Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.06 KB, 41 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu....................................................4
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học..........................................................5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài...........................................................5
7. Kết cấu của đề tài...........................................................................................5
NỘI DUNG...........................................................................................................6
I. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC.................................6
1. Thuận lợi.....................................................................................................6
2. Khó khăn....................................................................................................8
II. MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025...11
1. Mục tiêu....................................................................................................11
2. Những yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức đến năm 2025...................................................................11
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY.......................................................................................................14
1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của của các cấp uỷ, tổ chức đảng về đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.....................14
2. Đổi mới việc xây dựng và triển khai, tổ chức thực hiện các nghị quyết của
Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức............................................16
3. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong công tác
vận động trí thức...........................................................................................20
4. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ để xây dựng đội ngũ trí thức và tạo môi trường thuận lợi
cho trí thức sáng tạo, cống hiến....................................................................23


5. Đảng lãnh đạo phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công
tác vận động trí thức.....................................................................................30
6. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí thức...............35
KẾT LUẬN.........................................................................................................38
1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trí thức là vốn quý của dân tộc, là lực lượng tiêu biểu, thể hiện trình độ trí
tuệ của một quốc gia và có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Lịch sử cho thấy rằng: ở thời nào cũng vậy, sự hưng thịnh của đất
nước tùy thuộc phần lớn vào việc coi trọng và sử dụng đội ngũ trí thức như thế
nào.
Cách đây hơn năm thế kỷ, trong bài Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm
Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3(1942),Thân Nhân Trung đã nêu bật được tầm
quan trọng của giáo dục nhân tài đối với sự hưng thịnh của đất nước: Hiền tài là
nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh,
nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh
minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng
nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn về sự tụt hậu ngày
càng xa so với các nước trong khu vực và quốc tế. Đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) để từng bước vượt qua thách thức đó.
Đội ngũ trí thức với đặc thù lao động của mình có vai trò quan trọng, có ý nghĩa
rất quan trọng. Không có đội ngũ trí thức đủ mạnh thì không thể tiến hành CNH,
HĐH đất nước, không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Trí thức vừa là một bộ phận của nguồn lực con người, vừa là nguồn tiềm
năng khoa học, kỹ thuật, trực tiếp tham gia vào việc nâng cao dân trí, đào tạo

nguồn nhân lực cho đất nước. Đánh giá về xu thế phát triển này, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do
đó, con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi
quốc gia”.
Nối tiếp truyền thống của dân tộc, vận dụng những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, trong sự nghiệp đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm lãnh đạo công tác vận động đội ngũ trí
thức. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo công tác vận động
trí thức, điển hình là Nghị quyết số 27-NQ/TW, về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH (2008). Quan điểm, chủ trương đúng đắn
của Đảng chậm được cụ thể hóa vào tình hình thực tế, chưa tạo ra được những
chính sách đồng bộ đủ mạnh để gắn kết khoa học công nghệ với giáo dục đào
tạo và sản xuất kinh doanh, phục vụ sự phát triển của đời sống xã hội. Đảng bộ,
2


chính quyền các cấp có lúc, có nơi chưa thấy hết vai trò, vị trí của trí thức trong
sự phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), đặc biệt trong phát triển khoa học, công
nghệ, giáo dục, văn hóa. Trong công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng sử dụng,
đãi ngộ đối với trí thức còn thiếu tính chiến lược, chưa được xem như là một bộ
phận cấu thành của chiến lược con người, chiến lược phát triển KT - XH nên
chưa tạo ra được một đội ngũ trí thức có cơ cấu đồng bộ, hợp lý đáp ứng yêu cầu
phát triển KT - XH. Sự quan tâm chỉ đạo đầu tư xây dựng các tổ chức của trí
thức chưa đúng mức, cả về tổ chức cũng như kinh phí hoạt động… Trong bối
cảnh quốc tế hiện nay, các thế lực thù địch với chiến lược “diễn biến hòa bình”
đang tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng nước ta, phá hoại khối
đoàn kết toàn dân, chia rẽ dân với Đảng, đặc biệt chúng tập trung lôi kéo, lợi
dụng trí thức nhằm hạ thấp, làm lu mờ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó
đòi hỏi chúng ta phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận nói chung và công tác vận động trí thức nói riêng.

Ngày 03/6/2013, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI, đã ra Nghị quyết số 25-NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Nghị quyết đã
nhấn mạnh mục tiêu lớn nhất của công tác dân vận trong tình hình mới, tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận để củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận động trí thức là bộ phận trong công tác dân vận,
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức góp phần tăng
cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới là yêu cầu bức thiết. Do đó, tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đang đặt ra
những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu, làm sang tỏ thêm.
Xuất phát từ cách nhìn nhận, tiếp cận đó; từ yêu cầu nhiệm vụ, thực tiễn công
tác của bản thân, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu

3


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác vận động trí thức, đề xuất phương hướng, mục tiêu và giải pháp
tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến
năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, làm rõ kết quả
nghiên cứu về trí thức và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí

thức;
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức;
- Đánh giá thực trạng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức, nêu nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm;
- Xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức là một
vấn đề rất rộng và phức tạp. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý
luận về trí thức và công tác vận động trí thức; nghiên cứu thực trạng đổi mới nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức từ năm
1986 đến nay, trong đó tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2000 đến 2013. Tiểu
luận cũng đề cập đến những nhân tố tác động và những yêu cầu đặt ra đối với
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, từ đó đề ra
những giải pháp để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức trong giai đoạn từ nay đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam về trí thức và công tác vận động trí thức.
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin đồng thời sử
dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, thống kê,
4



so sánh, điều tra, khảo sát thực tiễn, phương pháp chuyên gia và phương pháp
điều tra xã hội học.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học
- Nghiên cứu và đưa ra khái niệm về trí thức và công tác vận động trí thức;
nội dung, phương thức lãnh đạo trí thức và xây dựng luận cứ khoa học khẳng
định tính tất yếu phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và rút ra những
kinh nghiệm lãnh đạo công tác vận động trí thức làm cơ sở thực tiễn cho việc
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức.
- Dự báo thuận lợi, khó khăn, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất
các giải pháp tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức đến năm 2025.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần tiếp tục nghiên cứu về lý luận
và thực tiễn để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức trong tình hình hiện nay. Đề tài góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho
việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong tình
hình hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của tiểu luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, các cơ quan, tổ chức và cá
nhân quan tâm.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

