Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn huyện quế sơn, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.25 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG VĨNH PHÚ

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG VĨNH PHÚ

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TUẤN KHANH

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công
bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu,
phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Các kết quả
này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Lương Vĩnh Phú


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ........................................................................................................................................................... 10
1.1. Khái quát về vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ..........10
1.2. Khái niệm, đặc điểm về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.................................................................................................................................. 13
1.3. Thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.................................................................................................................................. 15
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.................................................................................................................................. 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở HUYỆN QUẾ SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM................................................................................................................... 31
2.1. Khái quát tình hình giao thông đường bộ và vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.................................... 31

2.2. Thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.............................................................................................. 40
2.3. Đánh giá chung về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.................................................................... 45
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM.....................56
3.1. Phương hướng bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. ................................. 56


3.2. Giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam............................................... 59
Tiểu kết chương 3............................................................................................................................. 75
KẾT LUẬN........................................................................................................................................ 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa đầy đủ

1

GTĐB


Giao thông đường bộ

2

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

3

TNGT

Tai nạn giao thông

4

QLNN

Quản lý nhà nước

5

VPHC

Vi phạm hành chính

6

TTGT


Thanh tra giao thông

7

CSGT

Cảnh sát giao thông

8

TNGTĐB

Tai nạn giao thông đường bộ


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
Tổng hợp số liệu về số vụ tai nạn giao thông đường bộ
2.1

trên địa bàn Huyện Quế Sơn, Tỉnh Quảng Nam giai

33


đoạn từ 2015-2019.
Số vụ vi phạm hành chính giao thông đường bộ đã
2.2

được xử phạt trên địa bàn Huyện Quế Sơn giai đoạn
2015 – 2019

36


DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu

Tên hình

Trang

Số liệu thống kê đăng ký mới xe môtô, xe gắn máy trên

32

hình
2.1

địa bàn Huyện Quế Sơn trong giai đoạn năm 2015-2019
2.2

Thống kê số vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực


35

GTĐB giai đoạn từ năm 2007-2016
Thống kê số liệu độ tuổi người điều khiển phương tiện
2.3

gây tai nạn trên địa bàn Huyện Quế Sơn, giai đoạn

38

2015-2019
2.4

Thống kê số liệu khung thời gian xảy ra tai nạn trên địa

38

bàn Huyện Quế Sơn, giai đoạn 2015-2019
Bảng thống kê số tiền xử phạt VPHC trong lĩnh vực
2.5

GTĐB nộp KBNN trên địa bàn Huyện Quế Sơn giai

44

đoạn 2015-2019
Số liệu áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử
2.6

dụng giấy phép trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn


45

Huyện Quế Sơn giai đoạn 2015-2019
Biểu đồ thể hiện cơ cấu số vụ, số người chết và số
2.7

người bị thương trên địa bàn Huyện Quế Sơn, Tỉnh
Quảng Nam giai đoạn từ 2015-2019.

46


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giao thông đường bộ (GTĐB) được coi là một lĩnh vực quan trọng, là
một bộ phận trong kết cấu hạ tầng quốc gia; cùng với đường sắt, đường thủy,
đường không, chúng tạo thành mạch máu của sự phát triển đất nước. Ở phạm vi
hẹp, giao thông đường bộ đáp ứng nhu cầu dịch chuyển, giao dịch giữa các chủ
thể khác nhau của nền kinh tế. Còn ở tầm vĩ mô, hoạt động giao thông đường bộ
có liên quan trực tiếp đến an ninh, trật tự an toàn xã hội cũng như sự phát triển
kinh tế - xã hội – văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc, đẩy mạnh giao lưu, hội nhập
với các nước trong khu vực và trên thế giới [20, tr.08]. Là một bộ phận quan
trọng trong kết cấu hạ tầng, việc phát triển tốt GTĐB sẽ tạo tiền đề cho phát triển
kinh tế- xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, đổi mới và phát triển đất nước [32,
tr.01].
Thực tế GTĐB luôn là lĩnh vực ẩn chứa nguồn nguy hiểm cao độ thường
phát sinh những rủi ro bất lợi cho xã hội như ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi
trường, tai nạn GTĐB do vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này gây ra. Theo pháp
luật các quốc gia phát triển thì nguồn nguy hiểm cao độ là “bất cứ sự vật chất

