Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

Nghiên cứu đặc điểm hình thái một số cấu trúc não và nồng độ serotonin huyết tương, dịch não tủy ở bệnh nhân trầm cảm mức độ nặng (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 171 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN QUÂN Y

ĐỖ XUÂddddN TĨNH
ĐỖ XUÂN TĨNH

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI MỘT SỐ
CẤU TRÚC NÃO VÀ NỒNG ĐỘ SEROTONIN HUYẾT TƯƠNG,
DỊCH NÃO TỦY Ở BỆNH NHÂN TRẦM CẢM MỨC ĐỘ NẶNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HÀ NỘI - 2020


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
Danh mục hình
2 CI Confidence Interval..................................................................................3
2.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU........................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Phần viết tắt

Phần viết đầy đủ

1

BN

Bệnh nhân

2
3

CI
CLVT

4

CS

Cộng sự

5

DNT

Dịch não tủy

6


DSM-IV

Diagnostic and Statiscal manual of Mental disorders.

Confidence Interval
Cắt lớp vi tính

4th Edition
7

DSM-5

Diagnostic and Statiscal manual of Mental disorders.
5th Edition

8

ELISA

Enzym - Linked Immuno Sorbent Assay

9

HT

Huyết tương

10


5-HT

5-Hydroxytryptamin

11

ICD- 10

International Classification of Disseases and related
Health problems. 10th Edition

12

MAO

Mono-Amino-Oxydaza

13

MRI

Magnetic resonance imaging

14

OD

Optical Density

15


OR

Odds ratio

16

PET

Positron emission tomography

17

RLTC

Rối loạn trầm cảm

18

SPECT

Single photon emission computerized tomograph

19

SSRI

Selective Serotonin Reuptake Inhibitor

20


TCYTTG Tổ chức y tế thế giới

21

TPV

Tứ phân vị


DANH MỤC BẢNG
Bảng
Tên bảng
Trang
3.1. Lứa tuổi của bệnh nhân trầm cảm nặng............Error: Reference source not
found
3.2. Giới tính của các đối tượng nghiên cứu.............Error: Reference source not
found
3.3. Trình độ học vấn ở bệnh nhân trầm cảm nặng..................Error: Reference
source not found
3.4. Số lần vào viện của bệnh nhân trầm cảm nặng..................Error: Reference
source not found
3.5. Một số triệu chứng khởi phát của bệnh nhân trầm cảm nặng...........Error:
Reference source not found
3.6. Các triệu chứng chính của bệnh nhân trầm cảm nặng...................... Error:
Reference source not found
3.7. Các triệu chứng phổ biến của bệnh nhân trầm cảm nặng.................Error:
Reference source not found
3.8. Các biểu hiện rối loạn cảm giác và tri giác........Error: Reference source not
found

3.9. Các biểu hiện rối loạn hình thức tư duy............Error: Reference source not
found
3.10. Các biểu hiện rối loạn nội dung tư duy............Error: Reference source not
found
3.11. Các biểu hiện rối loạn lo âu.................... Error: Reference source not found
3.12. Các biểu hiện rối loạn chú ý và trí nhớ............Error: Reference source not
found
3.13. Các triệu chứng cơ thể............................Error: Reference source not found
3.14. Các biểu hiện rối loạn hành vi, tác phong........Error: Reference source not
found


3.15. Các phương thức tự sát......................... Error: Reference source not found
3.16. Thể tích nội sọ và thể tích thùy trán ở 2 nhóm nghiên cứu...............Error:
Reference source not found
3.17. Thể tích não thất ở 2 nhóm nghiên cứu...........Error: Reference source not
found
3.18. Thể tích hải mã ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu...............Error: Reference
source not found
3.19. Thể tích nhân đuôi ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu..........Error: Reference
source not found
3.20. Thể tích thể chai ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu............Error: Reference
source not found
3.21. Nồng độ serotonin huyết tương và dịch não tủy ở các nhóm nghiên
cứu.........................................................Error: Reference source not found
3.22. Nồng độ serotonin huyết tương và dịch não tủy ở hai giới của
nhóm nghiên cứu.................................. Error: Reference source not found
3.23. Nồng độ serotonin huyết tương và dịch não tủy theo nhóm tuổi ≥
45 ở nhóm bệnh nhân trầm cảm nặng...........Error: Reference source not
found

3.24. Tỷ lệ thay đổi nồng độ serotonin huyết tương, dịch não tủy có số
lần vào viện ≥ 2.....................................Error: Reference source not found
3.25. Tỷ lệ giữa thay đổi nồng độ serotonin huyết tương, dịch não tủy
theo thời gian mắc bệnh ≥ 2 năm..........Error: Reference source not found
3.26. Tỷ lệ thay đổi nồng độ serotonin huyết tương, dịch não tủy với
một số triệu chứng cảm xúc..................Error: Reference source not found
3.27. Nồng độ serotonin huyết tương và dịch não tủy ở nhóm bệnh nhân
trầm cảm nặng với một số dấu hiệu rối loạn nội dung tư duy........Error:
Reference source not found


3.28. Tỷ lệ thay đổi nồng độ Serotonin huyết tương, dịch não tủy với một
số dấu hiệu rối loạn nội dung tư duy..............Error: Reference source not
found
3.29. Nồng độ serotonin huyết tương và dịch não tủy ở nhóm bệnh nhân
trầm cảm nặng có loạn thần.................Error: Reference source not found
3.30. Tỷ thay đổi nồng độ serotonin huyết tương, dịch não tủy ở nhóm
bệnh nhân trầm cảm nặng có loạn thần và không loạn thần..........Error:
Reference source not found
3.31. Nồng độ serotonin huyết tương và dịch não tủy ở nhóm bệnh nhân
trầm cảm nặng có hành vi tự sát..........Error: Reference source not found
3.32. Tỷ lệ thay đổi nồng độ Serotonin huyết tương, dịch não tủy với
hành vi tự sát.........................................Error: Reference source not found
3.33. Liên quan hồi quy đa biến giữa giảm nồng độ serotonin huyết
tương với một số yếu tố tuổi, giới, số lần vào viện, thời gian mắc
bệnh ở bệnh nhân trầm cảm nặng........Error: Reference source not found
3.34. Liên quan hồi quy đa biến giữa giảm nồng độ serotonin huyết
tương với một số triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân trầm cảm
nặng.......................................................Error: Reference source not found
3.35. Liên quan hồi quy đa biến giữa giảm nồng độ serotonin dịch não

