Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đề bài: Tại sao tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện cơ cấu kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
ĐỀ CƯƠNG
I/ Cơ sở lý luận của luận điểm:
1/ Cơ sở lý luận về kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
1.1/Lực lượng sản xuất ( LLSX): Tư liệu sản xuất và người lao động
=> LLSX, trình độ phát triển của LLSX phản ánh tính sáng tạo của lịch sử.
Nhân tố người lao động có vai trị quyết định
1.2/Quan hệ sản xuất: nhấn mạnh vấn đề sở hữu TLSX là quan trọng nhất.
=>Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX phải phù hợp.
2/ Cơ sở hình thành thời kì quá độ
2.1/Theo Mác và Ăng ghen: khẳng định rằng cần có 1 thời kì quá độ từ xã hội
tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.
2.1/Theo Lê nin, cần có thời kì này vì:
• cần để chuyển từ chế độ tư hữu về TLSX sang chế độ công hữu về TLSX
• xây dựng quan hệ sx mới
*Đặc điểm thời kì này: sự tồn tại của những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh
những nhân tố mới của CNXH.
• tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, được xác lập trên cơ sở khách quan
của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về TLSX với những hình thức tổ
chức kinh tế đa dạng
• kết cấu giai cấp XH cũng đa dạng , phức tạp: giai cấp công nhân, nông
dân, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản: họ vừa hợp tác, vừa đấu
tranh.
=> Quá độ của Mác là quá độ trực tiếp từ các nước tư bản phát triển( phản ánh
quy luật tuần tự của xã hội loài người).
Quá độ của Lê-nin: các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩ nhưng phải qua con đường gián tiếp.
II/ Kinh nghiệm các nước ( Liên Xơ)
1/Hồn cảnh lịch sử: Điều kiện lúc đó xây dựng 1 chế độ mới rất khó khăn,
kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới 1.
1918-1920: chính sách cộng sản thời chiến
1921: Đại hội Đảng Cộng sản Nga, Lê nin đề ra chính sách NEP
2/ Nội dung: +vận dụng tư tưởng về sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, Lê
nin phân tích kết cấu nền kinh tế Nga lúc đó gồm 5 thành phần xếp theo trình
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
độ phát triển thấp đến cao: kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, kinh tế hàng hóa
nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế xã hội chủ nghĩa.
• khơi phục và phát triển sx hàng hóa thơng qua trao đổi sản phẩm giữa
nông và công ( không thể dựa vào nền nơng nghiệp gia trưởng mang tính
tự cấp tự túc mà phải dựa vào nền nông nghiệp hàng hóa)
• sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp( kinh tế tư
nhân được phục hồi, công nghiệp quốc doanh được củng cố)
3/Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
• tạo đk cho LLSX phát triển phù hợp với QHSX
• xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
III/ Thực tiễn Việt Nam
3.1.Nền NN lạc hậu, LLSX 80% là lao động trong nơng nghiệp.
LLSX với trình độ thủ cơng, tính chất cá nhân hóa
3.2.Quan hệ sản xuất: phong kiến, chiếm hữu tư nhân
3.3.Nước ta tiến lên CNXH không kinh qua CNTB
3.4.Nước ta xây dựng CNXH trong điều kiện vừa có hịa bình, vừa có chiến
tranh.
IV/ Nội dung, quan điểm của Hồ Chí Minh
4.1. Xuất phát từ thực tiễn 3.1, HCM chủ trương xây dựng kinh tế hợp tác xã
4.2. Xuất phát từ thực tiễn 3.2, Người chủ trương quan hệ sản xuất phải được
xây dựng trên sự phát triển của LLSX . Thời kì quá độ ở VN có 3 loại hình sở
hữu và tạo dựng những quan hệ sản xuất mới ( HCM nhấn mạnh vấn đề xây
dựng).
4.3. Xuất phát từ thực tiễn 3.3, nói nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ
TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước ta sẽ khơng có 1 giai đoạn nào đó
giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị
trong nền kinh tế quốc dân
4.4. Xuất phát từ thực tiễn 3.4, chúng ta phải thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược:
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
V/ Giá trị của luận điểm:
_ Trước 1986, ta nhận thức sai ở mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Theo quan
điểm đó, Nhà nước Việt Nam cho rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế của chủ
nghĩa tư bản và hoạt động không tốt. Nền kinh tế mang nặng tính quan liêu, bao
cấp.
