Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.53 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, “Mà đặc
điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa”. Công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô
cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là những
nước đang phát triển như nước ta hiện nay.
Một đất nước bị chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu
vì vậy mục tiêu chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được
đó là phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy thì công nghiệp
hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu bởi
phần lớn người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Nhiệm vụ này được Đảng
ta khẳng định bằng Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX và Nghị quyết Trung
ương 7 khóa X.Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá
toàn diện và to lớn. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với
tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Do vậy, trong giai đoạn hiện
nay chúng ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy
nguồn lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ chốt
trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Ngoài ra
phải thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng
vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và hiệu
quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn kém vừa không hiệu
quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù hợp hơn mang lại năng suất
cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng phải chú ý bảo vệ môi trường phòng
chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền
vững, đưa nền kinh tế của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên
thế giới. Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong
khu vực trên thế giới.
1



NỘI DUNG
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN CỦA CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
1. Thế nào là công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn được thế giới
định nghĩa theo nhiều cách khác nhau đó chính là một quá trình lâu dài cần được
tiến hành theo cách tuần tự không thể nóng vội và tuỳ tiện. Quá trình này được
thực hiện không nhằm mục đích tự thân mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội
của nông thôn cũng như của cả nước. Nhưng đối nước ta Đảng ta đã xác định:
công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Khái niệm công nghiệp hoá này được Đảng ta xác định rộng hơn những quan
niệm trước đó bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và
quản lý kinh tế xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp
tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao.
Như vậy công nghiệp hoá mới theo tư tưởng mới không bó hẹp trong
phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần kỹ thuật đơn thuần để chuyển
lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Hội
nghị Trung ương lần thứ VII khóa IX công nghiệp hoá nông thôn là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về công nghệ và kỹ
thuật ở nông thôn, tạo nền tảng cho việc phát triển nhanh, bền vững theo hướng
nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế
quốc dân với tốc độ cao.

2



Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là quá trình phức
tạp không đơn giản, vì vậy Đảng và Nhà nước phải đưa ra những chiến lược
bước đi cụ thể và hiệu quả. Bước đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là phải đưa phương pháp sản xuất công nghiệp, máy móc thiết bị vào sử
dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn để thay thế lao động thủ công.
Nông thôn Việt Nam luôn mang nặng tính thủ công trong sản xuất nông nghiệp
vì vậy để thay đổi tập quán, cách làm của nông dân là bước đi vô cùng khó, phải
thực hiện theo từng bước đi từ từ chậm chạp. Đưa dần phương pháp sản xuất
bằng máy móc để con người dần tiếp nhận phương pháp sản xuất này. Không
thể đột ngột thay thế phương pháp sản xuất thủ công bằng phương pháp máy
móc ngay được như thế sẽ gây ra sự lúng túng của người sử dụng cũng như
người hướng dẫn sử dụng. Người cần sử dụng máy móc lại không biết cách sử
dụng hoặc lúng túng trong cách sử dụng vì vậy gây nên sự lãng phí máy móc
thiết bị. Sau khi đưa máy móc thiết bị vào sử dụng cũng cần phải có phương
pháp quản lý hiện đại tương ứng với các loại công nghệ và thiết bị. Máy móc
khoa học là những thành tựu sáng tạo của con người, chúng không tự bảo quản,
không chống lại sự hao mòn vì vậy phải có bàn tay con người bảo quản cho nó.
Ngoài ra quản lý, sử dụng máy móc sao cho hợp lý tiết kiệm tiền của, tránh lãng
phí cũng cần phải học, phải có phương pháp khoa học hiện đại. Đó là cả một quá
trình đào tạo chính quy và có quy mô. Nhưng khi có máy móc hiện đại, trang
thiết bị được quản lý tốt mà cơ sở vật chất nghèo không phù hợp thì cũng không
có hiệu quả. Vì vậy phải tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa
máy móc thiết bị mới vào nông thôn. Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn
không có nghĩa là chỉ phát triển công nghiệp ở nông thôn mà bao gồm cả việc
phát triển toàn bộ các hoạt động, các lực lượng sản xuất dịch vụ và đời sống văn
hoá tinh thần ở nông thôn và cả nước nói chung. Công nghiệp hoá nông nghiệp
là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy
móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương

pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp và các lĩnh vực của sản xuất nông
nghiệp. Công nghiệp hoá nông thôn còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt
3


chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để
lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông
nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng.
Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải thiện tổ chức sản xuất và
hoàn thiện đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng
cao, cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ. Hiện đại hoá nông thôn không chỉ
bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ và tổ chức
trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn mà còn bao gồm cả
việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, phát triển hệ thống cơ
sở hạ tầng xã hội hệ thống giáo dục đào tạo y tế, các dịch vụ phục vụ đời sống
khác ở nông thôn. Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có
kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hoá hoàn toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ
những gì đã tạo dựng trong quá khứ cũng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ
công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc mà là tận
dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp lên ngang tầm với
trình độ thế giới.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có liên quan mật thiết với nhau,
chúng tương tác với nhau, sự khác nhau giữa chúng chỉ mang tính tương đối, vì
chúng có nội dung đan xen vào nhau, bổ sung cho nhau để mục đích cuối cùng
là đưa kinh tế nông thôn phát triển đi lên ngang tầm với thế giới.
2. Vì sao phải đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Nước ta đi từ xã hội phong kiến phát triển đi thẳng lên chế độ xã hội chủ
nghĩa mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì vậy cơ sở vật chất còn nghèo
nàn lạc hậu, phương thức quản lý lỏng lẻo yếu kém. Nhiệm vụ quan trọng nhất

bức thiết được đặt ra là phải xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội chủ
nghĩa trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học
tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên nhất thiết
4


phải tiến hành công nghiệp hoá tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
thành nền kinh tế công nghiệp.
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường
lối công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời gian quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục
tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một
xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ,
ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc
hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư có mức thu nhập thấp, nghèo đói,
sức mua hạn chế nếu không muốn nói là không thể mua nổi hàng hoá cho tiêu
dùng. Một đất nước sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp lạc hậu, canh tác trên
ruộng đất nghèo nàn, cơ sở vật chất thô sơ, tự chế tạo là chính. Đời sống phụ
thuộc nhiều vào tự nhiên, lại bị chiến tranh và xã hội phong kiến tàn phá, Đảng
và Nhà nước như bước lên từ con số không. Vì vậy nhất thiết phải tiến hành
công nghiệp hoá để tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực.
Để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng
và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Nhân tố trung tâm
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính là người lao động. Con người đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá con người

sáng tạo ra máy móc, bảo quản máy móc, con người luôn muốn nâng cao trình
độ của mình hay là nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất. Nhưng để biến
đổi về chất lực lượng sản xuất là một điều vô cùng khó khăn mà không dễ gì
thực hiện được, nhưng quá trình công nghiệp hoá lại tạo ra cơ sở vật chất để làm
biến đổi căn bản lực lượng sản xuất, nâng cao vai trò của lực lượng sản xuất nhờ
đó cũng làm nâng cao vai trò của người lao động.
5


Cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công chính là khối liên minh vững
chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức. Nhưng
khối liên minh này cần phải được củng cố và phát triển đi lên chứ không thể chỉ
là khối ô hợp. Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển là nhờ thành tựu công
nghiệp hoá mang lại, là cơ sở kinh tế để càng gia cố vững chắc thêm khối liên
minh. Ngoài ra quá trình công nghiệp hoá đã góp phần tăng cường quyền lực,
sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước. Quá trình công
nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững
mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự công
nghiệp hoá đất nước thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển,
thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập
trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng các miền trở lên thống nhất cao
hơn.
Công nghiệp hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện
đại hoá nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với
sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội. Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra
tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá xã hội,
quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế
quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được

coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn nước ta
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp
chế biến và thị trường, thực tiễn cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng
các thành tựu khoa học công nghệ trước hết là nông nghiệp nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng hiệu qủa, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường.
6