tủy với một số yếu tố tuổi, giới, số lần vào viện, thời gian mắc
bệnh ở bệnh nhân trầm cảm nặng........Error: Reference source not found
3.36. Liên quan hồi quy đa biến giữa giảm nồng độ serotonin dịch não
tủy với một số triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân trầm cảm nặng
...............................................................Error: Reference source not found
3.37. Liên quan hồi quy đa biến giữa triệu chứng hoang tưởng...............Error:
Reference source not found
tự buộc tội với thể tích một số cấu trúc não trên MRI ở bệnh nhân.........Error:
Reference source not found


trầm cảm nặng................................................Error: Reference source not found
3.38. Liên quan hồi quy đa biến giữa ý định tự sát với thể tích một số
cấu trúc não trên MRI ở bệnh nhân trầm cảm nặng......................Error:
Reference source not found
3.39. Liên quan hồi quy đa biến giữa hành vi tự sát với thể tích một số
cấu trúc não trên MRI ở bệnh nhân trầm cảm nặng......................Error:
Reference source not found
3.40. Liên quan hồi quy đa biến giữa ý tưởng bất hạnh với thể tích một
số cấu trúc não trên MRI ở bệnh nhân trầm cảm nặng.................Error:
Reference source not found
3.41. Liên quan hồi quy đa biến giữa triệu chứng loạn thần với thể tích
một số cấu trúc não trên MRI ở bệnh nhân trầm cảm nặng..........Error:
Reference source not found
3.42. Liên quan hồi quy đa biến giữa thời gian mắc bệnh > 2 năm với
thể tích một số cấu trúc não trên MRI ở bệnh nhân trầm cảm
nặng.......................................................Error: Reference source not found
3.43. Liên quan hồi quy đa biến giữa giảm nồng độ serotonin HT với
một số thể tích não trên MRI ở bệnh nhân trầm cảm nặng...........Error:
Reference source not found

3.44. Liên quan hồi quy đa biến giữa giảm nồng độ serotonin DNT với
các thể tích não trên MRI ở bệnh nhân trầm cảm nặng.................Error:
Reference source not found


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
3.1. Nghề nghiệp của bệnh nhân trầm cảm nặng...........Error: Reference source
not found
3.2. Thời gian mắc bệnh của bệnh nhân trầm cảm nặng..........Error: Reference
source not found
3.3. Tỷ lệ bệnh nhân trầm cảm nặng có thời gian mắc bệnh > 2 năm......Error:
Reference source not found
3.4. Giảm nồng độ Serotonin huyết tương và dịch não tủy ở nhóm bệnh
nhân trầm cảm nặng...............................Error: Reference source not found
3.5. Phân loại giảm serotonin dịch não tủy ở nhóm bệnh nhân trầm cảm
nặng.........................................................Error: Reference source not found
3.6. Tỷ lệ giảm nồng độ serotonin huyết tương ≤ 80 ng/ml ở nhóm bệnh
nhân trầm cảm nặng so với nhóm chứng.........Error: Reference source not
found
3.7. Tỷ lệ giảm nồng độ serotonin dịch não tủy < 3,48ng/ml ở nhóm bệnh
nhân trầm cảm nặng so với nhóm chứng.........Error: Reference source not
found
3.8. Tỷ lệ giảm nồng độ serotonin dịch não tủy ≤ 1,6 ng/ml ở nhóm bệnh
nhân trầm cảm nặng so với nhóm chứng.........Error: Reference source not
found



DANH MỤC HÌNH
Hình

Tên hình

Trang

1.1. Công thức hoá học của serotonin.............Error: Reference source not found
1.2. Sự tổng hợp và ức chế serotonin..............Error: Reference source not found
2.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu đặc điểm hình thái một số cấu trúc não bộ
và nồng độ serotonin trong bệnh trầm cảm...........Error: Reference source
not found
2.2. Hình ảnh MRI sọ não theo ba chiều trên phần mềm Mango.............Error:
Reference source not found
2.3. Các bước xử lý dữ liệu trên phần mềm FreeSurfer 6.0......Error: Reference
source not found
2.4. Nguyên lý xét nghiệm định lượng serotonin máu bằng phương pháp
ELISA..................................................... Error: Reference source not found
2.5. Hệ thống máy tính và đầu đọc ELISA định lượng serotonin Model
ELx800, BIOTEK INSTRUMENTS, INC - MỸ..............Error: Reference
source not found


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn trầm cảm là một trạng thái bệnh lý tâm thần nội sinh phổ biến,
các triệu chứng lâm sàng đa dạng, phong phú ảnh hưởng đến sức khỏe và khả
năng lao động của người bệnh. Cho đến nay chẩn đoán rối loạn trầm cảm chủ
yếu vẫn dựa vào đặc tính của một loạt triệu chứng từ những thay đổi tâm

trạng và hành vi của người bệnh.
Theo Sadock B.J. và cộng sự (2007) trầm cảm là bệnh lý tâm thần phổ
biến nhất, chiếm 5-17% dân số (trung bình là 12%), trong đó trầm cảm mức
độ nặng chiếm 30% số bệnh nhân trầm cảm nói chung, có 50% là trầm cảm
nặng có loạn thần. Bệnh thường gặp ở lứa tuổi từ 18 đến 45 tuổi và nữ nhiều
gấp 2-3 lần so với nam giới [1]. Các bệnh nhân bị trầm cảm nặng thường phải
điều trị nội trú tại các bệnh viện chuyên khoa tâm thần. Theo Tổ chức Y tế thế
giới, rối loạn trầm cảm là nguyên nhân gây mất khả năng lao động đứng hàng
thứ hai vào năm 2020 và đứng đầu vào năm 2030 [2], [3], [4].
Hiện nay, có nhiều giả thiết về cơ chế bệnh sinh của rối loạn trầm cảm,
nổi bật là sự thay đổi hình thái một số cấu trúc não và sự thiếu hụt chất dẫn
truyền thần kinh serotonin trong khe sinap của não, sự thiếu hụt này được coi
là nguyên nhân dẫn đến trầm cảm [5], [6], [7]. Nhiều công trình nghiên cứu
đã chứng minh có sự giảm nồng độ của serotonin trong dịch não tủy của bệnh
nhân trầm cảm thậm chí giảm rất thấp, chỉ bằng khoảng 30% so với người
bình thường và tương ứng với mức độ nặng hay nhẹ của các bệnh nhân trầm
cảm [8], [9], [10]. Mặt khác, sự thiếu hụt serotonin trong não được coi là hậu
quả của rối loạn gen di truyền. Đến nay, người ta đã xác định được nhiều gen
di truyền có liên quan đến trầm cảm, nhưng chính xác là gen nào thì vẫn chưa
được các nhà nghiên cứu khẳng định [5].
Sadock B.J. và cộng sự (2015) cho rằng trên cơ sở rối loạn gen di
truyền, trầm cảm sẽ khởi phát khi gặp yếu tố môi trường thuận lợi. Khi trầm


