục tiêu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ lý luận và
chuyên môn của tác giả để vận dụng hiệu quả vào thực tiễn công tác. Đồng
thời là tài liệu tham khảo có giá trị nhất định trong công tác nghiên cứu, giảng
6



dạy; tạo cơ sở thống nhất về mặt nhận thức trong áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội; góp phần bảo đảm tính công bằng, nghiêm minh
của pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền trẻ em.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được cơ cấu gồm ba chương như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
- Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự về áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Gia Lai.
- Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng có các phần cơ cấu chung tương tự các
Luận văn Thạc sỹ khác gồm: phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Độ tuổi là một trong những yếu tố quan trọng để xác định năng lực
nhận thức và điều khiển hành vi của một cá nhân khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật. Xuất phát từ điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, quan điểm tôn
giáo, đạo đức, truyền thống… khác nhau nên các quốc gia trên thế giới quy
định độ tuổi một cá nhân có đầy đủ năng lực nhận thức, điều khiển hành vi
cũng khác nhau. Ở Việt Nam, một cá nhân được xem là có đầy đủ khả năng
nhận thức, điều khiển hành vi khi đạt độ tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên [39].

Pháp luật Việt Nam hiện nay sử dụng nhiều thuật ngữ như “người chưa
thành niên”, “trẻ em”…để chỉ người dưới 18 tuổi và quy định đây là chủ thể
của nhiều loại quan hệ pháp luật. Mặc dù về mặt pháp lý còn tồn tại nhiều
thuật ngữ liên quan đến người dưới 18 tuổi tương ứng với các ngành luật khác
nhau nhưng pháp luật Việt Nam thống nhất xác định người chưa thành niên là
người chưa đủ 18 tuổi còn người đã thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên.
Theo Điều 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 của Liên
hiệp quốc thì “trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [9]. Mặc dù
pháp luật quốc tế cho phép các quốc gia tùy vào chính sách pháp luật của
mình mà quy định độ tuổi cụ thể để xác định người chưa thành niên nhưng
nhìn chung khái niệm “người chưa thành niên” và “trẻ em” là đồng nhất, được
sử dụng để thay thế cho nhau và đều dùng để chỉ những người dưới 18 tuổi.
Đây là độ tuổi để một cá nhân được xem là có khả năng nhận thức đầy đủ.
8


Như vậy, quy định của pháp luật Việt Nam về độ tuổi được xem là có đầy đủ
khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của cá nhân phù hợp với quy định của
pháp luật quốc tế.
Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã hình thành,
phát triển cùng với lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam và ngày càng được hoàn
thiện, phù hợp hơn với thực tiễn. Việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự không chỉ phản ánh chính sách hình sự của Nhà nước mà còn xuất phát từ
quan điểm: con người đến một độ tuổi nhất định mới có năng lực trách nhiệm
hình sự, hay nói cách khác là có năng lực nhận thức ý nghĩa xã hội và điều
khiển hành vi theo sự nhận thức của bản thân. Khi đó mới có thể buộc họ phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
Trước khi BLHS năm 2015 ra đời, pháp luật hình sự Việt Nam sử dụng
thuật ngữ “người chưa thành niên phạm tội”. Thuật ngữ này chưa thống nhất

với quy định của các ngành luật khác về “người chưa thành niên”. BLHS năm
2015 đã sử dụng thống nhất các thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” và “người
dưới 16 tuổi” để thay thế cho các thuật ngữ “người chưa thành niên” và “trẻ
em”. Đây là sự thay đổi cần thiết, phù hợp với quan điểm về người chưa thành
niên, tạo cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
nhận thức và áp dụng pháp luật một cách thống nhất.
Điều 8 của BLHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm pháp lý về tội phạm,
và độ tuổi là một trong những dấu hiệu quan trọng để xác định chủ thể của tội
phạm. Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
9