Ngoài ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp cũng chính là phát triển lực
lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở thực
hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công
nghệ hiện đại.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao
động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc tức là phải cơ khí hoá
nền kinh tế quốc dân. Nền nông nghiệp với kỹ thuật thủ công, lao động chân tay
thì không thể gọi là nền nông nghiệp phát triển được, nhất là nền nông nghiệp đó
lại phải gánh trên vai cả một nền kinh tế. Nông nghiệp lạc hậu làm cho đời sống
của nhân dân nghèo đói bởi kinh tế Việt Nam sống dựa chủ yếu vào nông
nghiệp, 80% dân cư làm nông nghiệp đã khiến cho đất nước càng ngày càng thụt
lùi không phát triển. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu là phải
chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp
đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp hoá. Nhưng cách mạng công
nghiệp không chỉ là chuyển đổi cơ cấu thủ công sang cơ khí mà phải gắn liền
với điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng nước và trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Ngoài ra thị trường cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong lĩnh
vực tiêu thụ hàng hoá nông sản phẩm. Vì vậy phải thúc đẩy hình thành và mở
rộng các loại thị trường bao gồm thị trường sản phẩm, ngoài ra còn phải có các

loại thị trường như thị trường vốn, lao động, công nghệ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao
động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao
động các ngành công nghiệp. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy
hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nền dân chủ công bằng, văn
minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông
thôn. Đất nước ta phần lớn là lao động trong nông nghiệp cơ cấu khu vực I quá
lớn trong khi đó khu vực II lại quá nhỏ bé. Lao động trong nông nghiệp dư thừa
thường không biết làm gì dẫn đến lãng phí tài nguyên con người. Vì vậy mục
7


tiêu chính quan trọng nhất là phải thu hẹp lực lượng sản xuất trong nông nghiệp
bằng cách đưa máy móc thiết bị vào thay thế một số vị trí lao động của con
người. Máy móc hiện đại làm tốn ít nhân lực hơn, con người lao động cũng được
giảm bớt khối lượng công việc từ đó tăng nhanh lực lượng lao động của các
ngành công nghiệp và dịch vụ.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn
bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp cũng là nội dung chính của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn. Nếu chỉ biết đưa máy móc thiết bị hiện đại vào trong sản xuất nông
nghiệp thì sẽ làm hỏng, lãng phí máy móc khi cơ sở hạ tầng không phù hợp. Vì
vậy song song với cải tiến máy móc thiết bị là xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ
và hiện đại. Nhưng phát triển nông thôn không chỉ là sự phát triển đại trà tất cả
các vùng, miền mà phải chọn ra từng khu vực trọng điểm. Những khu vực trọng
điểm phải phù hợp với từng ngành như nông, lâm, thuỷ sản từ đó có những
chiến lược phát triển những ưu điểm từng vùng để những ưu điểm đó phát huy
phát triển các ngành nghề. Các ngành nghề được ưu tiên phát triển nhất là các

ngành nghề thủ công gia truyền nhưng vấn đề môi trường cũng lại được đặt ra
cấp thiết. Một ví dụ đơn giản là làng gồm Bát Tràng, là một làng nghề cổ truyền
lâu đời, sản phẩm hàng hoá được bán rộng rãi nhưng vài năm trước khi chưa áp
dụng phương pháp nung bằng gas mà nung gốm bằng than gây nên ô nhiễm cho
cả một vùng rộng lớn. Nếu biện pháp nung gốm bằng gas không kịp thời ra đời
thì cả làng nghề sẽ bị ô nhiễm bởi khói than và bụi gây nên căn bệnh về phổi.
Bởi vậy phát triển nông thôn bảo vệ làng nghề cũng phải song hành với bảo vệ
môi trường sinh thái. Có như thế mới vậy dụng được một nền dân chủ, công
bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân
dân ở nông thôn.

8


B. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nước ta hiện
nay.
Đối mặt với thực trạng nông nghiệp nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước
ta đã nhận ra một số mặt yếu kém, một số thực trạng vẫn tồn tại song hành cùng
với sự phát triển của nông thôn. Hiện nay sản xuất nông nghiệp ở nước ta phổ
biến còn trong tình trạng phân tán, đơn lẻ, thiếu sự phối hợp nên chất lượng sản
phẩm không đồng nhất, thu gom và vận chuyển khó khăn giá thành cao. Trong
cùng một sản phẩm luôn có sự cạnh tranh, sự tranh chấp về lợi ích giữa người
sản xuất, thu gom với người chế biến, tiêu thụ và người chịu thiệt cuối cùng lại
chính là người nông dân. Đó cũng chính là sự bất cập trong nền kinh tế thị
trường hiện nay. Cho đến nay trình độ công nghiệp nông thôn còn ở trạng thái
manh nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn ở trạng thái manh nha, yếu ớt, kinh tế
nông thôn còn nặng tính thuần nông. Những khảo sát của những thập kỷ gần
đây, ở nhiều vùng của đất nước cho thấy cơ cấu lao động trong nông nghiệp hầu
như không thay đổi. Ngoài ra do cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp kéo