_ Vì vậy tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã họp và
thơng qua chương trình đổi mới kinh tế. Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại hội
Đảng VI năm 1986, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ
tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát
triển mới cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp theo hướng hiện đại.
BÀI LÀM
I/ Cơ sở lí luận của luận điểm
1/ Cơ sở lí luận của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
1.1/ Lực lượng sản xuất( LLSX) : Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào
cũng cần phải có các nhân tố thuộc về người lao động (năng lực, kĩ năng, tri
thức…) cùng các tư liệu sản xuất nhất định ( như đối tượng lao động, công cụ
lao động,..). Tồn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất (LLSX) của
các quá trình sản xuất. Như vậy, LLSX chính là tồn bộ các nhân tố vật chất, kĩ
thuật của quá trình sản xuất , là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo
đó có tính lịch sử. Cũng do đó, trình độ phát triển của LLSX phản ánh trình độ
chinh phục giới tự nhiên của con người : trình độ thủ cơng của LLSX phản ánh
trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với LLSX ở trình độ kĩ
thuật công nghiệp và công nghệ cao.
Trong các nhân tố tạo thành LLSX thì nhân tố “ người lao động” là nhân tố
giữ vai trị quyết định. Bởi vì suy đến cùng thì các TLSX chỉ là sản phẩm lao
động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các TLSX phụ
thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động.
LLSX là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của q trình
sản xuất; khơng một q trình sản xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu thiếu
một trong hai nhân tố là người lao động và TLSX. Thế nhưng chỉ có LLSX vẫn
chưa thể diễn ra q trình sản xuất hiện thực được mà cịn cần phải có những
quan hệ sản xuất đóng vai trị là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy.
1.2/Quan hệ sản xuất( QHSX): là mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu với TLSX là nội dung quan
trọng nhất. Bản chất của bất cứ kiểu quan hệ sản xuất nào trước hết cũng là do
hình thức sở hữu TLSX quyết định, nghĩa là do tình hình TLSX nằm tròn tay ai
quyết định. Quan hệ sử hữu là mối quan hệ cơ bản nhất của quan hệ sản xuất,
nó quyết định tính chất của chế độ xã hội. Trong xã hội tư bản và các hình thái
xã hội đối kháng khác, hai yếu tố của sản xuất- tư liệu sản xuất và sức lao độngtách rời nhau, chúng đối lập nhau vì có chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX.
Còn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, được xây dựng trên chế độ sở hữu công
cộng về TLSX- những người lao động đồng thời cũng là những người chủ
TLSX. Do đó sự kết hợp giữa TLSX và sức lao động là sự kết hợp trực tiếp,
mối quan hệ lao động là mối quan hệ tự do, bình đẳng về chiếm hữu tư liệu sản
xuất, về quyền lợi và nghĩa vụ lao động. Sở hữu là 1 pham trù kinh tế. Nó tồn
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tại trong mọi giai đoạn của lịch sử sản xuất xã hội. Nhưng mỗi hình thái kinh tế
xã hội có 1 hình thức sở hữu riêng. Mọi sự phát triển mới của LLSX đều có hậu
quả là sự cải tiến mới của phân công lao động mà những giai đoạn phát triển
khác nhau của phân cơng lao động, đồng thời là những hình thức sở hữu khác
nhau. Theo sự phát triển của chủ nghĩa Mác, hình thức sở hữu này khác hình
thức sở hữu kia ở chỗ người chiếm hữu tư liệu sản xuất là tư nhân hay xã hội và
ở chỗ quan hệ xã hội giữa người với người trong xã hội đó như thế nào. Mỗi
hình thức sở hữu có một nội dung và đặc điểm riêng, do sự phát triển của LLSX
quyết định.
Ở nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, q trình sản xuất ngày càng chun
mơn hóa, LLSX đã mang tính chất xã hội nhưng hình thức chiếm hữu tư nhân
đã làm bộc lộ ngày càng nhiều sự gay gắt. Chế độ sở hữu tư bản tư bản chủ
nghĩa tất nhiên phải bị chế độ sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa lấy việc xã hội
hóa TLSX làm tiền đề thay thế, có như vậy hình thức chiếm hữu mới phù hợp
với tính chất của nền sản xuất xã hội hóa.