một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,
171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của Bộ luật này”.
Như vậy, BLHS năm 2015 đã phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tương ứng với hai nhóm tuổi là “từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi” và “từ đủ 16 tuổi trở lên”. Đồng thời liệt kê cụ thể 28 tội
danh mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự. Điều này có nghĩa pháp luật hình sự đã giới hạn cụ thể phạm vi chịu
trách nhiệm hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội.
Theo GS. TS. Võ Khánh Vinh, “người chưa thành niên phạm tội theo
quy định của Bộ luật hình sự là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm
tội” [38, tr.466]. Còn tác giả Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa pháp lý:
“Người dưới 18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực

hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm”
[10, tr.367]. Như vậy, các nhà khoa học pháp lý đều định nghĩa về người dưới
18 tuổi phạm tội gồm hai yếu tố: một là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
và hai là, người đó đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS.
Tham khảo các quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm pháp lý về
người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Người dưới 18 tuổi phạm tội là người tại thời điểm thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm đã đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi, không ở trong tình trạng mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình
và không thuộc một trong các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi phạm tội là chủ thể đặc biệt của tội phạm bởi họ
chưa có sự phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm sinh lý. Ở khía cạnh pháp lý,
10


họ là những người chưa có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Có thể nêu ra một số đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Thứ nhất, người dưới 18 tuổi phạm tội có đặc điểm thể chất và tâm
sinh lý chưa hoàn thiện:
Về sinh học, người dưới 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về
cấu trúc sinh học và thể chất của cơ thể. Hệ thần kinh trung ương của người
dưới 18 tuổi hoạt động chưa cân bằng khiến họ dễ rơi vào những cơn xúc
động mạnh hoặc nóng nảy vô cớ, dễ nảy sinh những hành vi thiếu kiềm chế.
Về tâm lý, người dưới 18 tuổi bắt đầu có xu hướng sinh hoạt độc lập,
dần hình thành thế giới quan cá nhân và đa số mong muốn tách mình ra khỏi
sự quản lý của gia đình, nhà trường.
Về nhân cách, người dưới 18 tuổi đang ở giai đoạn quan trọng của sự
định hình về tính cách và chịu ảnh hưởng lớn từ thế giới bên ngoài.

Về tình cảm, đây là giai đoạn người dưới 18 tuổi nảy sinh mối quan hệ
tình yêu khác giới, bắt đầu biểu lộ tình cảm và thể hiện cảm xúc, thái độ thân
mật hơn trong các mối quan hệ khác giới. Tuy nhiên do chưa phát triển hoàn
thiện về nhận thức và tâm lý nên họ gặp những khó khăn nhất định trong việc
duy trì các mối quan hệ này.
Về trí tuệ, người dưới 18 tuổi thích lập luận, suy diễn và nhìn nhận sự
vật, hiện tượng theo quan điểm riêng của bản thân. Trong giai đoạn này, người
dưới 18 tuổi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ điều kiện kinh tế, quan điểm văn
hóa, giáo dục của gia đình. Đây là giai đoạn gây nhiều lo ngại cho các bậc cha
mẹ và xã hội vì lứa tuổi này dễ gặp phải những khủng hoảng về nhân cách,
tâm lý. Mặc dù đã có sự trưởng thành nhất định nhưng do chưa có sự tích lũy
đầy đủ tri thức, kinh nghiệm sống nên trong nhiều trường hợp người dưới 18
tuổi không thể tự giải quyết ổn thỏa những mâu thuẫn cá nhân. Sự biến đổi
nhanh về thể chất, tâm sinh lý cùng với nhận thức còn hạn chế của
11


người dưới 18 tuổi dẫn đến việc họ dễ bị người khác lôi kéo, kích động.
Thứ hai, đa số người dưới 18 tuổi phạm tội thường thực hiện tội phạm
giản đơn, có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội hạn chế hơn rất nhiều so
với người trưởng thành:
Đa phần người dưới 18 tuổi phạm tội xuất phát từ sự bộc phát cảm xúc
hoặc do bị người khác rủ rê, lôi kéo, kích động. Tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện thường có tính chất giản đơn, mức độ nguy hiểm cho xã hội
không lớn, trong đó các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu tài sản chiếm tỉ lệ
lớn. Khi thực hiện tội phạm, người dưới 18 tuổi thường giữ vai trò đồng
phạm, cách thức thực hiện tội phạm cũng đơn giản, không có tính quyết liệt
đến cùng và không tinh vi, xảo quyệt như người trưởng thành.
Thứ ba, người dưới 18 tuổi phạm tội có khả năng cải tạo, giáo dục cao:
Người dưới 18 tuổi là những người dễ học hỏi, tiếp thu vì đang ở trong lứa