dài làm cho không ít người lao động đã quen với tâm lý ỷ lại, trông chờ thiếu
nhạy bén khi phải đối mặt với việc làm và thu nhập khi chuyển sang kinh tế thị
trường.
Về phương diện quản lý tổng thể nền kinh tế, các chính sách công nghiệp
hoá hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa nông thôn
và thành thị. Trong nhiều thập kỷ, chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng trên thực tế chưa có tác động tích cực cho việc tăng cường mối liên kết
giữa thành thị và nông thôn. Trong những giải pháp tiến hành, chưa đặt đúng vai
trò ngành nghề và công nghiệp nông thôn như một khâu trung gian để qua đó
thực hiện chuyển giao công nghệ, một mặt công nghiệp tác động vào nông
nghiệp, mặt khác các hoạt động nông nghiệp hoặc mang tính nông nghiệp có thể
chuyển dần sang công nghiệp. Có thể nói đây chính là khuyết tật cơ cấu cả về
phương diện ngành lẫn lãnh thổ, là khâu ách tắc của quá trình công nghiệp hoá.
9


Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân hạn chế khiến sau nhiều thập kỷ tiến hành
công nghiệp hoá đến nay về cơ bản Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp
mang tính tự cung tự cấp. Nếu thời gian tới thiếu những thể chế và giải pháp
thiết thực thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn phát triển, thì tăng trưởng kinh tế
nông thôn và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ khó có sự phát triển bền vững.
Nghiên cứu nhiều vùng cụ thể ở nhiều vùng cũng cho thấy, công nghiệp
nông thôn ở Việt Nam có trình độ công nghệ và dịch vụ thấp hơn rất nhiều so
với thành phố.Trên thực tế công nghiệp được xây dựng ở nông thôn hiện nay
chủ yếu dùng công nghệ cũ được thải loại từ các vùng đô thị mang vào. Là một
bộ phận của kinh tế nông thôn, hoạt động của công nghiệp nông thôn chịu tác
động của sản xuất nông nghiệp mang tính chu kỳ, việc cung cấp nguyên liệu và
sử dụng lao động trong năm có sự biến động khá lớn. Số lượng làm việc trong
các cơ sở công nghiệp nông thôn phụ thuộc vào thời vụ, nếu vào vụ mùa hoặc đi
cấy, đi gặt lực lượng lao động giảm mạnh rõ rệt. Người nông dân luôn coi công

việc chính của mình là làm ruộng vì vậy khó có thể bảo họ đi làm khi công việc
làm ruộng chưa làm xong. Cũng tương tự như vậy nguyên liệu cung ứng cho các
cơ sở chế biến liên quan chặt chẽ với thời kỳ thu hoạch cây trồng lương thực
thực phẩm chỉ tồn tại theo từng mùa của nó, vì vậy các cơ sở chế biến nông sản
phẩm cũng phải hoạt động tương tự như vậy. Nhà máy, công nhân phải làm việc
hết công suất khi vụ thu hoạch tới gần, còn lại phải làm việc cầm chừng khi qua
mùa thu hoạch. Do vậy không ít hộ gia đình nông thôn phải dành toàn bộ thời
gian của lao động gia đình cho hoạt động nông nghiệp trong lúc thời vụ khẩn
trương.
Do thiếu vốn đầu tư sản xuất mà khả năng của người nông dân cũng có
hạn do không được đào tạo một cách chính quy và cơ bản nên ở hầu hết các địa
bàn nông thôn các quá trình sản xuất và chế biến đều trải qua nhiều công đoạn
nhỏ và phân tán. Sản xuất theo quy mô nhỏ, đơn sơ, thủ công là chính thì các hộ
gia đình khó có điều kiện có được công nghệ tinh chế tốt nhất bởi vậy chất
lượng sản phẩm mới trở nên thấp kém, không đủ tiêu chuẩn phân phối trong
nước hoặc xuất khẩu ra nước ngoài. Ngoài ra nếu sản phẩm được mang ra xuất
10