Trong q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, mọi mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản kìm hãm sự phát triển của sản xuất xã hội bị xóa bỏ, chế độ tư hữu
bị thủ tiêu, chế độ công hữu được xác lập, làm cho chế độ sở hữu phù hợp với
LLSX- quá trình chuyển biến chế độ tư hữu thành chế độ cơng hữu là một q
trình lâu dài- nó khơng kết thúc ngay sau khi giành chính quyền mà phải là một
quá trình bao trùm cả một thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. So với việc giành chính quyền thì q trình đó lâu dài hơn và cũng khơng
kém phần gay go phức tạp vì nó khơng phải chỉ vấn đề tước đoạt TLSX mà đây
là vấn đề công hữu hóa TLSX. Việc đó đụng chạm lợi ích của nhiều giai cấp, kể
cả đông đảo quần chúng lao động trước đây cũng sống trên cơ sở chế độ công
hữu. Do có những sự thay đổi to lớn trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa xây dựng trên cơ
sở chế độ công hữu về TLSX được xác lập. Con đường phát sinh và phát triển
của chế độ sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa cũng căn bản khác chế độ sở hữu tư
bản chủ nghĩa. Sở hữu TBCN ra đời trong quá trình nhờ vào bạo lực tước đoạt
những người tiểu sản xuất, nhờ chiến tranh cướp bóc thuộc địa...Sau khi ra đời
nó phát triển trên cơ sở bóc lột cơng nhân, nơng dân cùng những giai cấp lao
động khác và cả trên cơ sở tước đoạt lân nhau theo quy luật tích tụ và tập trung
tư bản. Sở hữu XHCN ra đời bằng con đường khác hẳn. Đối với sở hữu tư bản
tư nhân thì hoặc là tịch thu quốc hữu hóa hoặc là cải tạo hịa bình bằng cách
chuộc lại và biến thành sở hữu nhà nước XHCN, còn đối với những người tiểu
sản xuất hàng hóa thì dùng con đường tự nguyện hợp tác để đi đến sở hữu
XHCN do đó sở hữu XHCN có 2 hình thức: tồn dân và tập thể.
2/ Cơ sở hình thành thời kì quá độ:
2.1/Theo Mác và Ăng ghen : Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển từ
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thấp lên cao, từ giai đoạn xã hội chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa, cần
có 1 thời kì q độ từ xã hội nọ sang xã hội kia. Mác nói đến con đường quá độ
ở các nước tư bản phát triển cao, cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH đã được
chuẩn bị tương đối đầy đủ.
Đặc điểm thời kì quá độ: Về quan hệ sở hữu: Mác và Ăng ghen nhấn mạnh
rằng khi chế độ TBCN bị lật đổ, chế độ tư hữu vẫn cịn tồn tại. Vì vậy việc cải
tạo những quan hệ sản xuất TBCN, trong đó việc cải tạo và đi đến xóa bỏ chế
độ tư hữu là 1 quá trình dần dần. Sự tồn tại của những yếu tố xã hội cũ bên cạnh
những nhân tố mới của XHCN là không tránh khỏi. Nền kinh tế nhiều thành
phần tồn tại lúc này được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại
hình sở hữu về TLSX với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng. Mác và Ăng
ghen luôn nhắc nhở rằng trong thời kì quá độ, việc thiết lập quan hệ sở hữu
cơng cộng và nền sản xuất có kế hoạch, cũng giống như việc cải tạo và xóa bỏ
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phải là 1 quá trình dần dần, từng bước và
phải biết sử dụng những hình thức, những giai đoạn trung gian thích hợp.
Chẳng hạn, việc áp dụng chế độ hợp tác đã được đã được Ăng ghen diễn giải là:
trong bước quá độ lên nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa đầy đủ, cần áp dụng nền
sản xuất hợp tác xã coi như 1 giai đoạn trung gian trên quy mô lớn. Nhưng công
việc phải được tổ chức thế nào để cho xã hội, tức trước hết là Nhà nước, vẫn
duy trì được quyền sở hữu các tư liệu sản xuất, do đó lợi ích riêng của hợp tác
xã khơng thể đứng trên lợi ích của tồn xã hội nói chung được. Ăng ghen chỉ rõ
việc cải tạo xã hội tư bản chủ nghĩa và tiến tới thủ tiêu chế độ tư hữu là quá
trình gắn liền với việc “ tạo nên 1 khối lượng TLSX cần thiết cho việc cải tạo
đây”.