tuổi định hình, hoàn thiện về nhân cách. Do đó, việc giáo dục, cải tạo
người dưới 18 tuổi phạm tội thường thuận lợi hơn so với người trưởng thành.
Đây là một trong những cơ sở khoa học và lý luận để pháp luật hình sự xây
dựng nguyên tắc xử lý nhân đạo, hướng thiện đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Việc giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội thường gắn với nhiều
thiết chế xã hội như gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội... trong đó vai trò
của gia đình, bạn bè đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Người dưới 18 tuổi
phạm tội nếu nhận được sự quan tâm, động viên thay vì kỳ thị, xa lánh của
những người thân xung quanh thì khả năng giáo dục, cải tạo sẽ được cải thiện
rất nhiều. Xuất phát từ cơ sở này mà chính sách hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội đã nhấn mạnh việc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội “chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” [14].

12


1.2. Lý luận về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
1.2.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Áp dụng hình phạt là một hoạt động áp dụng pháp luật. Từ điển Luật
học định nghĩa áp dụng pháp luật là “hoạt động thực hiện pháp luật mang
tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền,
nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với
cá nhân, tổ chức cụ thể” [35, tr.15]. Còn theo GS.TS. Võ Khánh Vinh thì “áp
dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực của các cơ quan nhà nước

và của những người có chức vụ, quyền hạn được thực hiện nhằm mục đích
đưa ra các quyết định chuyên môn để giải quyết vấn đề xuất hiện, thay đổi
hoặc chấm dứt các quan hệ cụ thể” [36, tr.294].
Phân tích những quan điểm khoa học pháp lý trên, có thể nhận thấy
những dấu hiệu đặc trưng cơ bản của áp dụng pháp luật gồm: (1) là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước; (2) do các cơ quan nhà nước và những người
có chức vụ, quyền hạn thực hiện; (3) nhằm giải quyết các vấn đề liên quan
đến hoạt động của nhà nước, xã hội hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
một quan hệ cụ thể trong lĩnh vực nhất định của xã hội.
Áp dụng hình phạt mang những dấu hiệu đặc trưng của áp dụng pháp
luật. Trong đó, đặc trưng cơ bản để phân biệt áp dụng hình phạt với các hình
thức áp dụng pháp luật khác là chủ thể có thẩm quyền áp dụng hình phạt.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân
là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
13


quyền tư pháp” [19]. BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa quy định này như sau:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích
của người, pháp nhân thương mại đó” [14]. Như vậy, TAND là chủ thể duy
nhất có thẩm quyền áp dụng hình phạt.
Việc áp dụng hình phạt của TAND phải tuân thủ trình tự, thủ tục được
quy định trong BLTTHS. Cơ sở để áp dụng hình phạt là việc có một hành vi
nguy hiểm đáng kể cho xã hội xảy ra trên thực tế, bị CQĐT khởi tố, điều tra,
bị VKSND truy tố, bị TAND đưa ra xét xử và cuối cùng, bị HĐXX xác định
là tội phạm và quyết định xử phạt bằng một loại hình phạt, mức hình phạt cụ
thể theo các quy định của BLHS về trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Theo PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí thì “áp dụng hình phạt là việc nhận

thức và áp dụng pháp luật hình sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà
nước thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ
thể để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt
bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong
phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho
người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự” [3, tr.19]. Còn theo GS.
TS. Võ Khánh Vinh thì “quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung
của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức
hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ
tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc
tội” [38, tr.386].
Quan điểm của nhiều nhà khoa học pháp lý nổi tiếng ở Việt Nam xem
áp dụng hình phạt gồm hai giai đoạn là giai đoạn nhận thức pháp luật hình sự
14