nào được kéo, đẩy bằng máy móc (…) những vật có thể gây nguy hiểm bởi tính
chất, mục đích hoặc sự vận hành cơ khí của chúng…[4]” hay “các nhà máy chế
tạo, nơi khai thác khoáng sản dễ gây cháy nổ, độc hại, phương tiện giao thông,
vận tải cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ” (Bộ luật dân sự Nhật Bản) [14, tr.2022]. Trong những năm qua, hiện tượng vi phạm pháp luật GTĐB ngày một gia
tăng và diễn biến hết sức phức tạp, tai nạn giao thông (TNGT) luôn có nguy cơ
xảy ra, số vụ, số người chết, số người bị thương do TNGT luôn biến động khó
lường theo chiều hướng gia tăng, gây khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước
(QLNN) và ảnh hưởng lớn đến trật tự an toàn xã hội (TTATXH). Với những hậu
quả của việc vi phạm pháp luật GTĐB ngoài việc gây mất TTATXH, thì TNGT
đường bộ còn gây ra sự ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng, lấy đi tương lai
thế hệ trẻ của đất nước, làm tăng thêm nỗi lo, gánh nặng cho mỗi gia

1


đình, cho mỗi địa phương và cho toàn xã hội, đồng thời ảnh hưởng to lớn đến tài
chính của các địa phương [27, tr.08]. Do đó, vi phạm hành chính (VPHC) trong
lĩnh vực giao thông đường bộ (GTĐB) nói riêng trong nhiều năm trở lại đây luôn
là vấn đề vô cùng nhức nhối của xã hội. Theo báo cáo của Cục Cảnh sát giao
thông (C67) – Bộ Công an, hàng năm lực lượng Cảnh sát giao thông (CSGT) cả
nước xử phạt khoảng 5.000.000 trường hợp vi phạm pháp luật về GTĐB, thu về
kho bạc nhà nước khoảng 3.000 tỷ đồng [41, tr. 48].
Có thể nhận thấy trong thời gian gần đây, cùng với sự nỗ lực của Chính
phủ, các Bộ, ngành và của toàn xã hội, vấn đề trật tự, ATGTĐB ở nước ta đã có
nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực; tình hình VPPL trong lĩnh vực GTĐB
được kéo giảm, tuy nhiên vẫn còn ở mức cao và gây ra những thiệt hại lớn cho
xã hội [42, tr.03]. Chính vì vậy, để giao thông được diễn ra thông suốt, đạt hiệu
quả cao, Nhà nước cần tăng cường xử lí hành vi vi phạm nói chung và VPHC nói
riêng. Ngày 20 tháng 6 năm 2012 Quốc hội đã ban hành Luật Xử phạt vi phạm
hành chính số 15/2012/QH13 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 đáp

ứng nhu cầu thực tiễn quản lý, tạo cơ sở pháp lý phòng chống các hành vi vi
phạm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực chuyên ngành
[5]. Trong lĩnh vực giao thông đường bộ, ngày 30 tháng 12 năm 2019 Chính Phủ
đã ban hành Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực kể từ 01
tháng 01 năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị định số 100/2019/NĐ-CP) thay thế
Nghị định số 46/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Đến nay, Luật xử lí
VPHC và Nghị định số 100/2019/NĐ-CP đã đáp ứng sự thống nhất trong việc áp
dụng pháp luật, và đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế, đạt hiệu quả cao trong
hoạt động đấu tranh phòng ngừa VPHC trong lĩnh vực này. Có thể nhận thấy
trong thời gian qua, công tác xử phạt VPHC của các lực lượng chức năng đã có
những cải thiện nhất định, tuy nhiên trên thực tế, với các quy định của pháp luật
hiện hành, các lực lượng chức năng vẫn còn gặp những khó khăn nhất định trong
công tác xử phạt. Vì vậy việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt

2


động xử phạt rất cần đến việc hoàn thiện những quy định liên quan đến hoạt
động này [41, tr. 49]. Là tiểu vùng nằm trong “Cụm động lực số 2” theo Quy
hoạch Vùng Đông tỉnh Quảng Nam bao gồm Duy Xuyên - Quế Sơn - Thăng
Bình, có trục giao thông đối ngoại quan trọng Quốc lộ 1A, đường cao tốc Đà
Nẵng – Quảng Ngãi đi ngang qua, kết nối thành phố Đà Nẵng và Khu kinh tế mở
Chu Lai [16, tr.29]. Vì vậy tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện về xử phạt
VPHC trong lĩnh vực GTĐB, từ đó chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, bất cập của
hoạt động này là một vấn đề có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn, với mục tiêu
kéo giảm tình hình VPHC về trật tự, ATGTĐB trên địa bàn Huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam là một yêu cầu cấp thiết. Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề
tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực

tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên
ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong khoa học pháp lý Việt Nam các công trình nghiên cứu về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được các nhà lập pháp, nhà
quản lý, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu đề cập dưới nhiều góc độ khác
nhau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu lý luận về xử phạt vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Đa số
các công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về xử phạt vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ như
khái niệm xử phạt VPHC, nguyên tắc xử phạt VPHC, các hình thức xử phạt
VPHC, thẩm quyền xử phạt VPHC. Theo TS Trương Diệu Loan thì Xử phạt
VPHC trong lĩnh vực GTĐB là công tác của nghiệp vụ lực lượng CSGT, được
tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật và quy trình công tác của ngành
Công an áp dụng đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm Luật GTĐB
mà không phải là tội phạm, theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính, góp phần đảm bảo TTATGT, trật tự an toàn xã hội [26, tr.29]. Đây là tài

3


liệu quý giá để tác giả sử dụng nghiên cứu các vấn đề lý luận về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trong phạm vi Luận văn. Có thể
kể đến các công trình tiêu biểu: Bài viết “Một số ý kiến hoàn thiện các quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam”
tác giả Đinh Phan Quỳnh đăng tải trên Tạp chí Nghề luật Số 2 năm 2017; Bài
viết “Vài bình luận ngắn các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ” của tác giả Cao Vũ Minh đăng tải trên Tạp

chí Khoa học pháp luật, số 04 (77) năm 2013; Luận án tiến sĩ Luật học “Xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam
hiện nay” của Đinh Phan Quỳnh, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2018;
Luận án Tiến sĩ An ninh và trật tự xã hội “Giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo chức năng của lực
lượng Cảnh sát giao thông” của Trương Diệu Loan, Học viện Cảnh sát nhân
dân, Hà Nội năm 2015; Bài viết khoa học “ Tình hình vi phạm quy định về điều
khiển giao thông đường bộ ở một số tỉnh Đồng bằng Sông Cứu Long và phải
pháp phòng chống” của Phạm Văn Beo đăng tải trên Tạp chí Khoa học Trường
Đại học Cần Thơ, Số 17b năm 2011
Thứ hai, các công trình nghiên cứu thực trạng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật xử phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Đa
số các công trình nghiên cứu thực trạng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và thực tiễn thi hành pháp luật tại các địa
phương thông qua việc phân tích hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB
của cơ quan chức năng có thẩm quyền trong thời gian qua và chỉ ra những ưu
điểm, hạn chế và các yếu tố ảnh hưởng tới tính hiệu quả của hoạt động xử phạt.
Đồng thời, các tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB và khắc phục những tồn tại trong công tác
xử phạt của lực lượng CSGT, thanh tra giao thông, và các chủ thể khác có liên
quan khác. Đây là nguồn tài liệu tham khảo để tác giả sử dụng nghiên cứu trong
việc đánh giá thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam về xử phạt VPHC
trong lĩnh vực GTĐB và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao

4


hiệu quả thi hành pháp luật. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu: Luận văn
thạc sĩ Luật học “Xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - từ
thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” của Phạm Quang Hưng, Học viện Hành chính Quốc gia

năm 2016; Luận văn thạc sĩ Luật học“Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ - từ thực tiễn Quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” của
Lê Thị Bích Ngọc, Học viện Khoa học xã hội năm 2018; Luận văn thạc sĩ Luật
học “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa”của Nguyễn Văn Minh, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2012; Luận văn thạc sĩ luật học “Quản lý nhà nước về trật tự an toàn
giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Hải Dương” của Phạm Thị Mai
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật hành chính
hiến pháp “Xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực
tiễn Tỉnh Phú Yên” của Bùi Ngọc Tuấn, Học viện hành chính quốc gia năm
2017; Luận văn thạc sĩ Luật học “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng “ của Hồ Thanh Hiền,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012;
2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Ở nước ngoài các công trình nghiên cứu về về xử phạt vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được
các tác giả quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau như khái niệm xử phạt VPHC;
thẩm quyền xử phạt VPHC; thủ tục xử phạt VPHC theo pháp luật các quốc gia
phát triển. Theo GS.TS Kikot, Viện Kinh tế và Luật Ivan Kushnir, Liên Bang
Nga định nghĩa VPHC phải là một hành vi VPPL, hành vi đó được biểu hiện ra
bên ngoài thế giới khách quan có thể bằng hành động (khai báo sai), hoặc không
hành động (không khai báo), chứ nó không thể là suy nghĩ, nhận thức [42, tr.19].
Đây là một gợi mở rất quan trọng cho Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn
thiện pháp luật nói chung, pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB nói
riêng; đặc biệt bắt đầu từ ngày 20/08/2014, Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên của Công ước Quốc tế về GTĐB (Convention on Road Traffic) và
Công ước về Biển báo và Tín hiệu Đường bộ (Convention on Road Signs and

5



Signals). Trên tinh thần thực hiện các quy định của Công ước, bắt đầu từ tháng
8/2015, Việt Nam đã chính thức cấp giấy phép lái xe quốc tế (International
Driving Permit – “IDP”) có giá trị tại 85 quốc gia là thành viên của công ước
Vienna (1968). Các công trình tiêu biểu như: Bài viết “Global Administrative
Law and the Legitimacy of Sanctions Regimes in International Law” của
Elizabeth Nowlan đăng trên tạp chí của Yale Law School, J.D. expected 2012;
Bài viết “Traffic laws in Nigeria: Fact or myth?” của Sokomba Alolade đăng
trên Tạp chí The Magazine for the African lawyer.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ quy định pháp luật và thực
trạng về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa
bàn Huyện Quế Sơn, Tỉnh Quảng Nam. Từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp
hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xử phạt hành
chính về giao thông đường bộ trên địa bàn Huyện Quế Sơn nói riêng và các địa
phương nói chung trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực GTĐB.
- Nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Quế
Sơn, tỉnh Quảng Nam của các lực lượng chức năng trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
GTĐB. Đồng thời, đưa ra giải pháp nhằm kiềm chế TNGT, hạn chế vi phạm
pháp luật GTĐB, tăng cường hiệu quả công tác xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


6


Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định pháp luật hiện hành
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; công tác
thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam của cơ quan có thẩm
quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
được giới hạn như sau:
Về không gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn Huyện Quế Sơn, Tỉnh
Quảng Nam
Về thời gian: Khi nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật và thực
tiễn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam của các lực lượng chức năng trong thời gian
qua. Luận văn lấy mốc từ năm 2016 - năm Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị
định số 46/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng
08 năm 2016 (sau đây gọi tắt là Nghị định số 46/2016/NĐ-CP), bởi lý do Nghị
định số 100/2019/NĐ-CP chỉ được ban hành vào ngày 30 tháng 12 năm 2019 và
chính thức có hiệu lực từ 01/01/2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin về duy vật lịch sử và duy vật biện chứng;
Luận văn dựa trên các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về giao thông, phát triển hệ thống giao thông, an toàn giao thông (ATGT)

và hành lang an toàn đường bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