khẩu cũng chỉ được bán với giá rẻ mạt, chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam
mới thường xuyên bị kiện bán phá giá.
Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả chất lượng nhưng nó cũng chỉ là một
trong những yếu tố quyết định sự thành công của các doanh nghiệp, ngoài ra còn
một yếu tố vô cùng quan trọng nữa đó là giá thành sản phẩm. Giá thành của một
sản phẩm còn được coi là yếu tố cơ bản nhất trong cạnh tranh giữa các công ty
với nhau. Các doanh nghiệp khi muốn tăng lợi nhuận kinh doanh, tăng khối
lượng sản phẩm bán ra nhưng khách hàng lại cực kỳ khó tính. Họ luôn muốn
mua được những hàng hoá rẻ nhất, chất lượng thì tốt nhất, vì vậy phá giá thành
là đánh đúng tâm lý của người tiêu dùng. Nhưng không phải cứ giảm thật mạnh
giá mà không quan tâm tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Giảm giá quá thấp thì

chỉ bán được sản phẩm nhiều thì doanh nghiệp cũng không thể có lãi. Đối với
các doanh nghiệp ở nông tôn thì cách giảm giá duy nhất chỉ có thể là cải tiến
trong lĩnh vực sản xuất. Phân định rõ và kết hợp hài hoà các tầng lớp công nghệ
trong tổ chức sản xuất sẽ tạo thuận lợi để xác định quy mô vùng nguyên liệu gắn
liền với việc sơ chế và kinh tế tập trung. Như vậy doanh nghiệp sẽ tiết kiệm một
lượng chi phí dùng cho vận chuyển hao mòn máy móc ngoài ra còn tạo được
việc làm cho số lao động nông thôn, đồng thời với nâng cao chất lượng và hạ giá
thành nông sản.
Một trong những tình trạng chung của công nghiệp nước ta hay nói cách
khác là những nước đang phát triển đó là mới bước đầu đi vào quá trình phát
triển đất nước phát triển nền kinh tế nên quá trình phát triển đó còn mang nặng
tính tự phát, phân tán tuỳ tiện với quy mô thì nhỏ bé. Vì vậy càng làm cho quá
trình công nghiệp hoá nông thôn trở nên khó khăn hơn. Do dân trí của con người
nông thôn thấp, không được đào tạo cụ thể để có những hiểu biết nhất định nên
hậu quả tất yếu là càng phát triển mạnh công nghiệp nông thôn thì mức độ ô
nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng. Chất thải công nghiệp không được
xử lý được thải bừa bãi ra môi trường, sông ngòi gây nên ô nhiễm ngày một trở
nên trầm trọng hơn. Hoá chất không được xử lý đổ thẳng ra ngoài lỗi chủ yếu là
do ý thức của con người quá kém. Tự họ tự chọn cho mình một cuộc sống đầy
11


bệnh tật nghèo đói. Lúc nào cũng đối mặt với nguy cơ nhiễm các bệnh hiểm
nghèo, càng ngày sự ô nhiễm càng trở nên trầm trọng vượt quá tầm kiểm soát
của con người. Nhưng đứng trước thảm hoạ sinh học như vậy con người lại thản
nhiên cho qua, tiếp tục những hành động phá huỷ môi trường mà không chút do
dự hay phàn nàn. Tín hiệu SOS báo động đang rung lên cảnh báo những con
người đang hàng ngày phá huỷ môi trường tự nhiên.
Mặt khác Nhà nước cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình
công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nhưng do chưa được sự quan tâm giúp

đỡ có hiệu quả vì vậy mà nông thôn vẫn chưa tiếp cận được với trình độ phát
triển của thành thị. Chính phủ luôn kêu gọi các vùng tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư, đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình công nghiệp
hoá. Những chính sách khuyến khích mà các vùng đưa ra cũng không thu hút
được tiềm năng đầu tư ở bên ngoài. Ngoài ra một số vùng còn mất trật tự an
ninh an toàn cho người lao động cho công nhân vì vậy sẽ gây tâm lý lo ngại cho
những nhà đầu tư muốn đầu tư vào phát triển công nghiệp. Có rất nhiều nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư, vì vậy làm sao để huy động được nguồn vốn đó là cả
quá trình lâu dài tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Khi các nhà đầu tư trở nên tin
tưởng thì họ sẵn sàng đầu tư nguồn vốn của mình khi đó vừa phát triển được
công nghiệp của vùng đó lại vừa tạo điều kiện việc làm cho lao động dư thừa rỗi
trong vùng.
Trong những thập kỷ gần đây Việt Nam đã có những bước đi quan trọng
đưa nền kinh tế phát triển đi lên. Nhưng song hành cùng với đó là những khó
khăn, những sai lầm cần phải khắc phục. Vấn đề trọng tâm là phải có một chính
sách phù hợp để đưa đất nước phát triển đi lên sánh tầm cùng với các nước trên
thế giới. Một số thành tựu to lớn của các nước trong khu vực đã cho Việt Nam
rất nhiều kinh nghiệm quý báu phục vụ đắc lực cho nền kinh tế Việt Nam. Như
Trung Quốc là một ví dụ điển hình bởi Trung Quốc là quốc gia đất rộng, người
đông nhưng họ lại có những thành tựu to lớn về nông nghiệp trong thời kỳ cải
cách. Đó là sự phát triển của công nghiệp thành thị và công nghiệp nông thôn.
Trong thời kỳ cải cách, công nghiệp nông thôn mang đặc thù Trung Quốc phát
12