và giai đoạn áp dụng pháp luật hình sự, và quyết định hình phạt với biểu hiện
là việc lựa chọn một loại hình phạt, mức hình phạt được quy định trong điều
luật hoặc khoản của điều luật cụ thể được quy định trong BLHS là một giai
đoạn hay nói cách khác là một nội dung quan trọng, có tính quyết định cuối
cùng của áp dụng hình phạt.
Từ những nghiên cứu, phân tích trên, tác giả rút ra khái niệm áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:
Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động
nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự mang tính quyền lực Nhà nước, thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân, do Thẩm phán, Hội thẩm trực tiếp thực
hiện thông qua việc xét xử theo trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS; nhằm
xác định sự thật khách quan của vụ án; trên cơ sở các nguyên tắc xử lý và ưu
tiên đặc biệt của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt để miễn hình phạt

hoặc lựa chọn loại hình phạt, mức hình phạt cụ thể, phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội.
1.2.1.2. Đặc điểm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Thứ nhất, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
hoạt động áp dụng pháp luật mang tính quyền lực Nhà nước và chỉ thuộc
thẩm quyền của Tòa án:
Tính quyền lực Nhà nước trong việc áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội thể hiện ở điểm đây là hoạt động mang tính đơn
phương, thể hiện ý chí một chiều của chủ thể được Nhà nước trao quyền, cụ
thể là Thẩm phán và Hội thẩm. Các chủ thể này áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua quyền lực được Nhà nước trao và nhân
danh Nhà nước thể hiện sự lên án đối với tội phạm, nhằm mục đích cải tạo,
15


giáo dục người phạm tội và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của xã hội.
Thứ hai, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung về quyết định hình
phạt, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn phải
tuân thủ các nguyên tắc xử lý hình sự riêng:
Khoản 1 Điều 3 của BLHS năm 2015 quy định 07 nguyên tắc chung
trong việc xử lý người phạm tội. Đối với người phạm tội là người dưới 18
tuổi, Điều 90 của BLHS năm 2015 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không
trái với quy định của Chương này”. Điều 91 của BLHS năm 2015 quy định
07 nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Như vậy
ngoài việc bảo đảm các nguyên tắc chung về quyết định hình phạt thì việc áp
dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn phải bảo đảm các

nguyên tắc xử lý riêng. Quy định này xuất phát từ việc người dưới 18 tuổi
phạm tội là những người có thể chất, tâm sinh lý chưa hoàn thiện, mặc dù là
chủ thể của tội phạm nhưng đây là chủ thể có sự hạn chế về khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi. Vì vậy, việc xử lý hình sự đối với họ cũng cần có
những quy định riêng để phù hợp với khả năng nhận thức của họ về tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội mà
mình gây ra.
Thứ ba, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
phải tuân thủ trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và được thể hiện bằng
bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án:
Giải quyết vụ án hình sự là một quá trình gồm nhiều giai đoạn, thuộc
thẩm quyền của nhiều cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
khác nhau. Trong mỗi giai đoạn, BLTTHS quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ
thể đối với các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng và trình tự, thủ tục để
16


các chủ thể này thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Việc áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc thẩm quyền Thẩm phán, Hội
thẩm và chỉ được thực hiện sau khi Thẩm phán, Hội thẩm đã xem xét, đánh
giá khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thực
hiện việc thẩm tra, tranh tụng công khai tại phiên tòa để xác định bị cáo có tội
hay không có tội; nếu có tội thì là tội gì, quy định tại điểm, khoản, điều nào
của BLHS và cần phải xử lý như thế nào để tương xứng với tính chất, mức độ
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội. Việc Tòa án ban hành bản án xác
định người dưới 18 tuổi phạm tội và quyết định loại, mức hình phạt cụ thể là
kết quả cuối cùng của quá trình giải quyết vụ án hình sự nên phụ thuộc rất lớn
vào tính hợp pháp, đúng pháp luật của hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của
các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong các giai đoạn tố tụng trước đó.
Đặc biệt, ngoài việc đảm bảo thủ tục tố tụng nói chung, Thẩm phán,