Mác và Ăng ghen ý thức rõ viêc xác lập các quan hệ sản xuất mới XHCN
không phải là mục tiêu thuần túy và duy nhất của cách mạng vô sản, bởi suy
cho cùng việc xác lập đó là nhằm tạo điều kiện cho LLSX phát triển không
ngừng. Do vậy, giai cấp vơ sản khơng phải chỉ thỏa mãn với trình độ phát triển
của LLSX dưới chế độ TBCN, không phải chỉ thỏa mãn với tồn bộ tư bản và
cơng cụ sản xuất đã tước đoạt từ giai cấp tư sản, mà cịn phải trên cơ sở đó phát
triển nhanh hơn nữa số lượng những LLSX, tạo nên sự đa dạng, nhiều thành
phần. Trong Tun ngơn của Đảng cộng sản có nêu rõ: giai cấp vô sản sẽ dùng
sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy tồn bộ tư bản trong tay giai
cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay Nhà nước, và để
tăng thật nhanh số lượng những LLSX của xã hội.
Tuy vậy, đối với tầng lớp tiểu nông, giai cấp công nhân cần liên minh với
họ và cải tạo họ một cách dần dần. Bàn về vấn đề này, trong bài Vấn đề nông
dân ở Pháp và ở Đức Ăng ghen viết: khi đã giành được chính quyền Nhà nước,
chúng ta không nghĩ đến việc tước đoạt bằng bạo lực những người tiểu nông
nhưng chúng ta bắt buộc phải làm việc đó với bọn địa chủ lớn. Nhiệm vụ của
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chúng ta đối với tầng lớp tiểu nông trước hết là chuyển sản xuất cá thể và sở
hữu tư nhân của họ sang sở hữu tập thể, nhưng không cưỡng bức họ mà bằng
cách nêu gương, dành cho học sự giúp đỡ về mặt xa hội để đạt được mục đích
này. Và lúc đó tất nhiên chúng ta có đủ các phương tiện để chỉ cho người tiểu
nơng thấy được những lợi ích mà hiện nay đã rõ ràng đối với họ.
2.2/Tiếp thu triệt để quan điểm của Mác và Ăng ghen ngay từ khi chưa nổ ra
cuộc cách mạng tháng Mười, trong thư gửi nông dân nghèo( 3-1903), Lênin đã
chủ trương: Bước đầu phải làm ở nơng thơn là: hồn tồn giải phóng nơng dân,
trao cho họ đầy đủ các quyền. Lênin khẳng định quan điểm phải nêu gương, tổ
chức, dẫn dắt những người tiểu nơng sản xuất hàng hóa vào con đường làm ăn
hợp tác. Tựu trung lại, có thể rút ra những điểm quan trọng trong thời kì quá độ
là mang dấu vết xã hội cũ, là một quá trình khó khăn, phức tạp,cần trải qua
nhiều giai đoạn. Việc xóa bỏ các quan hệ sản xuất TBCN, thiết lập các quan hệ
sản xuất XHCN phải trải qua quá trình lâu dài và dần dần, trong đó việc đưa
nơng dân vào con đường tập thể phải dựa trên tinh thần tự nguyện.
Vì vậy theo quan điểm của Mác: quá độ là sự tiến hành trực tiếp từ các
nước tư bản phát triển, còn theo quan điểm của Lê nin các nước lạc hậu có khả
năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nhưng phải qua con đường gián
tiếp, tức là phải tiến hành dần dần, khơng được nóng vội.