5


NỘI DUNG
I. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA

ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
1. Thuận lợi
Một là, sự phát triển khoa học công nghệ và kinh tế tri thức.
Cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác
động đến mọi quốc gia, dân tộc, hàng ngày hàng giờ thay đổi tư duy nhân loại.
Vớinhững thành tựu về công nghệ thông tin, phát thanh, truyền hình, internet,
văn hóa nhân loại được lan tỏa khắp hành tinh hết sức nhanh chóng. Tốc độ phát
minh khoa học ngày càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng rút
ngắn.
Sự cạnh tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông về khoa
học - công nghệ diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và công nghệ khoa học mới liên
tục ra đời và đang được các quốc gia đón nhận. Khoa học Việt Nam đang đứng
trước cơ hội thuận lợi chưa từng có với sự hỗ trợ từ các chủ trương và chính
sách của Đảng, Nhà nước. Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 - 2020
của Đảng đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu, định hướng nhiệm vụ và giải pháp
chủ yếu phát triển khoa học và công nghệ. Sự phát triển của KTTT là tất yếu,
phản ánh xu thế khách quan của lực lượng sản xuất trong điều kiện mới. Trong
KTTT, tri thức, KH&CN chuyển thành một bộ phận hữu cơ của cả hệ thống KT
- XH. Tri thức, KH&CN là yêu cầu hàng đầu với người lao động. Chính vì vậy
phát triển KTTT đòi hỏi phải có nguồn nhân lực trình độ cao, đó chính là đội
ngũ trí thức. Bởi vì, trí thức vừa là một bộ phận của nguồn lực con người, vừa là
nguồn tiềm năng khoa học, kỹ thuật, trực tiếp góp phần vào việc nâng cao dân
trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đánh giá về xu thế phát triển này, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: "Kinh tế tri thức phát
triển mạnh, do đó, con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết định sự
phát triển của mỗi quốc gia".
Hai là, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới hay
nói cách khác con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong
thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn

được quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các nước.
Đối với nước ta, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là cơ hội giúp nâng cao trình
độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo
6


dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới
thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước
tiên tiến. Đây cũng là thời cơ để đội ngũ trí thức giao lưu, học tập nâng cao trình
độ, tiếp cận với công nghệ mới, tìm kiếm việc làm nâng cao thu nhập. Đây cũng
là cơ hội tạo động lực và điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt
hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát
triển đất nước, nhất là lĩnh vực GD&ĐT, KH&CN, thu hút đội ngũ trí thức nhất
là trí thức Việt kiều về tham gia xây dựng đất nước.
Ba là, những thành tựu 30 năm đổi mới, xu hướng phát triển của đất nước
trong những năm tới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác vận động trí thức
Những thành tựu, kinh nghiệm của 30 năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước
thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước: Kinh tế nước ta đang
lấy lại đà tăng trưởng, nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương đang được triển khai; Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; Mặt bằng dân trí được nâng cao. Đảng và
Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa
tiềm năng trí tuệ, sức sáng tạo của đội ngũ trí thức. Đặc biệt, sau hơn 7 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tạo được chuyển biến
tích cực về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị. Kết luận số 90KL/TW ngày 04-3-2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 khóa X về Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã nhận định:
Việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 đã tạo được chuyển
biến tích cực về nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị; việc cụ

thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết đã đạt được một số kết quả bước đầu. Hoạt
động của các hội trí thức tiếp tục có tiến bộ, nhất là trong việc tập hợp và
phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức tiếp tục được tăng
cường, có những đóng góp tích cực, quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Bốn là, truyền thống hiếu học và sự phát triển của GD&ĐT, nhất là giáo
dục đại học là tiền đề quan trọng để xây dựng đội ngũ trí thức
Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, trí thức Việt Nam chịu
khó, say mê nghiên cứu sáng tạo. Khuyến học, khuyến tài, xã hội hóa giáo dục
7


đã trở thành phong trào râu rộng, thu hút được các ngành, các cấp và toàn xã hội
tham gia. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của
Đảng,Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong
thời kỳCNH, HĐH, lĩnh vực GD&ĐT nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống
GD&ĐT tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị
giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học
sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.
Chất lượng GD&ĐT có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Chi ngân
sách cho GD&ĐT đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo
dục được đẩy mạnh; hệ thống GD&ĐT ngoài công lập góp phần đáng kể vào
phát triển GD&ĐT chung của toàn xã hội. Đây chính là tiền đề quan trọng để
chúng ta xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trong những năm tới.
2. Khó khăn
Một là, những tác động mặt trái của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế
Bên cạnh cơ hội thuận lợi, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng làm gia

tăng tình trạng chảy máu chất xám tại các quốc gia nghèo như nước ta. Khoảng
70% những sinh viên mới tốt nghiệp ở nước ngoài không quay trở về sau khi đã
nhận bằng. Lý do chính là vì họ không có những cơ hội phát triển tương tự ở
trong nước. Việc các nhà khoa học sang làm việc cho nước ngoài cũng tác động
xấu đến người dân và các giới tri thức khác trong nước. Nguồn chất xám bị chảy
máu khiến kinh phí đào tạo của quốc gia không ngừng thất thoát, đồng thời phải
bỏ ra một nguồn kinh phí lớn để trả lương cho các chuyên gia nước ngoài. Bên
cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở trong nước thiếu nhân lực thực
hiện, thành tựu khoa học kỹ thuật không được phổ biến và ứng dụng. Đây là một
sự lãng phí lớn về tài sản quốc gia, làm chậm tốc độ phát triển nền kinh tế, đồng
thời còn tác động, ảnh hưởng lớn đến tâm lý và sự phấn đấu của trí thức.
Vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức là làm thế nào để hội nhập, tồn tại và
phát triển? Nếu không nâng cao trình độ, trí thức Việt Nam sẽ thua trên sân nhà,
cơ hội tìm kiếm việc làm nhất là những việc làm đòi hỏi trình độ cao sẽ vô cùng
khó khăn vì không thể cạnh tranh với trí thức, lao động chất lượng cao của nước
ngoài. Đối với công tác vận động trí thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng
8


đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết như: làm thế nào để đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng, nhất là lãnh đạo trí thức và công tác vận động trí thức; Ngăn chặn sự chảy
máu chất xám; làm thế nào để hội nhập và phát triển kinh tế trí thức…
Hai là, chiến lược diễn biến hòa bình và sự chống phá trên mặt trận tư
tưởng, lý luận của các thế lực thù địch vẫn đang tiếp diễn
Với chiến lược diễn biến hòa bình, thời gian qua, các thế lực thù địch đã ra
sức tấn công về tư tưởng, lý luận, nhằm mục đích “đa nguyên, đa đảng”, xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Đối
tượng lôi kéo, tấn công của chúng không từ một thành phần, giai cấp nào, đặc
biệt là đối với trí thức. Nhằm mục tiêu “chuyển hóa” niềm tin của nhân dân, của
trí thức chúng thường xuyên theo dõi, bám nắm mọi diễn biến đời sống chính trị,

kinh tế và xã hội của nước ta. Chúng tập hợp những ý kiến, phát biểu của những
trí thức có “uy tín”, “vị thế”, nhưng có quan điểm, chính kiến trung dung, thậm
chí trái với đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, luật pháp của Nhà nước;
kết hợp với sự tích hợp, dẫn dắt những quan điểm, tư tưởng đối lập, sai lầm về
chính trị từ những kẻ tạo dựng là “nhà khoa học”, “nhân sĩ, trí thức yêu nước”,
giả danh “chủ bút” báo này, tạp chí nọ… để tuyên truyền các quan điểm, tư
tưởng thù địch chế độ ta. Chúng luôn đan cài những tư tưởng, quan điểm giả
danh mácxít, đúng - sai lẫn lộn, làm cho người đọc mất phương hướng, không
phân biệt được ngay - gian, chính - tà. Trong cuộc đấu tranh này trí thức vừa là
một đối tượng bị lôi kéo đồng thời cũng là lực lượng quan trong để đấu tranh
làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch.
Ba là, những khuyết điểm yếu kém của giáo dục và đào tạo, nhất là giáo
dục đại học đang là lực cản trong xây dựng đội ngũ trí thức
Những năm qua, GD&ĐT nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên,
chất lượng, hiệu quả GD&ĐT còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp. Quản lý GD&ĐT còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ
phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết,
thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đầu tư cho GD&ĐT chưa hiệu quả.
Chính sách, cơ chế tài chính cho GD&ĐT chưa phù hợp. Hệ thống đào tạo chạy
theo thành tích, bằng cấp, hư danh, mà không quan tâm đúng mức đến chất
lượng. Chính nhận thức sai đó đã dẫn đến chất lượng không cao; có bằng cấp
9


nhưng không có kiến thức thực sự. Nhiều sinh viên ra trường nhưng không tìm
được việc làm, do không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, phải làm
những việc trái với chuyên môn, ngành nghề đào tạo. Hàng năm, có thêm rất
nhiều cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, nhưng trong thực tế, họ không được xem là nguồn

nhân lực cao cấp, là lao động chất xám, bởi họ không có những kiến thức tương
xứng với những văn bằng đã được cấp. Theo nghiên cứu của một tổ chức quốc
tế thì Việt Nam thuộc nước đứng đầu trong khu vực về tỷ lệ giáo sư, tiến sĩ...
nhưng lại đứng thấp nhất về trình độ ngoại ngữ, khoa học và công nghệ.
Bốn là, những hạn chế, bất cập về lý luận, sự thoái hóa biến chất của một
bộ phận cán bộ, đảng viên tác động xấu đến đội ngũ trí thức, gây khó khăn cho
việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
Về mặt lý luận, mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vấn đề Đảng cầm quyền
và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.. chưa thật sáng tỏ. Về thực
tiễn, sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội đi vào chiều sâu đang bộc lộ
những yếu kém, hạn chế về năng lực quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước
các cấp, từ đó gây bức xúc và giảm sút niềm tin của nhân dân đối với năng lực
cầm quyền của Đảng. Tình trạng thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên tác động xấu đến đội ngũ trí
thức, gây khó khăn cho việc tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác vận động trí thức. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã
chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc.
Năm là, những hạn chế, yếu kém của một bộ phận trí thức
Điều đáng lo ngại ở đây là sự sa sút về niềm tin, phai nhạt lý tưởng trong
một bộ phận trí thức ảnh hưởng tới chất lượng nghiên cứu, phát triển và vận
dụng lý luận vào thực tiễn. Về vấn đề này, đề tài cấp nhà nước “Xây dựng đội
ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020” đánh giá là:
Một bộ phận trí thức trong lĩnh vực tư tưởng có biểu hiện phai nhạt lý
tưởng, dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức không sâu, tư duy mòn, cũ, nặng
về nghiên cứu công thức, nhẹ về nghiên cứu phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và

10


CNXH khoa học; có dấu hiệu thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Thời cơ và
thách thức, thuận lợi và khó khăn đan xen nhau. Làm thế nào để tranh thủ thời
cơ, thuận lợi, vượt qua thách thức, khó khăn để thực hiện thành công sự nghiệp
CNH, HĐH, đưa Việt Nam hội nhập và phát triển đang đòi hỏi sự nỗ lực của
toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đội ngũ trí thức. Đây cũng là những nhân tố tác
động đến đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong
giai đoạn hiện nay.
II. MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC ĐẾN NĂM 2025
1. Mục tiêu
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết Trung ương bảy khóa X,
XI của Đảng, mục tiêu đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động
trí thức trong giai đoạn hiện nay là: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị và toàn xã hội trong việc xây dựng đội ngũ trí thức có số
lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ
của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới; phát huy tiềm năng trí
tuệ, tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức, thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, dựa trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân và trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
2. Những yêu cầu tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức đến năm 2025
Để đạt được mục tiêu trên, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay phải đáp ứng được những yêu cầu
sau:

Một là, phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, tạo sự
gắn bó vững chắc giữa Ðảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Ðảng
và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
công - nông - trí.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí
thức cần phải thực hiện nghiêm túc Kết luận số 90-KL/TW ngày 04-03-2014 của
Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về Xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
11


nước, cụ thể là: Nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền
các cấp, tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết ngày càng tốt hơn; Đổi
mới việc ban hành, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết.. về công tác vận động trí thức; phải bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo
chính trị và định hướng tư tưởng của Đảng đối với hoạt động của đội ngũ trí
thức. Đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức của trí
thức, đặc biệt là Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật và Hội Liên hiệp Văn
học Nghệ thuật và các tổ chức khoa học công nghệ ngoài nhà nước. Củng cố,
kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ
quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học và các cơ sở giáo dục - đào tạo.
Hai là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
nhằm xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng,
bản lĩnh chính trị.
Tiếp tục quán triệt quan điểm của Nghị quyết số 27-NQ/TW, khóa X: Xây
dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống
chính trị, trong đó trách nhiệm của Ðảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Để
xây dựng đội ngũ trí thức cần phải tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương
8, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Song song với
đào tạo phổ thông cần tập trung đạo tạo đại học và sau đại học, tập trung đào tạo

nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự
học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ
sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy
hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo
ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu
cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và hội nhập quốc tế. Phấn đầu xây dựng đội ngũ trí thức ngang bằng
với khu vực và quốc tế.
Ba là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
phải bảo đảm cho đội ngũ trí thức Việt Nam phát huy vai trò lao động sáng tạo,
đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức phải gắn với phát triển và ứng
dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động
lực quan trọng nhất để phát triển KT - XH và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung
cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các
12


ngành, các cấp. Để khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, cần tổ
chức thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Bốn là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
phải huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội thực
hiện
công tác vận động trí thức.
Phải xác định công tác vận động trí thức là một bộ phận quan trọng của
công tác dân vận của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Ngoài sự lãnh đạo
của Đảng, Ban cán sự đảng Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, Ðảng đoàn

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các Đoàn thể, Ðảng đoàn Liên hiệp các Hội Khoa
học và kỹ thuật Việt Nam, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ
thuật Việt Nam và các doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty…phải có chương
trình hành động cụ thể để thực hiện công tác vận động đội ngũ trí thức. Mỗi tổ
chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ, mỗi một cán
bộ, đảng viên, ... phải tham gia làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, thuyết
phục, đoàn kết, tập hợp đội ngũ trí thức xây dựng đội ngũ trí thức có trình độ
cao, trung thành với sự nghiệp cách mạng, phát huy vai trò lao động sáng tạo
của đội ngũ trí thức, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nước
Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Năm là, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
nhằm phát huy dân chủ, tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo
của trí thức đi đôi với bảo đảm tuân thủ pháp luật, kỷ cương, kỷ luật.
Để đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức, phải
xác định những giải pháp trọng tâm có ý nghĩa đột phá trong công tác trí thức:
Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên
cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề
nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất,
năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất
nước. Đây chính là hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của trí thức và trí thức đích thực thì cái cần nhất là môi trường dân chủ, tự do
13


sáng tạo, để thể hiện được những ý tưởng mà mình ấp ủ, vì mục tiêu, vì đại
nghĩa của dân tộc. Mặt khác, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động trí thức nhằm tuyên truyền, vận động đội ngũ trí thức tuân thủ pháp luật,
kỷ cương, kỷ luật, tự tu dưỡng, rèn luyện, say mê, tâm huyết với nghề nghiệp,
nêu cao ý thức trách nhiệm công dân.

III. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của của các cấp uỷ, tổ chức đảng về đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức
Một là, các cấp ủy, các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục đổi
mới nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức và công tác vận
động trí thức.
Đây là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định thành công của
việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức. Điều 4,
Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Với vai trò, vị
trí của một đảng cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng
phải tiên phong đi đầu trong công tác vận động trí thức. Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay
đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng phải nắm vững quan điểm, chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, nhà nước đối với trí thức và công tác vận động trí
thức, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức và yêu cầu nhiệm vụ của ngành
mình, cấp mình, đơn vị mình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước để từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của trí
thức đội ngũ trí thức. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác
vận động trí thức đòi hỏi phải đổi mới nhận thức và nâng tầm trí tuệ của các cơ
quan lãnh đạo, của người lãnh đạo về tri thức, nhận thức, năng lực tổ chức; trình
độ áp dụng các tiến bộ khoa học vào công việc lãnh đạo. Vì thế đổi mới phương
thức lãnh đạo đối với công tác vận động trí thức không tách rời việc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Đảng mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về đội ngũ cán bộ