2
cảm xuất hiện, các hậu quả của nó rất đa dạng, thể hiện trên sự thiếu hụt
serotonin, biến đổi hình ảnh và chức năng các vùng não [11].
Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về cơ chế bệnh sinh rối loạn trầm
cảm [12], [13], [14]. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về trầm cảm có nhiều chủ
yếu nghiên cứu về triệu chứng lâm sàng, dịch tễ học, có một số tác giả đề cập

đến bệnh sinh, điều trị và nồng độ serotonin huyết tương của các bệnh nhân
rối loạn trầm cảm nhưng chưa có nghiên cứu nào về hình thái một số cấu trúc
não và sự thay đổi nồng độ serotonin trong dịch não tủy của người bệnh [8],
[15]. Nghiên cứu các triệu chứng lâm sàng của những bệnh nhân trầm cảm
nặng, phân tích đặc điểm hình thái một số cấu trúc não, xác định nồng độ
serotonin huyết tương, dịch não tủy và mối liên quan của chúng với các triệu
chứng lâm sàng ở bệnh nhân rối loạn trầm cảm là rất cần thiết để hiểu về cơ
chế bệnh sinh của bệnh này, từ đó giúp hỗ trợ chẩn đoán và đánh giá kết quả
điều trị bệnh.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên
cứu đặc điểm hình thái một số cấu trúc não và nồng độ serotonin huyết
tương, dịch não tủy ở bệnh nhân trầm cảm mức độ nặng” nhằm 3 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân trầm cảm mức độ nặng.
2. Phân tích đặc điểm hình thái một số cấu trúc não và nồng độ
serotonin huyết tương, dịch não tủy ở bệnh nhân trầm cảm mức độ nặng.
3. Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ serotonin huyết tương, dịch
não tủy và hình thái một số cấu trúc não với lâm sàng trên bệnh nhân trầm
cảm nặng.


3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỀ TRẦM CẢM
1.1.1. Khái niệm về rối loạn trầm cảm và trầm cảm nặng
Rối loạn trầm cảm (RLTC) được mô tả đặc trưng bởi trạng thái buồn
rầu, đau khổ. Người bệnh cảm thấy tương lai ảm đạm, lời nói chậm chạp, liên
tưởng khó khăn, cảm giác mệt mỏi, mất dần các thích thú, giảm sút lòng tự
tin, ý nghĩ không xứng đáng, giảm khả năng chú ý, giảm vận động và có thể
xuất hiện các triệu chứng loạn thần như hoang tưởng, ảo giác. RLTC nặng

thường kèm theo rối loạn trầm trọng các chức năng sinh học như mất ngủ,
mệt mỏi, chán ăn. Khi bệnh nặng bệnh nhân (BN) có thể từ chối ăn dẫn đến
tình trạng suy kiệt do rối loạn nước và điện giải [8], [16], [17].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) năm 1992, biểu hiện lâm sàng
của trầm cảm không chỉ bằng các triệu chứng đặc trưng về khí sắc mà thường
kèm theo nhiều triệu chứng về cơ thể như của hệ tiêu hoá, tim mạch, hệ thần
kinh, nội tiết,... Đặc biệt RLTC nặng là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến nguy
cơ tự sát [18], [19].
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD-10 giai đoạn trầm cảm cần kéo dài
ít nhất 2 tuần, trong đó phải có ít nhất là một trong hai triệu chứng chủ yếu là
khí sắc giảm hoặc là mất hứng thú và sở thích cho hầu hết các hoạt động.
Đồng thời, BN cần biểu hiện ít nhất 4 triệu chứng trong các triệu chứng sau:
thay đổi cảm giác ngon miệng hoặc khối lượng cơ thể, rối loạn giấc ngủ và
hoạt động tâm thần vận động, giảm sút năng lượng, cảm giác vô dụng hoặc tội
lỗi, khó suy nghĩ, tập trung hoặc ra quyết định, ý nghĩ tái diễn về cái chết hoặc
ý nghĩ, kế hoạch và hành vi tự sát [18].
Để xác định một giai đoạn trầm cảm chủ yếu, Hội Tâm thần học Hoa
Kỳ năm 2013 (DSM-5) yêu cầu phải có một triệu chứng cần được biểu hiện


4
gần đây một cách rõ ràng khi so sánh với trạng thái trước khi bị bệnh của BN.
Các triệu chứng cần xuất hiện phần lớn thời gian trong ngày, gần như hàng
ngày trong thời gian ít nhất là 2 tuần liên tiếp. Giai đoạn trầm cảm phối hợp
với biểu hiện lâm sàng rõ ràng trong lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp hoặc trong
các lĩnh vực quan trọng khác. Ở một số BN có các giai đoạn nhẹ, chức năng
còn ở phạm vi bình thường, nhưng cần một sự cố gắng đáng kể [20].
Theo 2 hệ thống phân loại bệnh tâm thần phổ biến hiện nay là bảng
phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 (ICD-10) và DSM-5 trầm cảm
được chia ra làm 3 mức độ: nhẹ, vừa và nặng. Trầm cảm nặng được chia ra