triển mạnh đã thu hút 100 triệu lao động nông thôn, tạo ra giá trị sản phẩm công
nghiệp nông thôn vượt giá trị sản lượng nông nghiệp, làm cho nhiều làng quê trở
nên giàu có trù phú. Từ đó ta có thể thấy rằng, trong điều kiện đặc thù của các
nước châu Á, nông nghiệp thực sự là điểm tựa của công nghiệp hoá nông thôn.
Để phát triển công nghiệp hoá nông thôn, các nước như Nhật Bản, Đài Loan,

Hàn Quốc và ngay cả Trung Quốc đã đẩy mạnh cơ giới hoá hiện đại hoá nông
nghiệp và đã thành công trong lĩnh vực này họ đã sáng tạo ra thiết bị công nghệ
thích hợp với phương thức sản xuất lúa Châu Á và với quy mô trang trại gia
đình nhỏ bé. Các nước này đã đưa công nghiệp vào nông thôn, tăng thu nhập
cho nông dân tạo ra nguồn vốn đầu tư cho cơ giới hoá, các nước này còn tìm
cách tạo việc làm tại chỗ để thu hút lao động thừa, nhất là do cơ giới hoá tạo ra.
Các thành tựu mà các nước đi trước để lại là những kinh nghiệm quý báu cho
một nước nhỏ như Việt Nam học tập. Cố gắng ứng dụng vào đất nước để đạt
được những thành tựu như vậy là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
2. Các chủ trương và giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
a. Về chủ trương.
Để đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,
Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu tổng quát và lâu dài là xây dựng một
nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông
thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày
càng hiện đại.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
quyết định phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 là cơ bản trở thành một nước
công nghiệp. Để thực hiện được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra những
mục tiêu phù hợp với tình hình đất nước. Đầu tiên phải phát triển toàn diện
13


nông lâm ngư nghiệp, hình thành nên các vùng tập trung chuyên canh có cơ cấu
hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng tốt về
chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội đáp ứng được yêu cầu

của công nghệ chế biến của thị trường trong và ngoài nước. Ngoài ra phải phát
triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, với công nghệ ngày càng cao gắn
với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Bên cạnh đó phải
phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao
gồm: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp,
các loại hình dịch vụ, phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội cũng phải được xây dựng, củng cố và đổi mới, từng bước hình
thành nông thôn mới văn minh và hiện đại.
Định hướng cuối cùng đó là hoàn thành cơ bản việc giao đất giao rừng
cho hộ nông dân. Có chính sách hợp lý trợ giúp, khuyến khích nông dân giải
quyết khó khăn về vốn, giá cả vật tư nông nghiệp, thị trường tiêu thụ sản phẩm
việc Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra định hướng lớn có tính chất chiến lược và
những nội dung cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nước ta
trong thời gian phát triển kinh tế xã hội đất nước, là một trong những tiền đề có
ý nghĩa quyết định đối với nước ta khi tiến vào thế kỷ XXI.
b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn nước ta hiện nay
Để hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn, khắc phục những khó khăn trước mắt, Đảng và Nhà nước đã đưa ra những
giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn.
Đầu tiên phải phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn. Đối với cây lương thực phải xây dựng các vùng sản xuất lúa tập
trung ở các khu vực đồng bằng rộng lớn, sử dụng các giống mới có năng suất
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường, áp dụng các biện pháp đồng bộ
để hạ giá thành và đảm bảo chất lượng. Đối với cây công nghiệp, thực phẩm
14