II/ Kinh nghiệm của các nước ( Liên Xô)
1/Thực tiễn ở Liên Xơ :
Tháng 3/1921, cuộc nội chiến kết thúc, hịa bình lập lại, chính sách “ cộng
sản thời chiến” khơng còn phù hợp. Tại Đại hội X Đảng cộng sản Nga, Lê nin
để ra chính sách NEP- chính sách kinh tế mới. Vận dụng tư tưởng tính tất yếu
tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, Lê nin phân tích kết cấu nền kinh tế Nga
lúc đó gồm 5 thành phần xếp theo trình độ phát triển thấp đến cao: kinh tế nơng
dân kiểu gia trưởng ( phần lớn có tính chất tự nhiên), kinh tế hàng hóa nhỏ( đa
số là nơng dân bán lúa mì), kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Vậy là lúc đó cịn nhiều hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí
đối lập nhau. Do đó, trong thời kì này, sản xuất hàng hóa và thị trường vẫn tồn
tại như một tất yếu. Chính từ sự phát hiện đó, khi kết thúc thời chiến chuyển
sang thời kì khơi phục và hịa bình xây dựng, trong Đại hội X Lê nin đặt ra vấn
đề đổi mới chiến lược kinh tế.
2/Nội dung chủ yếu:
là chuyển từ kinh tế tập trung tuyệt đối sang chế độ kinh tế thị trường tự
do có sự điều tiết của Nhà nước chuyên chính vơ sản hướng lên nền kinh tế
XHCN. Lê nin nhận thức rõ rằng, kinh tế thị trường tự do để tự do trao đổi
trong nông nghiệp, muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân, không thể
dựa vào nền nơng nghiệp gia trưởng mang tính tự cấp tự túc mà phải dựa vào
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nền nông nghiệp hàng hóa. Cả trong cơng nghiệp, cần sử dụng cơ cấu nhiều
thành phần trong khôi phục công nghiệp( kinh tế tư nhân được phục hồi, công
nghiệp quốc doanh được củng cố).
Theo Lê nin những quan hệ sản xuất TBCN được phép tồn tại và phát triển
dưới sự kiểm soát của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo( ví dụ: thành lập
những công ty thương mại hỗn hợp gồm vốn của nhà nước, vốn của tư bản
trong nước và tư bản ngoài nước để phát triển ngoại thương, sử dụng những hợp
tác xã của những người tiểu sản xuất do các nhà tư bản nhỏ lãnh đạo). Nó là
một bước lùi cần thiết về CNTB và bao hàm những mâu thuẫn nhưng nếu được
sử dụng đúng đắn nó sẽ có tác dụng to lớn đối với quá trình tiến từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất cơ khí hóa XHCN. Theo Lênin, không phá huỷ kết cấu kinh tế- xã
hội cũ, thương nghiệp, kinh tế nhỏ, doanh nghiệp nhỏ CNTB mà làm cho
thương nghiệp, doanh nghiệp nhỏ CNTB phát triển lên và làm cho chúng chịu
sự điều tiết của nhà nước. Thông qua chế độ hợp tác xã để đưa nông dân đi lên
con đường hợp tác hóa, Lê nin khẳng định: ”..phải cho chế độ hợp tác xã hưởng
1 số đặc quyền , cấp cho hợp tác xã những thể thức làm cho chúng ta có thể
giúp đỡ có hiệu quả các hợp tác xã và đào tạo những xã viên hợp tác xã văn
minh”.
3/Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: cần tạo đk cho LLSX phát triển phù hợp
với QHSX, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là mục tiêu quan
trọng trong tiến trình đi lên CNXH.
III/ Thực tiễn Việt Nam lúc đó:
3.1/Nền nơng nghiệp lạc hậu, LLSX 80% là lao động trong nông nghiệp.
LLSX rất thấp với trình độ thủ cơng và tính chất cá nhân hóa.
3.2/Quan hệ sản xuất: phong kiến, chiếm hữu tư nhân. TLSX nằm trong tay địa
chủ, tư sản trong khi LLSX phát triển mang tính xã hội hóa. Các thành phần
kinh tế cũ vẫn còn tồn tại, đan xen với các thành phần kinh tế mới, có sự mâu
thuẫn.
3.3/Nước ta tiến lên CNXH không kinh qua CNTB: đây cũng là đặc điểm lớn
nhất của Việt Nam lúc đó khi xuất phát điểm là một nước thuộc địa nửa phong
kiến tiến lên CNXH không kinh qua chủ nghĩa tư bản.
3.4/Nước ta xây dựng CNXH trong điều kiện vừa có hịa bình, vừa có chiến
tranh.Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề.
Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và
nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Mâu thuẫn giữ CNXH và CNTB, một bên là CNXH mở rộng, trở thành hệ
thống trong khi CNTB liên tục chống phá công cuộc xây dựng CNXH
IV/ Nội dung, quan điểm của Hồ Chí Minh:
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4.1/ Xuất phát từ thực tiễn 3.1, HCM chủ trương xây dựng hợp tác xã- hình
thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, cùng có lợi, chống chủ quan,
gị ép. Đối với thành phần cá thể, tiểu chủ, khuyến khích họ làm lợi cho quốc kế
dân sinh, phù hợp với kinh tế Nhà nước.
4.2/ Xuất phát từ thực tiễn 3,2, Người xác định phát triển QHSX phải phù hợp
với sự phát triển của LLSX.
Trong “ Thường thức chính trị” viết vào năm 1953 HCM cho rằng nước ta(
vùng tự do) nền kinh tế còn tồn tại những thành phần ( những quan hệ sản xuất)
là: Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tơ; Kinh tế quốc doanh có tính chất
chủ nghĩa xã hội; Kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi
công nông thôn; Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công mĩ nghệ; Kinh
tế tư bản của tư nhân; Kinh tế tư bản quốc gia.
Phát triển các thành phần kinh tế trên là để thực hiện chính sách kinh tế của
Đảng và chính phủ ta lúc đó là : Cơng tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công nông
giúp nhau, lưu thơng trong ngồi.
Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô là thành phần kinh tế đã lổi thời.
Tuy nhiên để thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, thu hút số địa chủ vừa
và nhỏ theo cách mạng, ủng hộ kháng chiến, Hồ Chí Minh khơng chủ trương
xóa bỏ thành phần kinh tế này một cách giản đơn mà chỉ thực hiện giảm tô,
giảm tức.
Kinh tế quốc doanh tồn tại ở các cơ sở sản xuất kinh doanh của Nhà nước,
là của chung của nhân dân, phục vụ lợi ích của xã hội. Đây là thành phần kinh
tế mới ra đời trong chế độ dân chủ mới, chỉ có nó mới đáp ứng được những yêu
cầu to lớn và quan trọng của toàn xã hội, đáp ứng được kịp thời những yêu cầu
to lớn của cuộc kháng chiến của dân tộc ta. Theo Hồ Chí Minh, “ nó là nền tảng
và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát
triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó”.
Kinh tế hợp tác xã, theo HCM đã có tính chất nữa xã hội chủ nghĩa. Ở đó”
nhân dân góp nhau để mua sắm những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những
thứ mình sản xuất ra khơng phải kinh qua các con buôn.” Thành phần kinh tế
này sẽ ngày càng được củng cố và phát triển cùng với sự đi lên của xã hội.
Kinh tế cá nhân của nông dân và thợ thủ công là thành phần kinh tế cá thể
tự cấp, tự túc. Họ sở hữu một ít TLSX nhỏ bé, lạc hậu và do đó năng suất lao
động rất thấp. Tuy nhiên trong điều kiện kháng chiến, đất nước cịn nghèo nàn
lạc hậu, lại đang có chiến tranh, thì đó cũng là lực lượng cần thiết cho công
cuộc xây dựng kinh tế nước nhà.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc.
Mặc dù giai cấp tư sản có bóc lột đối với cơng nhân nhưng đồng thời họ cũng
góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dụng vốn, sử dụng khoa học kĩ thuật...,” cho nên Chính phủ cần giúp họ phát
triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp tác
với lợi ích của đa số nhân dân”.
Kinh tế tư bản quốc gia là thành phần kinh tế do nhà tư bản( kể cả trong
nước và ngoài nước) và nhà nước “ hùn vốn” với nhau để kinh doanh trong đó
Nhà nước giữ vai trò lãnh đạo. Đây là thành phần kinh tế mà Lê nin rất coi
trọng trong điều kiện của 1 nước kém phát triển đi lên. Theo Lê nin, thành phần
kinh tế này là “ nửa xã hội chủ nghĩa” và sẽ còn tồn tại lâu dài trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta HCM cũng rất coi trọng thành phần kinh tế này.
Như vậy, ngay trong điều kiện kháng chiến, Hồ Chí Minh đã thấy được
tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta bảo đảm sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ của LLSX cịn là thủ công lạc hậu.