làm hai loại là trầm cảm nặng có loạn thần và trầm cảm nặng không loạn thần.
Các triệu chứng loạn thần trong trầm cảm bao gồm các hoang tưởng và ảo
giác. Tuy nhiên, theo Kaplan H.I. và cs (1994) triệu chứng hay gặp hơn cả là
hoang tưởng (chiếm tới 90%), vì vậy trầm cảm có loạn thần còn được gọi là
trầm cảm hoang tưởng. Theo ICD-10 trong giai đoạn trầm cảm nặng, người
bệnh thường khó tiếp tục được công việc xã hội và nghề nghiệp hoặc công
việc gia đình. Theo DSM-5 BN trầm cảm nặng mất hoàn toàn khả năng lao
động của mình [18], [20], [21].
1.1.2. Dịch tễ học của rối loạn trầm cảm
Trầm cảm là bệnh lý phổ biến trên thế giới và tỷ lệ mắc ngày càng gia
tăng. Các nghiên cứu về rối loạn trầm cảm đã cho thấy nguy cơ bị bệnh này
trong toàn bộ cuộc đời là 10%-25% ở nữ giới và 5%-12% ở nam giới [5].
Theo DSM-5 tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm trong 12 tháng ở Mỹ là 7% dân
số và 1,5% dân số Mỹ có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán cho trầm cảm mạn tính. Tỷ
lệ loạn khí sắc ở Mỹ là 0,5% dân số [20].
Theo Sadock B.J. và cs (2007) RLTC gặp ở 10% tổng số BN đi khám
bệnh và chiếm 15% tổng số các BN phải nằm điều trị [1]. Theo một nghiên
cứu trên đối tượng phụ nữ tuổi 45-65, có tỷ lệ mắc trầm cảm là 25%, nghĩa là
cứ 4 người ở độ tuổi này thì có 1 người đang bị trầm cảm [5].


5
Trầm cảm khác nhau ở nhiều đặc điểm, khác nhau theo giới tính, theo
lứa tuổi, theo trình độ văn hoá, theo nghề nghiệp, khác nhau theo nền kinh tế
và khu vực địa lý [8], [19].
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm
Biểu hiện lâm sàng của RLTC nói chung và đặc biệt là RLTC ở mức độ
nặng nói riêng rất đa dạng và phong phú, biểu hiện rối loạn ở hầu hết các
chức năng thần kinh cấp cao của con người như cảm xúc, tri giác, tư duy, trí
nhớ, chú ý, hành vi... Cả 2 hệ thống phân loại bệnh tâm thần phổ biến nhất

hiện nay là ICD-10 và DSM-5 đều có sự tương đối thống nhất về các triệu
chứng lâm sàng của RLTC [18], [20].
1.1.3.1. Khí sắc giảm
Khí sắc giảm biểu hiện nét mặt của BN đơn điệu, luôn buồn bã, các nếp
nhăn giảm nhiều. Tuy nhiên, triệu chứng này không hoàn toàn giống nhau ở
các nhóm BN khác nhau về độ tuổi [5], [21].
Theo Kaplan H.I. và cs (1994) ở tuổi vị thành niên và thanh niên, khí
sắc có thể không giảm mà lại là kích thích, dễ nổi cáu với các kích thích rất
nhỏ từ bên ngoài [22]. Sadock B.J. và cs (2007) cho rằng ở người cao tuổi,
khi sắc giảm là triệu chứng rất phổ biến, thường đi kèm với cảm xúc buồn
rầu, mặc cảm tội lỗi và ý tưởng nghi bệnh [1].
Bàn luận về vai trò của triệu chứng này trong bệnh cảnh lâm sàng của
các rối loạn trầm cảm, Dan J.S. và cs (2006) cho rằng đây là triệu chứng quan
trọng nhất của bệnh trầm cảm. Các tác giả còn cho rằng hầu hết BN trầm cảm
đều có triệu chứng này [23].
1.1.3.2. Mất hứng thú và sở thích
Mất hứng thú hoặc sở thích hầu như luôn xuất hiện. Cùng với triệu
chứng giảm khí sắc, mất hứng thú và sở thích là triệu chứng chính trong trầm
cảm trong cả hai hệ thống phân loại bệnh ICD-10 và DSM-5.


6
Người bệnh giảm hoặc mất hoàn toàn các hứng thú và sở thích mà BN
đã có trước đây [5], [24], [25].
Tầm quan trọng của triệu chứng mất hứng thú và sở thích trong trầm
cảm được các tác giả đánh giá rất cao. Theo Dan J.S. và cs (2006) triệu chứng
này có tầm quan trọng chỉ sau triệu chứng giảm khí sắc [23]. Đa số BN cho
rằng họ đã mất hết các sở thích vốn có, các sở thích trước đây bị ảnh hưởng
nặng nề, kể cả ham muốn tình dục [19], [24], [25].
Kaplan H.I. và cs (1994) đánh giá triệu chứng mất hứng thú và sở thích

rất hay gặp, nhưng tần số thì ít hơn triệu chứng giảm khí sắc [22]. Trong ICD10F và DSM-5 mất hứng thú và sở thích được cho là triệu chứng chính và rất
có giá trị trong chẩn đoán rối loạn trầm cảm [18], [20].
1.1.3.3. Cảm giác mệt mỏi và mất năng lượng
Đây là triệu chứng rất phổ biến trong RLTC. Người bệnh biểu hiện
trạng thái ức chế tâm lý vận động, giảm hoạt động, cảm giác mệt mỏi, dễ mệt
mỏi dù chỉ sau một cố gắng rất nhỏ. BN nằm, ngồi một chỗ, không muốn và
không thích tham gia bất kể công việc gì, ngồi hoặc nằm lâu ở một tư thế, đầu
cúi gằm, vai thõng,… Đa số BN than phiền mệt mỏi mà không có một nguyên
nhân nào, thậm chí chỉ với một cố gắng tối thiểu rất dễ làm cho họ có cảm
giác kiệt sức [19], [25].
Theo Sadock B.J. và cs (2007) cảm giác mệt mỏi thường tăng lên vào
buổi sáng và giảm đi một chút vào buổi chiều. Tuy nhiên, một số BN lại có
triệu chứng mệt mỏi về buổi chiều. Buổi sáng, họ cảm thấy rất thỏa mái, dễ
chịu, nhưng về chiều tối thì họ lại than phiền mệt mỏi và có cảm giác mất
năng lượng. Triệu chứng mệt mỏi về buổi chiều hay đi kèm với triệu chứng
ngủ nhiều và ăn nhiều [1]. Một số trường hợp (thường lứa tuổi thanh thiếu
niên) có biểu hiện kích động tâm thần vận động, thể hiện bằng cơn cáu gắt,
xung động kích động vô cớ hoặc bồn chồn đi lại, đứng ngồi không yên một
chỗ [5], [26].


