Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP hợp ĐỒNG VAY tài sản từ THỰC TIỄN tòa án NHÂN dân THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI VIỆT HƯNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả

Bùi Việt Hưng


LỜI CẢM ƠN


Trong hơn 2 năm học tập, nghiên cứu chương trình cao học Luật Kinh
tế tại Học viện khoa học xã hội, tôi đã tiếp thu được nhiều kiến thức mới,
những kinh nghiệm quý báu, là hành trang cho tôi tiếp tục thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ của mình.
Luận văn này là một phần kết quả quan trọng trong quá trình đào tạo
cao học. Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban
giám hiệu Học viện khoa học xã hội, các Thầy, Cô giáo trong và ngoài Học
viện khoa học xã hội đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn TS. Lê Đình Nghị – người đã hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình làm Luận văn. Thầy giáo đã cho tôi thêm nhiều kiến thức về khoa
học, cách tiếp cận và nghiên cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài
sản cũng như giúp em rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Mặc dù tôi đã có cố gắng trong quá trình làm luận văn, song không thể
tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý và
giúp đỡ quý báu của các Thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Tác giả

Bùi Việt Hưng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN ................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản ........................................... 6
1.2. Chủ thể, đối tượng, thời hạn, lãi suất trong hợp đồng vay tài sản ..... 16
1.3. Hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ .... 31
Chương 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN CỦA TAND THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN .................. 41

2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên ........................................ 41
2.2. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp hợp đồng vay
tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên trong 5 năm gần đây............. 44
2.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên và nguyên nhân .... 49
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN ........................ 56
3.1. Sự cần thiết đối với việc hoàn thiện quy định pháp luật dân sự về
hợp đồng vay tài sản. ................................................................................ 56
3.2. Những yêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định về hợp đồng
vay tài sản.................................................................................................. 58
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản......................................................................................... 63
KẾT LUẬN .............................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................... 71


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Thống kê các vụ án dân sự về tranh chấp hợp
Bảng 2.1

đồng vay tài sản được TAND thành phố Thái
Nguyên thụ lý từ năm 2014 đến năm 2018

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của hợp đồng trong đời
sống hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ
quốc gia nào chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định quan trọng vào
bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh
hoạt các giá trị vật chất trong xã hội.
Hợp đồng vay tài sản có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, đặc
biệt trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển, các giao lưu dân sự, thương
mại ngày càng đa dạng. Các quy định về hợp đồng vay tài sản được quy định
trong BLDS năm 2015 đã góp phần đảm bảo sự ổn định của xã hội, đảm bảo
lợi ích chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ

thể tham gia quan hệ hợp đồng vay. Trong thực tế, tranh chấp về hợp đồng
vay tài sản ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh kinh tế xã hội ngày càng phát
triển, yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản nhằm
đảm bảo lợi ích cho các chủ thể được đề ra một cách cấp thiết hơn. Tuy nhiên
những quy định về hợp đồng vay tài sản trong BLDS năm 2015 còn nhiều
thiếu sót, bất cập cần sớm có giải pháp hoàn thiện.
TAND thành phố Thái Nguyên là một trong những Tòa án lớn, số
lượng vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên trong những năm qua có xu hướng ngày càng tăng. Mỗi vụ án có nội
dung đa dạng và tính phức tạp cũng khác nhau nên việc giải quyết loại án này
gặp không ít khó khăn, trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như khó
khăn từ khách quan mang lại. Tuy nhiên, quá trình giải quyết TAND thành
phố Thái Nguyên đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần vào việc
giải quyết số lượng án và nâng cao tỷ lệ giải quyết của đơn vị và toàn ngành.
Ngoài ra, qua thực tiễn giải quyết án vay tài sản sẽ phát hiện ra những thiếu

1


sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù
hợp với những đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Chính vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên” làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hợp đồng vay tài sản không phải là một đề tài mới trong
khoa học pháp lý. Liên quan đến nội dung luận văn của học viên, có nhiều
công trình khoa học đã nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
Ở góc độ các luận văn, luận án: Bùi Kim Hiếu, “Hợp đồng vay tài sản
trong Luật Dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học; Nguyễn Hương