4.3/ Xuất phát từ thực tiễn 3.3, Người thấy đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất
của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ TBCN.Nhưng để tạo lập cơ sở
vật chất- kĩ thuật cho CNXH, Nhà nước cách mạng phải giải quyết vấn đề phức
tạp, trong đó có nhiều việc mà giai cấp tư sản đã từng làm ở những nước đã trải
qua CNTB, như chuyển kinh tế tự nhiên lên nền kinh tế hàng hóa, tích lũy vốn,
cách mạng kĩ thuật, ứng dụng cơng nghệ mới, hồn thiện quản lí kinh tế...Tham
gia vào q trình đó có nhiều thành phần kinh tế, gồm cả kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển ở những lĩnh vực mà Nhà
nước không cấm. Nhà nước sẽ sử dụng các hình thức đa dạng của CNTB nhà
nước để hướng kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân đi lên CNXH. Chính vì
vậy, đặc trưng cơ bản nhất của thời kì quá độ lên CNXH là sự tồn tại nền kinh
tế nhiều thành phần.
Bỏ qua chế độ TBCN không phải là phủ định sạch trơn , đem đối lập
CNXH với CNTB, bỏ qua cả những cái "không thể bỏ qua" như đã từng xảy ra
ở các nước XHCN trước đây. Quan điểm của Đại hội I X Đảng cộng sản Việt
Nam đã xác định: " Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng TBCN; Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dứơi chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và cộng nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại".
Do vậy bỏ qua chế độ TBCN thưc chất là phát triển theo con đường " rút
ngắn" quá trình đi lên CNXH. Nhưng rút ngắn khơng phải là đốt cháy giai đoạn,
duy ý chí coi thường quy luật. Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và
biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và
khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thức, bước đi thích hợp; Phải biết
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở CNTB không chỉ về
LLSX, mà cả về QHSX, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng.
4.4/ Xuất phát từ thực tiễn 3.4, Người thấy rằng phát triển kinh tế nhiều thành
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần lúc đó vừa là để kiến thiết đất nước, vừa là để phục vụ kịp thời cho cuộc
kháng chiến lâu dài gian khổ của nhân dân. . Nền kinh tế nhiều thành phần giúp
chúng ta đa dạng các chủ thể kinh tế tạo nhiều của cải vật chất xây dựng xã hội
mà cịn đồn kết các lực lượng trên mặt trận dân tộc.Nó vừa đáp ứng u cầu
trước mắt đồn kết tất cả lực lượng có thể đồn kết trong dân tộc, đưa cuộc
kháng chiến đến thắng lợi, vừa đáp ứng yêu cầu lâu dài của cách mạng Việt
Nam là xây dựng chế độ dân chủ mới tạo tiền đề để từng bước tiến lên theo
định hướng XHCN.
V/ Giá trị của luận điểm:
Suốt một thời gian dài trước 1986, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác,
đã áp dụng mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xơ-viết, mơ hình kinh tế kế hoạch
tập trung mang tính bao cấp. Mơ hình này đã thu được những kết quả quan
trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng
về sau mơ hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng
phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh
giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội,
khơng tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không
đúng với thực tế Việt Nam. Nếu như trước đổi mới, chủ yếu phát triển kinh tế
công hữu, trong nhận thức cũng như trong hành động không thừa nhận nền kinh
tế nhiều thành phần, thì sau đó đã đi đến khẳng định xây dựng nền kinh tế đa sở
hữu, gắn với dân chủ hóa nền kinh tế.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm
thực hiện có hiệu quả hơn cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng
đã họp và thông qua chương trình đổi mới kinh tế tồn diện theo ba hướng
chính: Một là, chuyển đổi từ chính sách đơn thành phần sở hữu sang nền kinh tế
nhiều thành phần với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu nhằm phát triển sản
xuất và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; Hai là, chuyển từ cơ chế Nhà nước
trực tiếp điều khiển các hoạt động của nền kinh tế bằng kế hoạch pháp lệnh, gắn
với cơ chế bao cấp, sang cơ chế kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước
ở tầm vĩ mô, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của từng doanh nghiệp; Ba là,
chuyển từ kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp sang kinh tế mở cửa với thế
giới bên ngoài.