phải thường xuyên nghiên cứu các loại công nghệ sinh học tiên tiến để lai tạo và

nhân giống để sản xuất ra giống cây trồng có năng suất chất lượng cao cung ứng
đủ cho nhu cầu sản xuất, thực hiện cơ giới hoá các khâu sản xuất trước hết là
khâu nặng nhọc, độc hại, thời vụ khẩn trương, cơ giới hoá các khâu sau thu
hoạch để nâng cao năng suất lao động, phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến
gắn với vùng nguyên liệu. Hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở ngành
nghề thôn thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến, thực hiện cơ khí hoá các
khâu sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng, hạ giá thành để có khả năng
cạnh tranh tốt trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhà nước cũng đóng một
phần vô cùng quan trọng khi đưa ra những chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát
triển mạnh các ngành công nghiệp về nông thôn để thu hút và thực hiện việc
phân công lao động ngay trên địa bàn, trước hết là các ngành sử dụng nguyên
liệu tại chỗ, cần nhiều lao động như: chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất vật
liệu xây dựng…. Hình thành ngay từ đầu các khu công nghiệp ở nông thôn gắn
kết ngay từ đầu lợi ích kinh tế giữa người sản xuất nguyên liệu với các cơ sở thu
mua chế biến kinh doanh nông lâm thuỷ sản.
Phải xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp kinh tế hộ nông dân và
nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn. Mọi thành phần kinh tế đều có vai trò quan
trọng và đều được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần
tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ gia đình phát triển, quy mô sản xuất
hàng hoá ngày càng lớn và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích hỗ trợ và
tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở liên kết hợp tác tự nguyện
giữa các hộ gia đình và các trang trại bằng nhiều hình thức, nhiều quy mô nhiều
cấp độ đa dạng để nâng cao hiệu quả kinh tế hộ gia đình và kinh tế xã hội nông
thôn. Hợp tác xã phải tập trung tìm đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp,
tổ chức thực hiện tốt việc quy hoạch và hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học
công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo
cán bộ và có chính sách thuế phù hợp đối với các hoạt động dịch vụ. Phát triển
quỹ tín dụng nhân dân ở xã để phát triển nông nghiệp nông thôn. Khuyến khích
15



kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các ngành nghề truyền thống đa
dạng và phong phú. Đây là lực lượng quan trọng có khả năng thu hút được nhiều
lao động, tăng năng lực chế biến tiêu thụ nông sản, dịch vụ kỹ thuật và đời sống
nông thôn. Cần có chính sách phù hợp và bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác nhau, nhất là các chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng…
Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thôn. Nhà nước ưu tiên phát
triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tài nguyên nước, khai thác lưu vực
sông để cấp nước cho sản xuất nông nghiệp nuôi trồng thuỷ sản, phòng chống và
giảm nhẹ thiên tai. Trong xây dựng và quản lý các công trình thuỷ lợi, áp dụng
các công nghệ tiên tiến, công nghệ tưới kết kiệm nước thực hiện xã hội hoá đầu
tư và quản lý công trình thuỷ lợi, phát triển các tổ chức hợp tác sử dụng nước và
quản lý thuỷ nông của nông dân.
Nhà nước cũng phải có các chính sách thoả đáng cùng với các địa phương
và đóng góp của dân phát triển nhanh hệ thống giao thông nông thôn đảm bảo
hàng hoá và đi lại cho dân. Nâng cấp tuyến đường đã có nơi giao thông là cầu
nối thôn với thành thị, phải có giao thông thuận lợi thì việc vận chuyển hàng hoá
từ vùng này tới vùng kia mới được cải thiện rõ rệt, từ đó hình thành nên các
vùng công nghiệp lớn ở nông thôn. Ngoài ra điện cũng đóng vai trò vô cùng
quan trọng để vận hành máy móc, thiết bị vì vậy phải phát triển hệ thống điện
nông thôn các dịch vụ bưu chính viễn thông và các điểm văn hoá đến hầu hết
các xã, cung cấp có hiệu quả chất lượng cao cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở
nông thôn.
Công tác quy hoạch phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu bởi công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn phải được tiến hành theo từng vùng để
phát triển theo một hướng cụ thể; chứ không thể phát triển một cách nhỏ lẻ theo
từng quy mô gia đình nhỏ. Đặc biệt phải chú trọng làm tốt các quy hoạch vùng
sản xuất hàng hoá tập trung theo hướng sản xuất lớn. Ngoài ra phải có một chính
sách thoả đáng để quy hoạch cơ sở hạ tầng và đô thị, quy hoạch bố trí lại dân cư,