7


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận: Luận văn sử dụng các số liệu trên cơ sở thu thập qua sách
báo, các báo cáo của cơ quan quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn Huyện Quế Sơn, Tỉnh Quảng
Nam
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp; sử
dụng nguồn số liệu từ và số liệu thu thập từ điều tra, phỏng vấn, phương pháp
luật học…. nhằm nghiên cứu lý luận và thực trạng xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn Huyện Quế Sơn, Tỉnh Quảng
Nam để chứng minh, đề xuất giải pháp và kiến nghị liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, chi tiết những vấn đề lý luận
về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên
địa bàn Huyện Quế Sơn, Tỉnh Quảng Nam. Luận văn góp phần làm sâu sắc hơn
những vấn đề lý luận xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng như góp phần
hoàn thiện pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đánh giá thực tiễn xử phạt vi phạm VPHC trong lĩnh vực GTĐB
trên địa bàn Huyện Quế Sơn. Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý
hữu quan Huyện Quế Sơn nói riêng và Tỉnh Quảng Nam nói chung. Đồng thời là
tài liệu tham khảo cho công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật về xử phạt, xử

phạt vi phạm hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao thông đường bộ
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu gồm 03 chương:

8


Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Chương 2: Thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ ở Huyện Quế Sơn, Tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn Huyện Quế Sơn, Tỉnh
Quảng Nam

9


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Khái quát về vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ
Là một dạng cụ thể của vi phạm pháp luật, các hành vi vi phạm hành
chính xảy ra nhiều trong đời sống xã hội, và nhận được xử quan tâm của các nhà
luật học, cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Điều này được thể hiện trong các
công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ, và cấp độ khác nhau. Trong khoa học
pháp lý Việt Nam, có nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra định nghĩa về vi
phạm hành chính. Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt thì VPHC là hành vi (hành

động hoặc không hành động) trái pháp luật, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có
năng lực trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm phạm trật
tự quản lý nhà nước và xã hội, trật tự quản lý, sở hữu của Nhà nước, tổ chức và
cá nhân, xâm phạm các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của con người, của
công dân mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính [58,
tr 504]. TS Nguyễn Thị Thủy định nghĩa: “ Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi,
do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm hại
trật tự xã hội, trật tự nhà nước, sở hữu tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân mà không phải tội phạm và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của
pháp luật [48, tr.208] .
Khái niệm VPHC cũng đã được đưa vào các văn bản quy phạm pháp luật
ở Việt Nam từ rất sớm; văn bản pháp luật đầu tiên thể hiện khái niệm này là
Pháp lệnh xử phạt VPHC năm 1989, theo đó VPHC được hiểu là: “hành vi do cá
nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà
nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính [43]” . Sau 05 năm thi hành pháp lệnh xử phạt vi phạm hành
chính chứa đựng nhiều bất cập cần phải được sửa đổi thay thế trong đó có định
nghĩa về VPHC, song điều đáng tiếc Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm

10


1995 không có điều khoản nào xác định về quan niệm của VPHC. Ngày
2/7/2002 Quốc hội ban hành Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính thay thế
Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1995, tuy nhiên định nghĩa về VPHC
mà pháp lệnh năm 2002 gián tiếp đưa ra so với định nghĩa về tội phạm hình sự
theo BLHS còn rất chung chung, chưa nêu đầy đủ các dấu hiệu của VPHC. Hiện
nay, khái niệm này được thể hiện rõ tại Luật xử phạt VPHC 2012, cụ thể như
sau: Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo

quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính [44] .
Khi nói đến giao thông là nói đến “việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của
người và phương tiện chuyên chở [52, tr.381]”. Theo Luật GTĐB năm 2008 thì
định nghĩa “Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường
bộ [45]”.
Giao thông đường bộ (GTĐB) là đòi hỏi có tính tất yếu, cần thiết của quá
trình phát triển đời sống xã hội ở mỗi một xã hội và mỗi quốc gia. Sự phát triển
của giao thông mang tính lịch sử và phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế,
khoa học công nghệ nhất định. Theo tác giả GTĐB là việc đi lại từ nơi này đến
nơi khác của người và phương tiện chuyên chở trên đường, cầu đường bộ, hầm
đường bộ, bến phà đường bộ.
Khi xem xét GTĐB với tư cách là một hiện tượng xã hội. Dưới góc độ
luật học hiện tượng GTĐB đang đặt ra những vấn đề pháp lý sau đây [27, tr.16] :
Thứ nhất, GTĐB là một nhu cầu của con người trong xã hội. Nhưng
những cá thể con người, tổ chức người nhất định không thể tự lo để thỏa mãn
nhu cầu của mình. Đặc biệt là với nhu cầu phát triển kinh tế- xă hội thì chỉ có
Nhà nước mới có thể có khả năng tổ chức, có tiềm lực kinh tế và là chủ sở hữu
đất đai mới có thể xây dựng kết cấu hạ tầng GTĐB. Tuy rằng ở mức độ nào đó
Nhà nước phải huy động sức dân, nhưng trách nhiệm thuộc Nhà nước. Trách
nhiệm này mang tính pháp lý được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước.

11


Thứ hai, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB luôn là đối
tượng điều chỉnh của pháp luật GTĐB. Nhà nước hướng dẫn và điều chỉnh các
quan hệ này để các quan hệ này diễn ra có sự kiểm soát và “trong quy luật”.
Thứ ba, các quan hệ trong hoạt động GTĐB được thực hiện bởi nhiều chủ
thể với những mục đích kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh khác nhau.

Cũng như các loại quan hệ xã hội khác, GTĐB cần được chế định hóa, quy phạm
hóa và tiến tới pháp điển hóa do vậy đó là những lý do hết sức cơ bản để tạo ra
sự ra đời của các văn bản pháp luật. Luật Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12
ngày 13 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2009 ra đời đã tạo ra một “luật chơi” thống nhất, nhất quán, ổn định cho mọi tổ
chức và cá nhân.
Như vậy, có thể hiểu Luật GTĐB là tổng thể các quy định về quy tắc
GTĐB; kết cấu hạ tầng GTĐB; phương tiện và người tham gia GTĐB; vận tải
đường bộ và quản lý nhà nước về GTĐB. Pháp luật GTĐB là tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành có nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực GTĐB [17, tr.18]. Trong khoa học pháp lý, các định
nghĩa về vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB được các luật gia quan tâm,
điều này được thể hiện thông qua các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học, thể hiện ở các sách chuyên khảo; giáo trình; luận văn; luận án cũng như các
bài viết có liên quan. Theo TS. Đinh Phan Quỳnh thì VPHC trong lĩnh vực
GTĐB là hành vi trái pháp luật, có lỗi do cá nhân có năng lực TNHC hoặc tổ
chức thực hiện, xâm phạm trật tự, ATGTĐB mà theo quy định của pháp luật phải
chịu trách nhiệm hành chính [42, tr.35].
Theo tác giả, có thể hiểu một cách tổng quát, vi phạm hành chính trong
lĩnh vực GTĐB là những hành vi của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định của
pháp luật trong lĩnh vực GTĐB một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính, bao
gồm: Các hành vi vi phạm quy tắc GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về kết
cấu hạ tầng GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia
GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia

12


GTĐB; các hành vi vi phạm quy định về vận tải đường bộ; các hành vi vi phạm

khác về GTĐB.
1.2. Khái niệm, đặc điểm về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ
1.2.1. Khái niệm về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
Xử phạt hành chính là một biện pháp cưỡng chế hành chính do chủ thể có
thẩm quyền áp dụng đối với tổ chức cá nhân vi phạm hành chính; theo trình tự,
thủ tục xử phạt hành chính do pháp luật hành chính Việt Nam quy định. Xử phạt
hành chính được xác định là biện pháp thông dụng và phổ biến trong xử phạt vi
phạm hành chính. Xét ở góc độ nào đó thì xử phạt vi phạm hành chính là người
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chế tài hành chính trong văn bản pháp luật
về xử phạt hành chính. Ở góc độ hẹp xử phạt hành chính cũng gần với trách
nhiệm hành chính. Điều này cũng có nghĩa là trách nhiệm pháp lý hành chính
được thực hiện hóa thông qua hoạt động xử phạt hành chính. Dưới góc độ Luật
thực định, Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 đưa ra định nghĩa pháp lý
về xử phạt hành chính, theo đó, Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có
thẩm quyền xử phạt áp dụng hh́nh thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối
với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính [44] .
Như vậy, có thể thấy hai nội dung của thuật ngữ “xử phạt vi phạm hành
chính” là: 1) là hệ thống các quy định pháp luật hành chính điều chỉnh hoạt động
áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền xử phạt hành chính, 2) là hoạt động
xử phạt hành chính, từ khâu phát hiện vi phạm, tìm kiếm quy định áp dụng, đến
khâu áp dụng biện pháp xử phạt tương ứng với vi phạm.
Trong khoa học pháp lý, các định nghĩa về xử phạt vi phạm hành chính
được các luật gia quan tâm, điều này được thể hiện thông qua các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học: Xử phạt hành chính là biện pháp cưỡng chế