14


là nhân tố quyết định kết quả đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung
và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí thức nói riêng.
Hai là, đổi mới quan điểm về lập trường chính trị, về vấn đề giai cấp trong
vận động trí thức, phải coi trí thức là lực lượng quan trọng trong liên minh công
nhân - nông dân và trí thức.
Đội ngũ trí thức hiện nay đội ngũ trí thức đang ngày càng trở nên đa dạng
về thành phần xuất thân, nguồn gốc đào tạo, nơi làm việc, vị trí xã hội, lợi ích…
Bên cạnh số được đào tạo trong nước cũng nhiều người được đào tạo từ nước
ngoài về, đặc biệt trong những năm gần đây, một số lượng lớn trí thức được đào
tạo từ các nước tư bản, một bộ phận trí thức làm việc trong các thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh, các tổ chức nước ngoài ngày càng tăng nhanh. Đây là kết
quả tất yếu của chính sách đổi mới, mở cửa, hội nhập. Điều cần chú ý nhất trong
sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức là, cùng với sự biến đổi đó, thế giới quan,
nhân sinh quan, xu hướng chính trị của một bộ phận trí thức cũng sẽ có những
biến đổi theo, tính đồng nhất về thế giới quan, nhân sinh quan, quan điểm chính
trị trong đội ngũ trí thức trước đây có xu hướng bị phá vỡ nếu thiếu sự định
hướng kịp thời. Chính vì vậy cần phải đổi mới tư duy, phương pháp lãnh đạo để
phù hợp với các đối tượng trí thức.
Khắc phục nhận thức lệch lạc, coi trí thức là tầng lớp tiểu tư sản với lập
trường chính trị bấp bênh, thiếu kiên định dẽ bị các thế lực thù địch lôi kéo, lợi
dụng. Hiểu đúng để phát huy vai trò trí thức là động lực, là lực lượng xung kích
trên mặt trận khoa học, công nghệ, văn hóa, là lực lượng quan trọng trong liên
minh công nhânnông dân và trí thức góp phần cùng với toàn Đảng, toàn dân tiến
hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Ba là, trong lãnh đạo công tác vận động trí thức phải chú trọng đến đặc
điểm, đặc thù của trí thức.
Khác với những giai cấp khác, trí thức là những người có học vấn cao,

trình độ chuyên môn sâu, chuyên lao động trí óc có tính sáng tạo. Họ có tính độc
lập, tự trọng cao, nhưng dễ tự cao, tự đại; Ưa thích không khí tự do, dân chủ,
công bằng. Đặc biệt, niềm tin, tình cảm thường được xây dựng trên cơ sở nhận
thức khoa học, không chấp nhận sự áp đặt về tư tưởng, niềm tin; Tư duy sâu
nhưng tầm nhìn thường hẹp theo góc nhìn chuyên môn, dễ phiến diện; Nhạy
cảm với cái mới, không thích những cái sáo mòn, lạc hậu, trì trệ, nhưng cũng dễ
cực đoan, thái quá… Các cấp ủy đảng phải nhận thức đúng đắn và đề ra những
15


giải pháp phù hợp nhằm phát huy nguồn lực trí tuệ to lớn của đất nước: bảo đảm
quyền tự do sáng tạo. phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy
dân chủ, trọng dụng nhân tài; Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát
minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến
của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản
biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối
với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Với những đặc điểm, đặc thù
nêu trên, muốn lãnh đạo trí thức có hiệu quả thì không phải chỉ cần quan điểm,
đường lối, chủ trương đúng mà còn phải có cách thức lãnh đạo thích hợp, khéo
léo. Không chú trọng đặc điểm, đặc thù của đội ngũ trí thức, áp đặt những
phương cách lãnh đạo thô thiển thì kết quả lãnh đạo sẽ bị hạn chế, thậm chí còn
gây phản ứng tiêu cực, chống đối.
Bốn là, quán triệt quan điểm của Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong đánh giá, bố trí, sử dụng đội ngũ trí thức
Các cấp ủy Đảng và chính quyền phải quán triệt quan điểm của Mác –
Lênin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức nghiên cứu đánh giá đúng
năng lực, trình độ, chất lượng của trí thức, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của
họ để từ đó có cơ sở cho việc đào tạo và sử dụng. Việc đánh giá chất lượng của
đội ngũ này phải hết sức khách quan, khoa học.
Khi đã đánh giá đúng chất lượng của đội ngũ trí thức thì việc sử dụng phải

trên cơ sở tôn trọng, coi trọng năng lực chuyên môn, sử dụng đúng người, đúng
việc. Giao nhiệm vụ phù hợp, tương xứng với khả năng, trình độ. Đồng thời,
Đảng và Nhà nước cần tạo môi trường làm việc thuận lợi và có chế độ ưu đãi về
vật chất và tinh thần xứng đáng.
Việc sử dụng đội ngũ trí thức cần vận dụng bài học dùng trí thức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đó là phải tin tưởng và trọng dụng trí thức. Không nên quá
khắt khe về nguồn gốc xuất thân, quá khứ... để mất, lãng phí nhân tài. Đảng và
Nhà nước cần phải có chính sách mạnh dạn tin dùng, giao nhiệm vụ ngang tầm
với vị trí, vai trò cũng như khả năng đáp ứng của đội ngũ trí thức.
2. Đổi mới việc xây dựng và triển khai, tổ chức thực hiện các nghị
quyết của Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức
Một là, tiếp tục đổi mới việc xây dựng các nghị quyết của Đảng liên quan
đến trí thức và vận động trí thức .
Bất kỳ một hệ thống chính sách nào cũng cần phải mang tính đồng bộ và
toàn diện. Do vậy, trong quá trình hoạch định xác định chiến lược xây dựng đội
16


ngũ trí thức gắn với chiến lược phát triển KT - XH của đất nước. Báo cáo Chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình bày tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI khẳng định: Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất
lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư
tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh
giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đãi ngộ đặc biệt
đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã
hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Từ quan điểm này, việc xây dựng các nghị quyết, chính sách đối với công

tác vận động trí thức, phải bám sát các nội dung vận động trí thức. Ban Tuyên
giáo Trung ương cần chủ động và tích cực thực hiện chức năng tham mưu cho
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành các nghị quyết,
chỉ thị, kết luận… về trí thức và công tác vận động trí thức. Phối hợp với các
ban, bộ, ngành Trung ương tích cực triển khai, tổng kết một số vấn đề lý luận thực tiễn về trí thức và công tác vận động trí thức, về GD&ĐT và KH&CN.
Hai là, đổi mới việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng liên
quan đến trí thức và vận động trí thức.
Các cấp ủy đảng, đặc biệt là ngành Tuyên giáo cần chủ động trong công
tác hướng dẫn và kiểm tra, đôn đốc việc nghiên cứu, quán triệt, triển khai các
nghị quyết một cách sâu rộng, tới từng tổ chức đảng, đến mỗi cán bộ, đảng viên;
đồng thời bằng các hình thức thích hợp để tuyên truyền, phổ biến sâu rộng
những nội dung cơ bản của nghị quyết đến các tầng lớp nhân dân, nhằm tạo sự
thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Việc tổ
chức nghiên cứu, quán triệt, triển khai nghị quyết cần phải được đổi mới mạnh
mẽ hơn, thiết thực hơn; gắn việc quán triệt, triển khai nghị quyết của cấp ủy với
việc triển khai các chương trình, đề án và cơ chế, chính sách của chính quyền,
đoàn thể để thực hiện nghị quyết. Việc xây dựng chương trình hành động của
các cấp ủy phải sát thực tế của địa phương, đơn vị; các cơ quan tham mưu khi
xây dựng kế hoạch hành động phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành,
của đơn vị; phải chỉ rõ được các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể của địa phương, đơn
vị, ngành để góp phần thực hiện nghị quyết và thời gian hoàn thành.
17