Hội thẩm còn phải tuân thủ thủ tục tố tụng được áp dụng riêng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Chương thứ XXVIII của BLTTHS năm
2015. Điều này có nghĩa rằng, song song với việc lựa chọn loại hình phạt,
mức hình phạt thì để ban hành bản án, quyết định áp dụng hình phạt có hiệu
lực pháp luật, Thẩm phán, Hội thẩm phải bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, nếu không sẽ bị xem là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng và bản án, quyết định đã ban hành có thể bị cấp có thẩm
quyền hủy, sửa. Trong thực tiễn, nhiều bản án áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội bị hủy để xét xử lại do có những vi phạm nghiêm trọng
về thủ tục tố tụng như: thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không có Hội
thẩm là giáo viên, cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu
biết tâm lý người dưới 18 tuổi; Tòa án không yêu cầu người bào chữa hoặc
không mời người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi tham gia phiên
tòa…
17


Thứ tư, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có
tình tùy nghi cao và nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ người phạm tội sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội:
BLHS năm 2015 quy định các nguyên tắc xử lý và hình phạt được áp
dụng đối với ngưới dưới 18 tuổi phạm tội. Hệ thống hình phạt có thể được áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gồm 04 hình phạt, được quy định
thành nhiều khung hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội và có sự phân hóa theo hai độ tuổi của người dưới 18 tuổi
phạm tội. Đồng thời, một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất
được BLHS năm 2015 tiếp tục ghi nhận tại khoản 1 Điều 91 là: “việc xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18
tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội”. Đây là nguyên tắc

xuyên suốt mà các chủ thể áp dụng hình phạt phải bảo đảm. Trong thực tiễn,
áp dụng hình phạt là hoạt động rất cần phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh
hoạt của Thẩm phán, Hội thẩm bởi mỗi hành vi phạm tội nảy sinh bởi những
nguyên nhân, điều kiện khác nhau, nhân thân người phạm tội cũng không
tương đồng… từ đó đặt ra yêu cầu áp dụng hình phạt không được rập khuôn,
cứng nhắc. Thẩm phán, Hội thẩm cần phải có tri thức và kinh nghiệm phong
phú, có bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp vững vàng để áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội đúng pháp luật.
1.2.2. Chủ thể, nội dung và hình thức áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
1.2.2.1. Chủ thể:
Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động chỉ
thuộc thẩm quyền của TAND, mà cụ thể và trực tiếp là của HĐXX hoặc của
Thẩm phán trong trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
18


BLTTHS năm 2015 xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án theo loại tội
phạm, theo lãnh thổ và quy định thành phần HĐXX theo tính chất nghiêm
trọng, phức tạp của vụ án. Theo đó, thành phần HĐXX sơ thẩm có thể gồm 01
Thẩm phán và 02 Hội thẩm hoặc gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm. Thành
phần HĐXX phúc thẩm gồm 03 Thẩm phán [16].
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp
vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” [19]. Cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can
thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” [14]. Như vậy, áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động độc lập của Thẩm phán,
Hội thẩm, không ai có quyền can thiệp, tác động vào hoạt động này. Trong

quá trình xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân [16].
1.2.2.2. Nội dung
Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động
nhận thức, áp dụng pháp luật hình sự mang tính quyền lực nhà nước, do Thẩm
phán, Hội thẩm trực tiếp thực hiện. Việc lựa chọn loại hình phạt, mức hình
phạt cụ thể để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là kết quả cuối
cùng của toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật theo trình tự, thủ tục được
BLTTHS quy định. Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
một hình thức biểu hiện nên có đầy đủ các nội dung của áp dụng pháp luật
hình sự, cụ thể:
Một là, Thẩm phán, Hội thẩm xác định, đánh giá các tình tiết của vụ án
liên quan đến việc áp dụng hình phạt gồm: các tình tiết thể hiện tính chất, mức
độ nguy hiểm đối với xã hội của tội phạm; các tình tiết nhân thân của
19


×