13



nhà nước do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành, áp dụng các hình
thức xử phạt hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo thủ
tục xử phạt vi phạm hành chính do pháp luật Việt Nam quy định [48, tr.216] hoặc
xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động áp dụng pháp luật, trong đó, người có
thẩm quyền áp dụng chế tài pháp luật hành chính (hình thức xử phạt, biện pháp
khắc phục hậu quả) đối với chủ thể vi phạm hành chính (cá nhân, tổ chức) theo
thủ tục do luật hành chính quy định, kết quả là chủ thể thực hiện vi phạm hành
chính phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất và tinh thần so
với trạng thái ban đầu của họ [20, tr.29].
1.2.2. Đặc điểm về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
Từ khái niệm xử phạt vi phạm hành chính nói trên, chúng ta có thể rút ra
khái niệm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ như
sau: Xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB là hoạt động của các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt VPHC đối với những
cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB theo thủ tục do
luật hành chính quy định nhằm đảm bảo trật tự ATGTĐB.
Ngoài những đặc điểm chung nói trên, xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ còn có những đặc điểm riêng, đó là:
Thứ nhất, cơ sở pháp lý của hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực
GTĐB hiện nay được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về
lĩnh vực trật tự, ATGTĐB như: Luật GTĐB 2008; Luật xử phạt VPHC năm
2012; Nghị định 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật xử phạt VPHC (được sửa đổi bởi Nghị định 97/2017/NĐ-CP ngày
18/8/2017); Nghị định 46/2016 quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB,
đường sắt; ... Nội dung của các văn bản này quy định cụ thể về các hành vi
VPHC trong lĩnh vực GTĐB, các hình thức, mức xử phạt được áp dụng với từng
hành vi vi phạm... So với các VPHC trong một số lĩnh vực khác, có thể nhận
thấy VPHC trong lĩnh vực GTĐB diễn ra với số lượng nhiều, tính phức tạp cao.


14


Thứ hai, thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB
Do hành vi VPHC trong lĩnh vực GTĐB xảy ra nhiều, do nhiều chủ thể
thực hiện, thời gian, không gian, địa điểm vi phạm cũng rất đa dạng, vì vậy thẩm
quyền xử phạt VPHC đối với các hành vi vi phạm này cũng phải rất cần sự đa
dạng. Chính vì vậy trong quy định về thẩm quyền xử phạt đối với các VPHC
trong lĩnh vực GTĐB do nhiều nhóm chủ thể có thể thực hiện được thẩm quyền
này bao gồm: Thanh tra giao thông; Cảnh sát giao thông; Lực lượng Cảnh sát
khác; Công an xã….
Thứ ba, hoạt động xử phạt VPHC. Do đặc điểm của vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ nên hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
có thể được bắt đầu ở những địa điểm bất kỳ không cố định nơi mà hành vi vi
phạm diễn ra. Do vậy mà đặc thù của quá trình xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực này gắn liền với sự “di động” của địa điểm nơi diễn ra hành vi vi phạm.
Cũng chính từ đặc thù nói trên mà mà hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ chủ yếu được được thực hiện trên cơ sở bắt
quả tang hành vi vi phạm. Do vậy mà hành vi vi phạm hành chính thường dễ
được biểu hiện ra bên ngoài – tức tính dễ bị phát hiện. Vì vậy mà vi phạm cần
được bắt quả tang và không nhất thiết phải trải qua thủ tục giám định như các
trong lĩnh vực khác.
1.3. Thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
1.3.1. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
Theo Từ điển Tiếng Việt, thẩm quyền được hiểu là tư cách, quyền hạn về
mặt chuyên môn được thừa nhận để có ý kiến có tính chất quyết định về một vấn
đề nào đó. Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền

và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ
máy Nhà nước do pháp luật quy định [33]. Theo quy định Luật GTĐB năm 2008
trách nhiệm quản lý GTĐB thuộc về các chủ thể sau: Chính phủ, Bộ Giao thông

15


vận tải, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân
các cấp [45]. Mặc dù thẩm quyền quản lý nhà nước về GTĐB được giao cho rất
nhiều chủ thể khác nhau, tuy nhiên với nguyên tắc mọi hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ phải được phát hiện kịp thời và phải bị
đình chỉ ngay. Việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh
chóng, khách quan, triệt để. Mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải
được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật. Do đó pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB quy định việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ phải do người có thẩm quyền thực
hiện và được tiến hành theo quy định của pháp luật. Theo đó, một quyết định xử
phạt vi phạm hành chính chỉ có giá trị pháp lý khi được ban hành bởi chức danh
có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính đó và việc xử phạt
được tiến hành tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Chính bởi lý do như
vừa trình bày, trong nội dung phân tích về thẩm quyền xử phạt VPHC trong lĩnh
vực GTĐB, tác giả cũng chỉ trình bày về thẩm quyền của bốn nhóm đó là: (i)
Thanh tra giao thông; (ii) Cảnh sát giao thông; (iii) Lực lượng Cảnh sát khác và
Công an xã .
1.3.1.1. Thanh tra giao thông
Là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành thanh tra chuyên ngành, trong
công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, Thanh tra Giao thông vận tải có vai
trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành những quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực giao thông vận tải và tham gia giao thông; xử phạt vi phạm

hành chính theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh
vực quản lý của Ngành và Công tác phòng, chống tham nhũng theo thẩm quyền
[55, tr.01]. Theo Thông tư số 02/2014/TT-BGTVT ngày 25 tháng 2 năm 2014
được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 32/2016/TT-BGTVT ngày 07 tháng 11
năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định quy trình thanh tra
chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính; công tác lập kế hoạch, chế độ báo

16


cáo và quản lý nội bộ của Thanh tra ngành Giao thông vận tải, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 1 năm 2016 thì Thanh tra Giao thông vận tải gồm có cơ quan
thanh tra nhà nước và Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành [6]; trong đó Cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm: Thanh tra Bộ Giao
[6]

thông vận tải và Thanh tra Sở Giao thông vận tải . Cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành, bao gồm: Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Cục
Đường sắt Việt Nam, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục Hàng không Việt
Nam, Cục Hàng hải Việt Nam, các Cục Quản lý đường bộ thuộc Tổng cục
Đường bộ Việt Nam, Cảng vụ Hàng không, Cảng vụ Hàng hải, Chi cục Đường
thủy nội địa, Cảng vụ Đường thủy nội địa thuộc Cục Đường thủy nội địa Việt
Nam [6]. Thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải là hoạt động thanh tra đối
với tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, quy trình, quy phạm, tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về giao thông vận tải đường bộ, đường thủy nội địa,
đường sắt, hàng hải và hàng không (bao gồm cả điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên) [6]. Trong lĩnh vực giao thông đường bộ, thanh tra giao thông có
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây[6]:
1) “Thanh tra, phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính đối
với tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý

và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật của
công trình đường bộ;……
2) Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ”
Như vậy, theo quy định của Thông tư số 08/2010/TT-BGTVT xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ là một trong hệ thống các
nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật đã trao quyền cho thanh tra giao thông. Dựa
trên các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, nhà làm luật đã quy định về thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại Nghị
định số 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Theo đó, Thanh tra giao thông
vận tải, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đường bộ
có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định về hoạt động vận

17


×