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (19861991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi
quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng
GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo
chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Cơ cấu thành
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh
tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng
theo hướng xố bao cấp, thực hiện chế độ cơng ty, phát huy quyền tự chủ và
trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Số doanh nghiệp Nhà nước qua sắp xếp đổi mới, cổ phần hoá đã giảm từ 12.084
doanh nghiệp năm 1990 xuống còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và
670 công ty cổ phần do Nhà nước chi phối trên 51% vốn điều lệ năm 2005. Qua
đổi mới, doanh nghiệp Nhà nước năm 2005 đóng góp 38,5% GDP và khoảng
50% tổng ngân sách Nhà nước.
Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội.
Năm 2005 chiếm 46% GDP. Trong đó, kinh tế hợp tác phát triển ngày càng đa
dạng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, năm 2005, kinh tế hợp tác đóng góp
khoảng 7% GDP.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và
tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38%
GDP của cả nước.Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng trưởng tương
đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao
công nghệ, giao thông quốc tế .
Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế (1991-2000)
Đơn vị tính: %
Năm
1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
I/ Khu vực kinh tế trong 93.59 93.70 92.60 90.90 90.20 87.76 86.73
nước
_ Kinh tế Nhà nước
40.12 40.13 39.90 40.48 40.0
38.74 38.09
_ Kinh tế tập thể
10.17 10.06 10.0
8.91
8.90
8.84
8.53
_ Kinh tế tư bản tư nhân 3.06
3.12
3.30
3.38
3.41
3.37
3.30
_ Kinh tế cá thể
35.86 36.02 35.30 34.32 33.83 32.93 32.03
_ Kinh tế hỗn hợp
4.38
4.32
4.10
3.84
3.83
3.89
3.90
II/ Khu vực kinh tế 6.41
6.30
7.40
9.09
10.30 12.24 13.23
100% vốn nước ngồi
Kể từ sau 1986, ta bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1992), Hoa
Kỳ( 1995), gia nhập ASEAN năm 1995.Về mặt kinh tế, nó đã đưa lại thị trường
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xuất khẩu mênh mông, cho phép VN mở rộng qui mô sản xuất với tốc độ vượt
xa sự phát triển của thị trường nội địa bé nhỏ. Liên kết thêm với các khu vực
nước ngoài kêu gọi nguồn vốn FDI và ODA
Một loạt các chính sách khác như: Khốn 10 (năm 1988) cởi trói cho nơng
nghiệp, biến VN thành nước xuất khẩu gạo lớn kể từ năm 1989; Luật đầu tư
nước ngoài (năm 1987) khai thơng nguồn vốn bên ngồi, đem lại trên 26 tỉ USD
vốn FDI đã thực hiện (5); Luật doanh nghiệp mới (năm 2000) dỡ bỏ hàng rào
quan liêu với khu vực cơng - thương nghiệp, khiến mỗi năm có hơn hai vạn
doanh nghiệp mới ra đời.
Chỉ một năm sau khi thực hiện Đổi Mới, Việt Nam từ một nước thiếu đói đã trở
thành nước xuất khẩu gạo. Những năm sau đó, khủng hoảng kinh tế và lạm phát
phi mã đã được chặn đứng.
Từ thập niên 1990, làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu đổ vào
Việt Nam. Việt Nam trở thành một trong những nước tăng trưởng nhanh nhất
thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 8%/năm.
Việt Nam được đánh giá cao về việc thực hiện phúc lợi xã hội, xóa đói giảm
nghèo và thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp
Quốc. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có chỉ số HDI cao.
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa,
tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển
mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế
mới. Từ một quốc gia bị phong toả, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển
và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh
thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ngồi ra, Việt Nam cịn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc
tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Năm 1991,
Liên Xô sụp đổ. Tuy nhiên, đánh giá về các sự kiện này, Đảng Cộng sản Việt
Nam quyết định tiếp tục Đổi mới theo con đường đã chọn và vẫn thực hiện chủ
nghĩa xã hội. Nhờ sự kiên định, trong khi các nước XHCN Đơng Âu sụp đổ thì
Việt Nam vẫn đứng vững và tiếp tục tiến lên, vị thế ngày càng được nâng cao
trên trường quốc tê.
12