7
1.1.3.4. Giảm sự tập trung và chú ý
Đây là triệu chứng thường gặp khiến BN rất khó chịu và phải đi khám
bệnh. BN than phiền khó suy nghĩ, khó tập trung chú ý vào một việc gì đó. Ở
mức độ nhẹ, chúng có thể xuất hiện dưới dạng phân tán chú ý nhẹ hoặc khó
nhớ, BN than phiền không thể đọc xong một bài báo ngắn, không thể nghe hết
một bài hát, không thể xem hết một chương trình ti vi mà BN trước đây vẫn
quan tâm [19], [27].
Theo Sadock B.J. và cs (2007) triệu chứng khó tập trung chú ý dẫn tới

khả năng ghi nhớ của BN giảm sút rất nhiều. Điều này lý giải tại sao BN trầm
cảm lại có biểu hiện giảm sút trí nhớ gần [1]. Theo Bùi Quang Huy (2008)
triệu chứng giảm khả năng tập trung chú ý biểu hiện rất rõ ở nhóm BN là học
sinh, sinh viên. Các BN này có kết quả học tập rất kém do họ không có khả
năng chú ý và ghi nhớ [19].
Rối loạn trí nhớ: giai đoạn trầm cảm người bệnh thường là giảm trí nhớ
gần, người bệnh có thể quên mình vừa làm gì, trong khi đó trí nhớ xa thì vẫn
còn duy trì tương đối tốt trong một thời gian dài. Trẻ em thường giảm sút sự
tập trung chú ý, còn ở người cao tuổi khó nhớ có thể là than phiền chính, làm
dễ nhầm với mất trí. Khi trầm cảm được điều trị thành công thì vấn đề trí nhớ
được giải quyết hoàn toàn [26].
Giảm khả năng tập trung chú ý ở BN trầm cảm là triệu chứng xuất hiện
sớm và cũng mất đi muộn nhất so với các triệu chứng khác. Rối loạn chú ý là
nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng rối loạn trí nhớ ở BN trầm cảm. BN
trầm cảm thường biểu hiện rối loạn trí nhớ gần và đãng trí, các rối loạn trí nhớ
cũng thường kéo dài dai dẳng và mất đi muộn hơn các triệu chứng khác [28],
[29].
1.1.3.5. Mất tự tin, cảm thấy vô dụng hoặc tội lỗi
BN thường có biểu hiện giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin, nghĩ mình
thất bại trong mọi công việc, hay lưỡng lự, khó khăn hoặc mất khả năng ra


8
quyết định dù chỉ là việc đơn giản [21]. Họ luôn cho mình là kẻ vô dụng,
không làm được việc gì, họ luôn nghĩ mình đã làm hỏng mọi việc và đã trở
thành gánh nặng cho gia đình, cơ quan và cho xã hội. BN mặc cảm tội lỗi liên
quan đến các sai lầm nhỏ của mình trước đây, nhiều BN giải thích một cách
sai lầm các hiện tượng thông thường hàng ngày như là một khiếm khuyết của
bản thân họ [24], [30].
Các tác giả khác như Sadock B.J. và cs (2007); Dan J.S. và cs (2006)

khẳng định có mối liên quan giữa triệu chứng cảm thấy vô dụng, tội lỗi với ý
tưởng và hành vi tự sát. Các tác giả này cho rằng cảm giác vô dụng tội lỗi của
BN càng nhiều thì ý định tự sát càng mãnh liệt [1], [23].
Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi có thể mạnh lên thành hoang tưởng.
Chính cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi của BN khiến BN muốn nhanh chóng kết
thúc cuộc sống của mình bằng cách tự sát và từ chối điều trị [5], [23], [31].
1.1.3.6. Nhìn tương lai ảm đạm và bi quan
Đây là một triệu chứng thường gặp trong RLTC, BN luôn có ý nghĩ ảm
đạm về tương lai. Họ cho mình là một chuỗi thất bại, là nguyên nhân gây ra
đau khổ cho gia đình và cho xã hội. Ý nghĩ này tương đối bền vững trong một
thời gian dài. BN luôn mặc cảm về các lỗi lầm trước đây của mình dù chỉ là
lỗi nhỏ, sống thu mình, tự ti với tất cả mọi người xung quanh.
Theo Kaplan H.I. và cs (1994) BN luôn bi quan về tương lai của bản
thân, của gia đình và xã hội. Tác giả cho rằng triệu chứng này liên quan chặt
chẽ đến các triệu chứng tự ti, mặc cảm tội lỗi [22]. BN trầm cảm nặng trải
nghiệm bi quan, sự bấp bênh trong lòng tin vào bản thân và thế giới xung
quanh, các thất bại đã mắc phải trước đây,… các triệu chứng này đã được
khuếch đại lên dẫn tới suy nghĩ sai lệch ý nghĩa của các sự kiện hiện tại [20],
[21], [30].


9
1.1.3.7. Mất ngủ
Triệu chứng mất ngủ là lý do chủ yếu khiến BN phải đi khám bệnh.
Theo DSM-5 BN mất ngủ được định nghĩa nếu ngủ ít hơn bình thường trên 2
giờ mỗi ngày [20]. Theo Kaplan H.I. và cs (1994) mất ngủ thường là biểu
hiện ban đầu của trầm cảm [22].
Trong trầm cảm nặng, BN có thể gặp mất ngủ đầu giấc, giữa giấc hoặc
cuối giấc. Mất ngủ đầu giấc hay gặp ở nhóm BN trẻ tuổi, còn mất ngủ cuối
giấc thì lại hay gặp ở nhóm BN cao tuổi. Mất ngủ là triệu chứng làm cho BN