Các đồng chí bí thư cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh
đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về kết quả công tác triển khai thực hiện nghị
quyết liên quan đến công tác vận động trí thức của địa phương, đơn vị, ngành
mình; chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đẩy mạnh tuyên truyền, phổ
biến nghị quyết đến từng địa bàn dân cư, từng đoàn viên, hội viên, tổ chức các
phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là trí thức để

thực hiện nghị quyết; chú trọng tuyên truyền, giới thiệu những cách làm mới,
sáng tạo; những mô hình, điển hình tiên tiến trong việc triển khai thực hiện nghị
quyết. Việc tiếp tục tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, khóa X cần
được gắn kết chặt chẽ với việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa
XI về phát triển khoa học công nghệ và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đẩy nhanh việc cụ thể hóa, thể
chế hóa Nghị quyết Trung ương 7, tạo môi trường làm việc thực sự phát huy dân
chủ và khuyến khích trí thức tự do sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác, bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường thực hiện cơ chế đặt hàng kết hợp với cơ chế
trí thức tự đề xuất trong hoạt động nghiên cứu, sáng tác. Khẩn trương hoàn
thành các đề án còn lại về thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 7 để
trình Bộ Chính trị cho ý kiến: Đề án “Quy chế tạm thời về dân chủ trong nghiên
cứu lý luận chính trị”; Đề án “Phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020 phục vụ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”.
Ba là, đổi mới công tác kiểm tra giám sát thực hiện các nghị quyết của
Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác vận động trí thức.
Nâng cao nhận thức của toàn Ðảng, của mọi tổ chức đảng và đảng viên về
vị trí, ý nghĩa công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng việc thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước về trí thức và vận động trí thức. tạo sự thống nhất về nhận thức và hành
động nhằm làm cho công tác kiểm tra, giám sát thật sự có vai trò thúc đẩy và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác vận động trí thức.
Tiếp tục đổi mới và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác kiểm
tra, giám sát của các cấp ủy đảng; đổi mới hoạt động của công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và vận động trí thức. Cần đổi mới
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chú trọng từ việc hoàn thiện, bổ

18



sung các quy định, xây dựng ban hành nghị quyết đến việc tổ chức thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát.
Tăng cường sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác
kiểm tra, giám sát của Ðảng trong việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận
của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và vận
động trí thức. Ðảng đoàn Quốc hội chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các luật liên quan đến trí thức như Luật Khoa học và Công nghệ, Luật
Giáo dục, Luật Sở hữu trí tuệ… các chương trình nghị quyết của Chính phủ liên
quan đến công tác vận động trí thức. Các bộ, ngành việc kiểm tra việc thực hiện
các chính sách của ngành mình liên quan việc xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức
của trí thức kiểm tra giám sát việc thực hiện các chủ trương chính sách như Nghị
quyết số 36/NQ-TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài và Chương trình hành động của chính phủ về công tác
với người Việt Nam ở nước ngoài, Chỉ thị số 42-CT/TW về tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát
triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Các đại biểu của Quốc hội, các đại
biểu Hội đồng nhân dân có thể kiểm tra, chất vấn các tổ chức, cá nhân người
đứng đầu các cấp việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và
các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về trí thức và vận động trí thức.
Ủy ban Kiểm tra và Ban Tuyên giáo các cấp cần chủ động tham mưu cho
cấp ủy có kế hoạch tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện các nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về
trí thức và vận động trí thức đặc biệt là Nghị quyết 27 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa X), Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung
ương 7 (khóa X), Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học công
nghệ và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện

GD&ĐT, định kỳ báo cáo với lãnh đạo cấp ủy để có sự chấn chỉnh, phê bình
nhắc nhở kịp việc thực hiện các nghị quyết, tạo môi trường làm việc thực sự
phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự do sáng tạo trong nghiên cứu, sáng
tác, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.

19


3. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong
công tác vận động trí thức
Một là, tiếp tục đổi mới việc lãnh đạo, chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội trong
các hoạt động lập pháp, giám sát tối cao việc thực hiện các nghị quyết của
Đảng về trí thức và công tác vận động trí thức.
Với tư cách là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định những vấn đề
về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn về vận động trí thức để chỉ đạo, định
hướng cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những chủ
trương cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước. Đảng không làm thay chính
quyền. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cần tập trung chỉ đạo Ban Cán
sự đảng của Chính phủ, các bộ ngành tập trung thực hiện chức năng đề xuất dự
án luật, xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, quy hoạch, chính sách quản lý vĩ
mô liên quan đến vận động trí thức, KH&CN, GD&ĐT. Chính phủ chỉ đạo và
kiểm tra việc thực hiện các chính sách, kế hoạch… liên quan đến trí thức và
công tác vận động trí thức. Bộ Chính trị chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo
việc chuẩn bị, trình Quốc hội những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của
Quốc hội liên quan đến trí thức và công tác vận động trí thức; Lãnh đạo việc dự
kiến nhân sự của trí thức tham gia Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội; Lãnh
đạo việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách cụ thể và việc bảo đảm các
điều kiện hoạt động của trí thức và các cơ quan của trí thức. Trên thực tế, hiện
nay những văn bản đề cập đến trí thức và vận động trí thức chưa được nhiều.
Quốc hội mới chỉ ban hành được “Luật Sở hữu trí tuệ” nhưng luật này cũng mới