xây dựng làng xã nhưng phải gắn với bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn
16


hoá dân tộc. Nhiệm vụ của các cấp chính phủ được đặt ra hết sức nặng nề khi
phải làm tốt quy hoạch, định hướng phát triển, chuyển giao khoa học công nghệ,
đào tạo nhân lực, phát triển các dịch vụ công cộng đảm bảo ổn định chính trị, an
ninh trật tự xã hội, chỉ có như thế mới thu hút được đầu tư vào các vùng ở nông
thôn.
Nước ta là một nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, kinh phí không đủ
để theo đuổi các dự án nghiên cứu khoa học vì vậy phải đẩy mạnh việc nghiên
cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ và coi đây là khâu đột phá
quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đổi mới cơ chế
quản lý khoa học, nhất là cơ chế quản lý tài chính và nhân sự để nâng cao hiệu
quả kinh tế. Nhà nước phải có chính sách đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa
học nông nghiệp để sớm hiện đại hoá hệ thống sản xuất đáp ứng tốt yêu cầu sản
xuất hàng hoá lớn chất lượng cao, tạo điều kiện hình thành các trung tâm nghiên
cứu khoa học ứng dụng mạnh có đủ năng lực để đưa ra những đột phá về khoa
học công nghệ. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
phát triển khoa học công nghệ. Nhà nước dành phần kinh phí thoả đáng để nhập
khẩu công nghệ tiến bộ của nước ngoài, nhất là các loại giống mới, máy móc
thiết bị… phục vụ kịp thời sản xuất.
Thực hiện một số chính sách liên quan trực tiếp đến phát triển nông
nghiệp nông thôn các chính sách về đất đai như Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi để nông dân thực hiện đầy đủ các quyền về đất đai, sử dụng đất đai, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất… các chính sách về đầu tư như Nhà nước phải biết
cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư thích đáng để phát triển nông lâm, ngư
nghiệp và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp nông thôn. Ngoài ra Nhà nước phải thực hiện các

chính sách về tín dụng, các chính sách về thuế, về lao động và việc làm, về
thương mại và hội nhập kinh tế.

17


Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn không chỉ là sự
nghiệp riêng cá nhân ai khác mà là sự nghiệp của toàn Đảng toàn dân, của các
thành phần kinh tế. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo
điều hành tổ chức thực hiện sâu sát cụ thể quyết liệt của Chính phủ và các cấp,
các ngành. Phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước để thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

18


KẾT LUẬN
CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là con
đường tất yếu để đưa nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu
tiến lên một nước phát triển, hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh.
Ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã
xác định được mục tiêu chính của đất nước là hoàn thành quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước trong đó công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn là
một mắt xích vô cùng quan trọng. Nó đã xoá đi ranh giới khoảng cách giữa
thành thị, nông thôn, nối liền kinh tế các vùng với nhau. Trong nhiều năm nền
kinh tế đã đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng đưa nền kinh tế đất
nước tiến lên thoát khỏi đói nghèo từng bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ

thuật hiện đại. Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những khó khăn vất vả, những
vướng mắc yếu kém nhất định. Xác định đúng những tồn tại để khắc phục tồn
tại đó dần dần hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Các
chính sách được Chính phủ đưa ra càng củng cố hơn quyết tâm xây dựng một
nông thôn vững mạnh. Một nền nông nghiệp cơ khí hoá, điện khí hoá, là điểm
tựa vững chắc cho nền công nghiệp hoá toàn đất nước phát triển đi lên. Dần dần
đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển xứng tầm với các nước trong khu
vực và trên toàn thế giới. Đó là mong muốn không chỉ của Đảng, Nhà nước mà
là của toàn dân tộc.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin Nhà xuất bản chính trị quốc
gia - 2004.
2. Văn kiện Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ VIII Nhà xuất bản chính
trị quốc gia
3. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Số 1/2001 và Số 2/2001.
4. CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
NXB chính trị quốc gia
5. Thực trạng CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam NXB thống
kê Hà Nội

20



×