khó chịu rất nhiều, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống lao động và sinh
hoạt của BN, làm giảm khả năng lao động và tăng mệt mỏi [20], [30].
Sadock B.J. và cs (2007) mất ngủ gặp ở 95% số BN trầm cảm. Tuy
nhiên, 5% số BN còn lại, người ta lại thấy họ ngủ quá nhiều [1], [5].
1.1.3.8. Mất cảm giác ngon miệng, ăn ít, sút cân
Triệu chứng mất cảm giác ngon miệng là khá phổ biến trong RLTC. BN
không có cảm giác ngon miệng nên không muốn ăn. Vì thế, họ ăn rất ít và dẫn
đến sút cân nhanh chóng. Một số trường hợp BN còn nhịn ăn hoàn toàn. BN
thường sút cân nhanh chóng, khi khám bệnh họ thường than phiền mình bị
mất cảm giác ngon miệng, họ không thấy đói mặc dù không ăn gì, đa số
trường hợp BN cảm thấy bữa ăn của họ là gánh nặng [19], [23].
Theo Kaplan H.I. và cs (1994) BN sút trên 0,5kg/tuần hoặc 1kg/tháng
mà không thực hiện chế độ ăn kiêng thì được coi là sút cân. Ở trẻ em biểu
hiện sút cân hoặc không tăng trọng lượng theo lứa tuổi bình thường [22].
1.1.3.9. Ý tưởng hoặc hành vi tự sát
Theo Kaplan H.I và cộng sự (1994) có đến 75% các trường hợp tự sát
có nguyên nhân là trầm cảm chủ yếu. Khi phát hiện ra ý nghĩ tự sát ở bệnh
nhân trầm cảm thì phải điều trị nội trú trong các bệnh viện chuyên khoa tâm
thần. Các tác giả nghiên cứu ý tưởng và hành vi tự sát trên 02 nhóm bệnh
nhân trầm cảm nặng có triệu chứng loạn thần loạn thần và không có triệu


10
chứng loạn thần, kết quả không nhận thấy có sự khác biệt nào về ý tưởng và
hành vi tự sát ở 02 nhóm bệnh nhân này [22].
Sadock B.J. và cs (2007) 15% số BN trầm cảm sẽ chết do tự sát và
RLTC là nguyên nhân hàng đầu của việc gây ra tự sát. Các tác giả nhấn mạnh
ý tưởng và hành vi tự sát có thể gặp trong RLTC ở tất cả các mức độ nhẹ, vừa
và nặng [1].
Bùi Quang Huy (2008) cho rằng ý tưởng và hành vi tự sát phổ biến hơn

ở RLTC mức độ nặng so với mức độ vừa và mức độ nhẹ [19].
Ở người cao tuổi bị RLTC tỷ lệ tự sát cao hơn so với ở người trẻ tuổi,
phương thức tự sát có khuynh hướng bạo lực hơn. Nguy cơ tự sát cao nhất là
những người đàn ông cao tuổi thiếu sự giúp đỡ của gia đình, xã hội và bị mất
ngủ hay các bệnh lý nội khoa mạn tính kết hợp [8].
Bàn luận về quản lý và điều trị cho BN trầm cảm có ý tưởng và hành vi
tự sát, các tác giả đều khẳng định phải điều trị nội trú tại bệnh viện chuyên
khoa tâm thần và điều trị bằng liệu pháp sốc điện có hiệu quả rõ rệt sớm cắt
được triệu chứng này [5], [21], [25].
Theo Hasin D.S. và cs (2005) có 40-70% số người tự sát là do trầm
cảm, ở Australia tỷ lệ tự sát do trầm cảm là 70% và ở những lần tái phát sau
các BN này lại có các hành vi tự sát [37]. Sadock B.J. và cs (2007) có tới 60%
BN trầm cảm nặng có hành vi tự sát, nguy cơ đặc biệt cao nếu BN có triệu
chứng tuyệt vọng rõ rệt hoặc có trầm cảm phối hợp với rối loạn nhân cách thể
ranh giới [1].
1.1.3.10. Các triệu chứng cơ thể
Các triệu chứng cơ thể phổ biến ở BN trầm cảm nói chung và trầm cảm
nặng nói riêng. Chính các triệu chứng cơ thể này đã làm cho RLTC nặng hơn
và khó khăn hơn cho việc chăm sóc và điều trị [30].
Triệu chứng cơ thể trong trầm cảm nặng nổi bật là các rối loạn thần
kinh thực vật nội tạng, các rối loạn và tim mạch, từ đó dẫn đến các rối loạn


11
tiêu hoá và các rối loạn cảm giác đa dạng khác nhau, khó phân biệt với các
bệnh nội khoa khác [32], [33].
Theo Kaplan H.I. và cs (1994) triệu chứng cơ thể phổ biến nhất trong
rối loạn trầm cảm là các triệu chứng đau. BN trầm cảm thường có đau đầu,
đau khớp, đau bụng, đau tức ngực…[22]. Một số tác giả khác như Ngô Ngọc
Tản và cs (2005), Bùi Quang Huy (2008) mô tả các cảm giác đau này có tính

chất mơ hồ, BN không thể xác định rõ ràng ở một vị trí nào đó, lúc thì cảm
giác đau chỗ này, lúc thì thấy đau ở chỗ khác [19], [34].
Ngoài ra, BN trầm cảm thường có biểu hiện rối loạn thần kinh thực vật
như đánh trống ngực, mạch nhanh, ra nhiều mồ hôi, có cảm giác nóng bừng
hoặc lạnh buốt, huyết áp dao động,... Một số BN lại có biểu hiện đi ngoài táo
bón hoặc đi lỏng thất thường [24], [35], [36].
1.1.3.11. Đặc điểm triệu chứng loạn thần của rối loạn trầm cảm mức độ
nặng
Cả hai hệ thống phân loại bệnh là ICD-10 và DSM-5 đều chia trầm cảm
mức độ nặng thành trầm cảm nặng có loạn thần và trầm cảm nặng không có
loạn thần [18], [20]. Theo tác giả Sadock B.J. và cs (2007) triệu chứng loạn
thần trong trầm cảm chủ yếu là hoang tưởng (chiếm đến 85% số triệu chứng
loạn thần), vì thế trầm cảm có loạn thần cũng gọi là trầm cảm có hoang tưởng
[1].
ICD-10F thừa nhận sự tồn tại của các ảo giác trong RLTC có triệu
chứng loạn thần. Đó là các ảo thanh thô sơ, ảo thanh giả bình phẩm...[18].
Nhưng theo Sadock B.J. và cs (2007) hầu như chỉ gặp ảo thanh thô sơ trong
lâm sàng. Điều này có nghĩa là vai trò của ảo thanh trong RLTC có triệu
chứng loạn thần là mờ nhạt [1].
Cả 2 hệ thống phân loại là ICD-10F và DSM-5 đều căn cứ vào loại
hoang tưởng trong trầm cảm nặng có triệu chứng loạn thần mà chia chúng ra
thành 2 nhóm [18], [20]:


12
- Trầm cảm nặng có loạn thần phù hợp với khí sắc, BN có hoang tưởng
nghi bệnh, hoang tưởng tự buộc tội, hoang tưởng hư vô...
- Trầm cảm nặng có loạn thần không phù hợp với khí sắc, BN có hoang
tưởng bị hại, bị theo dõi, bị chi phối...
Sự phân loại trầm cảm nặng có triệu chứng loạn thần thành 2 loại như

trên có ý nghĩa tiên lượng bệnh. Theo Sadock B.J. và cs (2007) RLTC nặng có
triệu chứng loạn thần không phù hợp với khí sắc có tiên lượng xấu hơn nhiều
so với RLTC nặng có triệu chứng loạn thần phù hợp với khí sắc [1].
1.1.3.12. Các thể lâm sàng của rối loạn trầm cảm mức độ nặng
Về lâm sàng theo ICD-10F (1992) giai đoạn trầm cảm nặng có các thể
lâm sàng chính như sau [18]:
- Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng không
có các triệu chứng loạn thần, F31.4.
- Rối loạn cảm xúc lưỡng cực, hiện tại giai đoạn trầm cảm nặng có các
triệu chứng loạn thần, F31.5.
- Giai đoạn trầm cảm nặng, không có triệu chứng loạn thần, F32.2.
- Giai đoạn trầm cảm nặng, có các triệu chứng loạn thần, F32.3.
- RLTC tái diễn, hiện tại giai đoạn nặng không có các triệu chứng loạn
thần, F33.2.
- RLTC tái diễn, hiện tại giai đoạn nặng có các triệu chứng loạn thần,
F33.3.
1.1.4. Tiến triển và tiên lượng bệnh nhân trầm cảm
1.1.4.1. Tiến triển
Các triệu chứng của một giai đoạn trầm cảm thường phát triển trong vài
ngày hoặc vài tuần. Một giai đoạn tiền triệu, có thể bao gồm các triệu chứng
lo âu và một số triệu chứng của trầm cảm có thể kéo dài vài tuần hoặc vài
tháng trước khi có một giai đoạn trầm cảm chủ yếu đầy đủ. Khoảng 50% BN
trong giai đoạn đầu tiên của RLTC chủ yếu đã xuất hiện các triệu chứng trầm


13
cảm khá rõ ràng trước khi giai đoạn đầu tiên được xác định. Vì vậy, phát hiện
sớm và điều trị các triệu chứng sớm có thể ngăn chặn sự phát triển đầy đủ một
giai đoạn trầm cảm. Khoảng 50% các BN khởi phát giai đoạn trầm cảm đầu
tiên xảy ra trước tuổi 40 [5], [8].

Bùi Quang Huy (2008) trích dẫn kết quả nghiên cứu của các tác giả
đánh giá nguy cơ tái phát của BN RLTC nặng diễn biến như sau [19]:
- BN có 1 cơn trầm cảm sẽ có 50% nguy cơ tái phát cơn thứ 2.
- BN có 2 cơn trầm cảm sẽ có 60% nguy cơ tái phát cơn thứ 3.
- BN có 3 cơn trầm cảm sẽ có 70% nguy cơ tái phát cơn thứ 4.
- BN có 4 cơn trầm cảm sẽ có 80% nguy cơ tái phát cơn thứ 5.
- BN có 5 cơn trầm cảm sẽ có 90% nguy cơ tái phát cơn tiếp theo.
Tác giả cũng cho rằng trong 10 năm đầu bị bệnh, BN có trung bình 4
cơn trầm cảm. Tuy nhiên, khoảng cách giữa các lần tái phát sẽ càng ngắn hơn,
cơn tái phát xuất hiện nhiều hơn.
Theo Sadock B. J. và cs (2015) các trường hợp lui bệnh không hoàn
toàn có nguy cơ tái phát cao hơn là lui bệnh hoàn toàn. Mặc dù có một số tác
giả khuyến cáo rằng thuốc chống trầm cảm tiếp tục cho 4-6 tháng sau khi
thuyên giảm để ngăn ngừa tái phát, nhưng tác giả cho rằng thời gian điều trị
củng cố với giai đoạn trầm cảm đầu tiên ít nhất là 3 năm [11].
1.1.4.2. Tiên lượng
Theo DSM-5 tiên lượng của BN phụ thuộc vào các yếu tố sau [20]:
- Tuổi khởi phát: tuổi khởi phát của trầm cảm càng thấp thì tiên lượng
càng xấu. Trầm cảm khởi phát ở tuổi vị thành niên thường có tiên lượng xấu.
Khả năng học tập của các BN này thường bị giảm sút trầm trọng, ảnh hưởng
rõ rệt đến khả năng sống tự lập của BN sau này.
- Số lần tái phát: BN càng bị nhiều cơn trầm cảm trong tiền sử, thì tiên
lượng càng xấu.