chỉ quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng với việc bảo hộ các quyền đó, còn
vấn đề trí thức chưa được đề cập trong luật này. Luật Khoa học và công nghệ,
Luật Giáo dục, Luật Báo chí, Pháp lệnh Cán bộ, công chức,... cũng rất ít đề cập
vấn đề trí thức. Do vậy, Quốc hội cần ban hành Luật Trí thức. Luật Trí thức phải
được làm rõ những khái niệm về tri thức, trí thức và người trí thức; quyền hạn,
trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người trí thức Việt Nam; làm rõ vai trò và
trách nhiệm của Nhà nước đốỉ với người trí thức; làm rõ chính sách của Nhà
nước đối với người trí thức; làm rõ nội dung quản lý nhà nước đối với người trí
thức; làm rõ vấn đề khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng trí thức, trọng dụng
nhân tài; làm rõ vấn đề thưởng, phạt đối với việc nhà khoa học, trí thức thực thi
các công trình, đề tài, đề án, dự án của Nhà nước; làm rõ mối quan hệ giữa Nhà
nước và trí thức; làm rõ quyền sở hữu trí tuệ của tác giả; làm rõ những việc
20


người trí thức được làm và không được làm; làm rõ chính sách bầu cử, tuyển
dụng, sử dụng trí thức; làm rõ chính sách đối với những trí thức trong các tổ
chức ngoài công lập. Một khi Luật Trí thức ra đời, người trí thức sẽ được sống
trong luật pháp và được bảo đảm bằng chính pháp luật.
Mặt khác, hiện nay khoảng 50% trí thức đang hoạt động trong các Hội
nghề nghiệp, trong đó riêng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
đã có tới 140 hội thành viên với trên 3000 chi hội trực thuộc. Tuy nhiên, Việt
Nam chưa có luật về hội. Việc điều chỉnh, quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt
động hội chỉ được điều chỉnh qua các văn bản quy phạm Pháp luật như Nghị
định số 45/2010/NQ-CP về tổ chức hoạt động và quản lý Hội; Liên đoàn Luật sư
được điều chỉnh bàng Luật Luật sư; Nghị định số 08/1998/NĐ-CP về ban hành
quy chế thành lập Hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài. Rõ ràng, việc ban hành
Luật Hội là cần thiết nhưng hơn 10 năm, hàng chục lần góp ý, soạn thảo đi, soạn
thảo lại nâng lên, đặt xuống khá nhiều lần và đến lần này thì đưa ra Quốc hội để

thảo luận nhưng theo ông Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội 3 khóa liền
(Khóa XI- XIII). "Tôi muốn lưu ý rằng những kỳ họp cuối cùng khóa 13 này chỉ
thảo luận thôi, chứ còn việc quyết định thì theo quy trình của nó, nó phải thêm
một kỳ họp nữa, tức là nó có thể phải sang nhiệm kỳ tới của Quốc hội khóa
XIV…". Đã đến lúc việc ban hành Luật về Hội, không thể trì hoãn được nữa.
Hai là, tiếp tục đổi mới việc lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa đường lối, nghị
quyết của Đảng thành các văn bản quy phạm pháp luật, ban hành cơ chế, chính
sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về trí thức và công tác vận động trí
thức của Chính phủ.
Sự quản lý của Nhà nước đóng một vai trò quan trọng đối với đời sống của
người trí thức trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần, cả hai mặt này phải
được thể hiện bằng các chính sách cụ thể của Chính phủ. Mặc dù đã có nhiều cố
gắng nhưng trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW “Về xây dựng đội ngũ
trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”các
chính sách của Nhà nước về vấn đề trí thức mới chỉ được thể hiện ở các văn bản
chung và có thể nói là chưa cụ thể. Chính phủ chưa thể hiện rõ vai trò của mình
đối với trí thức, nhất là việc quan tâm, quản lý đội ngũ trí thức. Vì vậy, Chính
phủ cần có sự nghiên cứu sâu sắc về chính sách đối với trí thức và cần ra các văn
bản quy phạm pháp luật để tiếp tục thực hiện Nghị quyết này. Chính phủ cần
21


phải rà soát lại toàn bộ chính sách về khai thác, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
nguồn nhân lực trí thức và chính sách trọng dụng nhân tài, xem xét đến những
điều kiện lịch sử cụ thể, đến hoàn cảnh của đội ngũ trí thức để đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, khuyến khích họ đóng góp nhiều cho sự nghiệp chấn hưng đất
nước. Nhà nước XHCN phải trọng dụng trí thức vượt trội hơn nhà nước tư bản
chủ nghĩa. Nhà nước XHCN, trước hết phải là nhà nước dân chủ, thể hiện ở việc
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho trí thức tham gia hoạt động trong các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đối ngoại, xây dựng và bảo vệ đất nước và
tham gia vào việc soạn thảo các văn bản có tính pháp quy.
Cơ sở để định ra các chính sách của Nhà nước đối với trí thức chính là giải
quyết hài hòa giữa các lợi ích vật chất và tinh thần của người trí thức. Mấu chốt
của vấn đề là nhà nước quan tâm đến đội ngũ trí thức chính là ban hành chính
sách và chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách đối với trí thức. Những năm qua,
Chính phủ đã chỉ thị cho các bộ, ngành rà soát lại chính sách đã ban hành, chỉnh
sửa, thay thế được khá nhiều chính sách khi xét thấy nó không còn phù hợp. Tuy
nhiên, vẫn còn không ít chính sách lỗi thời, nhưng vẫn chưa được điều chỉnh.
Nhận xét chung về các chính sách tài chính và khoa học và công nghệ còn nặng
về quản lý tài chính, mà còn xem nhẹ chất lượng nội dung và kết quả nghiên cứu
của các đề tài, đề án, dự án cấp nhà nước. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm sao cơ
quan chức năng của Chính phủ thu về chất lượng công trình tốt hơn và giảm
thiểu các thủ tục thanh quyết toán đồng thời vẫn đảm bảo được sự nghiêm minh,
chặt chẽ trong chi tiêu ngân sách. Về phương pháp định chính sách, những vấn
đề nào mang tính bao quát chung, thì của Chính phủ, còn những vấn đề nào
mang tính chuyên ngành, thì để cho bộ chủ quản định ra.
Ba là, tiếp tục đổi mới tăng cường sự lãnh của Đảng đối với các bộ,
ngành, các cơ quan KH&CN,GD&ĐT, các đơn vị kinh tế… trong công tác vận
động trí thức
Đảng lãnh đạo công tác vận động trí thức là lãnh đạo hệ thống chính trị và
toàn xã hội quan tâm chăm lo xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ trí thức có mặt trong mọi ngành,
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động trong tổ chức nào thì trí thức chịu
sự tác động trực tiếp của tổ chức đó. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận
động đội ngũ trí thức không thể tách rời một cách riêng rẽ mà phải gắn với sự
lãnh đạo các tổ chức tổ chức Đảng, các ngành, các lĩnh vực và toàn xã hội. Do
22