14
- Lui bệnh giữa các cơn: BN lui bệnh không hoàn toàn thì có tiên lượng
xấu hơn BN lui bệnh hoàn toàn. BN lui bệnh càng kém thì tiên lượng càng
xấu.
- Triệu chứng loạn thần: BN trầm cảm có loạn thần (hoang tưởng, căng

trương lực) sẽ có tiên lượng xấu hơn trầm cảm không có loạn thần. Các BN
có hoang tưởng không phù hợp với khí sắc sẽ có tiên lượng xấu hơn nhiều so
với các BN có hoang tưởng phù hợp với khí sắc.
- Đáp ứng điều trị: nếu BN đáp ứng càng tốt với điều trị, tuân thủ điều
trị sử dụng thuốc thì tiên lượng càng tốt. Ngược lại, các BN kháng điều trị
bằng thuốc (phải sử dụng sốc điện), không điều trị duy trì hoặc duy trì không
đều thì tiên lượng càng kém.
- Ý tưởng và hành vi tự sát: nếu BN đã có ý tưởng và hành vi tự sát
trong tiền sử thì có tiên lượng xấu. Các ý tưởng và hành vi tự sát này sẽ tái
phát ở các cơn trầm cảm tiếp theo.
- Bệnh cơ thể kết hợp: BN có bệnh cơ thể kết hợp (nhồi máu cơ tim,
cao huyết áp...) thì có tiên lượng xấu hơn các BN không có bệnh cơ thể kết
hợp.
Ngô Ngọc Tản và cs (2005) cho rằng có một số yếu tố giúp chúng ta
đánh giá tiên lượng của trầm cảm chủ yếu. Đó là các giai đoạn trầm cảm nhẹ,
không có triệu chứng loạn thần, thời gian phải nằm viện ngắn. Ngoài ra các
yếu tố tiên lượng tốt khác bao gồm có những tình bạn vững chắc trong thời
thanh niên, gia đình hòa thuận, hoạt động xã hội tốt trong 5 năm liền kề trước
bệnh tật [34].
1.2. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI CẤU TRÚC NÃO Ở BỆNH NHÂN RỐI
LOẠN TRẦM CẢM
Ngày nay, trên thế giới ngày càng có nhiều nghiên cứu sử dụng hình
ảnh não để tìm hiểu về cấu trúc và chức năng của não trong RLTC. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng trầm cảm có rất nhiều sự khác biệt về cấu trúc và


15
chức năng của hệ thống thần kinh liên quan đến xử lý cảm xúc và tâm trạng
của BN. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng cấu trúc và chức năng của
các hệ thống này thay đổi khi được điều trị bằng thuốc và tâm lý liệu pháp

[6], [38].
Các nghiên cứu gần đây cho thấy có một số vùng não bị thay đổi cấu
trúc, thay đổi thể tích đặc biệt của những BN trầm cảm. Trên hình ảnh chụp
cắt lớp vi tính (CLVT) sọ não, một số BN trầm cảm có sự giãn rộng các não
thất, đặc biệt là BN trầm cảm có loạn thần thì hình ảnh giãn rộng não thất
càng rõ ràng hơn. Nghiên cứu bằng chụp cộng hưởng từ (MRI) cho thấy có
hình ảnh teo nhân đuôi và thùy trán và có sự bất thường ở thể chai so với
nhóm chứng [23].
Các nghiên cứu hình ảnh não bằng chụp MRI cũng cho thấy BN trầm
cảm có loạn thần có não thất giãn rộng hơn nhóm chứng và kích thước chất
trắng lớn hơn BN trầm cảm không loạn thần.
David C. và cs (2004) nhận thấy có hiện tượng teo ở vùng trước trán,
thái dương và nhân đuôi của người bị trầm cảm. Sau khi điều trị bằng các
thuốc chống trầm cảm, tình trạng này thuyên giảm cùng với sự cải thiện của
các triệu chứng trầm cảm [9].
Cũng trong năm 2004, Philippe F. và cs nghiên cứu hình thái não qua
chụp MRI đó nhận thấy sự thay đổi hình thái như sau: giảm khối lượng chất
xám trong vỏ não trước trán, vùng hipocumpus và thể vân. Việc giảm khối
lượng chất xám và teo các vùng não nêu trên có thể là do mất tế bào thần kinh
và thay đổi các quá trình dinh dưỡng thần kinh [39].
Eberhard F. và cs (2004) đã chứng minh có sự thay đổi của hệ thần
kinh trong bệnh trầm cảm đặc biệt là vùng hải mã. Hình ảnh tế bào thần kinh
thay đổi được nhận thấy ở hệ viền và hệ thần kinh khác trong não của BN
trầm cảm. Ngoài ra, nghiên cứu hình thái não ở các BN trầm cảm nặng chết


16
do tự sát cho thấy giảm tế thần kinh đệm và tế bào thần kinh trong mật độ cấu
trúc não [40].
BN trầm cảm có loạn thần thấy xuất hiện teo não hai bán cầu, giãn não

thất, teo thuỳ thái dương trái. Những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng thể tích
hồi hải mã bị giảm, có kèm theo sự giảm sinh tế bào thần kinh mới ở hồi răng.
Người ta còn thấy hiện tượng teo vỏ não trước trán và hạnh nhân là những
vùng kiểm soát về cảm xúc, khí sắc, dẫn đến giảm tính linh hoạt của tế bào
thần kinh và điều này có thể đóng vai trò chủ yếu trong bệnh nguyên của trầm
cảm [8].
Wang Y. và cs (2012) nghiên cứu hình ảnh não ở BN trầm cảm mức độ
nặng đã cho thấy những bất thường sinh hóa của chất trắng não trước trán có
thể xảy ra sớm trong quá trình khởi phát bệnh và có thể liên quan đến cơ chế
bệnh sinh của bệnh trầm cảm [41].
Sivakumar P.T. và cs (2015) nghiên cứu hồi hải mã qua chụp MRI sọ
não của 25 BN trầm cảm khởi phát muộn (trong đó 10 nam và 15 nữ tuổi
trung bình 65,28 + 5,73 tuổi) so với 20 người khỏe mạnh (trong đó có 13 nam
và 7 nữ tuổi trung bình 65,35 + 5,67 tuổi) nhận thấy thể tích hồi hải mã của
BN trầm cảm giảm hơn so với người khỏe mạnh (1.01 ± 0.19 ml so với 1.16 ±
0.25 ml) [12].
Năm 2015 Palmer S.M. và cs đã nghiên cứu so sánh hoạt động của não
ở người trưởng thành bị trầm cảm so với người khỏe mạnh trong các điều
kiện khác nhau về mặt cảm xúc và nhận thức: công việc nhận thức dễ dàng;
công việc đòi hỏi khắt khe về mặt nhận thức và trong điều kiện nghỉ ngơi. Kết
quả nhận thấy có sự thay đổi khác nhau giữa các vùng não đặc biệt là thùy
trán [13].
Hình ảnh chụp CLVT và MRI sọ não cho thấy, não thất và các khe giãn
rộng trong trầm cảm, đặc biệt ở người già. Những thay đổi này nhẹ hơn ở


×