vậy, muốn tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động trí
thức cũng phải gắn với đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với tất cả các lĩnh vực,
các tổ chức, đối với toàn xã hội, trong thực hiện quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng đối với trí thức, tạo nên văn hóa xã hội tôn vinh và tạo điều
kiện tốt nhất cho đội ngũ trí thức. Các tổ chức Đảng trong bộ, ngành, địa
phương, các cơ quan KH&CN,GD&ĐT, các đơn vị kinh tế.., xây dựng quy
hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng
nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với
các cơ sở giáo dục, đào tạo đội ngũ trí thức, nguồn nhân lực có chất lượng cao,
lựa chọn, sử dụng, đãi ngộ, tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ trí thức phát
huy vai trò vị trí của mình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan đơn vị, của
các bộ, các ngành và của đất nước.
4. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ để xây dựng đội ngũ trí thức và tạo môi trường thuận lợi
cho trí thức sáng tạo, cống hiến
4.1. Đảng lãnh đạo đổi mới toàn diện, triệt để giáo dục đào tạo, nhất là
giáo dục đại học tạo tiền đề cho việc xây dựng đội ngũ trí thức
Giáo dục và đào tạo có vai trò to lớn trong việc xây dựng đội ngũ trí thức
Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn quan tâm đến GD&ĐT.
Đổi mới giáo dục là đường lối xuyên suốt của Đảng. Đã có nhiều nghị quyết, chỉ
thị về GD&ĐT quan trọng được ban hành và đi vào cuộc sống. Đáng chú ý là
Nghị quyết Trung ương 4 (NQTW) (khóa VII), NQTW 2 (khóa VII), Thông báo
Kết luận số 242 của Bộ Chính trị (khóa X) ngày 15-9-2009,.
Sau 30 năm đổi mới, giáo dục của chúng ta đã đạt được những kết quả
quan trọng, rất có ý nghĩa trong việc thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, GD&ĐT còn những bất
cập, yếu kém. Giáo dục và đào tạo vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa
là động lực quan trọng nhất cho phát triển. Chất lượng giáo dục nhìn chung
thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH, chưa theo kịp sự chuyển biến
của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Căn cứ vào tình hình quốc tế, trong

nước, thực trạng và yêu cầu phát triển giáo dục, Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa
và hội nhập quốc tế”.
23


Cụ thể hóa đường lối của Đảng, ngày 4-11-2013 Hội nghị Trung ương 8
khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo. Để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục
và đào tạo, cần tập trung giải quyết những nội dung sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với đổi mới giáo dục và đào tạo Các cấp ủy Đảng phải tiếp tục quán triệt sâu sắc
và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và
đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu; Coi trọng công tác phát triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng
trong các trường học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường
học có chi bộ; các trường đại học có đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục đào tạo phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm
trước Đảng, trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu,
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo kiện toàn bộ máy tham mưu và bộ máy
quản lý giáo dục và đào tạo; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, đặc biệt là
kiểm tra công tác chính trị, tư tưởng và việc xây dựng nền nếp, kỷ cương trong
các trường học, phát hiện và giải quyết dứt điểm các biểu hiện tiêu cực trong
giáo dục và đào tạo. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện, ban hành mới hệ thống pháp luật về giáo dục và đào tạo, các luật, nghị
quyết của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát
việc thực hiện. Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung và
ban hành mới các văn bản dưới luật; Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa
vào đội ngũ giáo viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức

đoàn thể và nhân dân địa phương để xây dựng nhà trường. Nâng cao nhận thức
về vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng
khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Nghiên
cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ với
các trường đại học công lập. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao gắn với kinh tế tri thức cho đất nước nói chung và cho từng
ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung
cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại đội ngũ trí thức. Các bộ, ngành, địa phương
xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự báo nhu cầu về số
24


lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng
và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực hiện. Phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện tượng tiêu
cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chấm dứt tình
trạng, đào tạo chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng, phát triển giáo dục đại học
quá mức như hiện nay.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo,
đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn
xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo, đặt nền
móng vững chắc cho việc xây dựng đội ngũ trí thức.
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
khôn ngoan nhất, phấn đấu ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối
thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở
giáo dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính sách học phí.Đối với giáo dục mầm
non và phổ thông, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các cơ
sở giáo dục công lập và có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm từng bước hoàn thành mục

tiêu phổ cập theo luật định. Khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài
công lập đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao ở khu vực đô thị.
Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại
học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Tiếp tục
hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc
thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được
vay để học. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài,
giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi. Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các
cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo
dục và đào tạo. Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham
gia hỗ trợ hoạt động đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối
với các loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào
tạo. Thực hiện định kỳ kiểm toán các cơ sở giáo dục - đào tạo. Giám sát chặt
chẽ, công khai, minh bạch việc sử dụng kinh phí.
Ba là, Đảng lãnh đạo các tổ chức đảng trong ngành giáo dục và đào tạo
chỉ đạo tốt việc đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đại học và sau đại
học, đa dạng hóa các loại hình đào tạo để nâng cao chất lượng, đảm bảo cơ
25


×