Lan, “Hợp đồng vay tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ luật học – Khoa Luật, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội;
Nguyễn Quý Linh, “Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản từ thực tiễn
Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng”, Luận văn thạc sỹ Luật học – Viện
Đại học Mở Hà Nội; Đỗ Thị Hồng Hạnh, “Hợp đồng vay tài sản qua thực tiễn
giải quyết tranh chấp tại Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng”, luận văn thạc
sĩ luật học – Khoa Luật, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Ở góc độ các bài viết trên các tạp chí: Dương Quốc Thành, “Một số
vấn đề bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản”,Tạp chí Toà án nhân dân;
Nguyễn Minh Oanh, “Cần sửa đổi, bổ sung một số điều về hợp đồng vay tài
sản”, Tạp chí Luật học; Trần Văn Biên, “Một số vướng mắc trong việc giải
quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản liên quan đến trả lãi và lãi suất”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Trần Văn Biên, “Một số ý kiến góp ý cho
các quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về hợp đồng vay tài
sản”, Viện Nhà nước và pháp luật; Trần Văn Biên, “Về chế định hợp đồng
vay tài sản”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Ngọc Điện, (2001),

2


“Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của luật dân sự”, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu những công trình nghiên cứu nêu trên, tác giả nhận
thấy: Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ trong
việc giải quyết hợp đồng vay tài sản trên một địa bàn cụ thể. Việc làm rõ vấn
đề giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại một địa bàn cụ thể cần phải
được xác định và nghiên cứu để làm nổi bật những đặc thù trong quan hệ vay
tài sản tại một địa bàn lớn như thành phố Thái Nguyên là cần thiết. Vì đây là
một trong những thành phố có dân số đông nhất, có nhiều các doanh nghiệp,
trung tâm dịch vụ thương mại lớn, nhiều hộ làm ăn cá thể, tiểu thương phát

triển mạnh … Cùng với sự tăng trưởng về các sản phẩm do lao động, sản xuất
kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn thành phố cũng phát triển, nhu cầu về vốn
tăng cao, vì vậy quan hệ vay tài sản cũng không ngừng gia tăng về số lượng,
giá trị cũng như tính phức tạp. Nhận thức được tính phức tạp của quan hệ vay
tài sản nói chung và việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản của
TAND thành phố Thái Nguyên nói riêng nên việc nghiên cứu đề tài này là
hết sức quan trọng và cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định hợp đồng vay tài sản, đưa
ra những kiến nghị có tính ứng dụng cao trong hoạt động xét xử của Tòa án,
góp phần nâng cao chất lượng xét xử liên quan đến tranh chấp hợp đồng vay
tài sản trên địa bàn thành phố Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên luận văn có
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý của chế định hợp đồng vay tài
sản theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam.

3


+ Nghiên cứu tranh chấp thực tế đã phát sinh qua thực tiễn giải quyết
của TAND thành phố Thái Nguyên để làm rõ những điểm còn bất cập của
pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh hợp đồng vay tài sản hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
hợp đồng vay tài sản.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận, nội dung các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản và việc
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại TAND thành phố Thái

Nguyên. Nguyên nhân và những bất cập trong việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng vay tài sản, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng xét xử và góp phần giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại
Tòa án ngày một tốt hơn.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét, nghiên cứu lý luận và các quy
định của pháp luật hiện hành về hợp đồng vay tài sản và việc giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên trong 05
năm gần đây, trong đó đi sâu phân tích nguyên nhân của những tồn tại và đưa
ra giải pháp khắc phục.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản.
Phương pháp nghiên cứu:Để giải quyết yêu cầu của đề tài, luận văn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp luận duy vật lịch sử: tiến hành nghiên cứu trên cơ sở quá
trình hình thành và phát triển của chế định hợp đồng vay tài sản ở Việt Nam;
+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: đây là phương pháp quan
trọng và được tác giả sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện đề tài của mình.

4


+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sưu tầm và phân tích các vụ tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản để làm rõ thực tiễn áp dụng chế định này. Các ví
dụ liên quan đến bản án, vụ việc tranh chấp do TAND thành phố Thái Nguyên
giải quyết được sử dụng để phân tích, tham chiếu trong luận văn được tác giả
mã hoá tên riêng của doanh nghiệp, cá nhân theo ký tự a, b, c ... để đảm bảo
tính bí mật thông tin cá nhân.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản, làm rõ những đặc thù của loại án này tại TAND
thành phố Thái Nguyên.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo cho hoạt động
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên ngày càng hiệu quả, đáp ứng được công cuộc cải cách tư pháp. Đề
xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài
sản, góp phần nâng cao chất lượng xét xử nói chung trong việc giải quyết
tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP
ĐỒNG VAY TÀI SẢN
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG VAY TÀI SẢN CỦA TAND THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
1.1. Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng vay tài sản
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động đều được tiền tệ hoá. Do

vậy, mỗi chủ thể phải có một nguồn vốn nhằm thoả mãn nhu cầu của mình và
tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu
cầu về vốn cũng được đáp ứng đầy đủ. Sự không ăn khớp giữa nguồn vốn và
sử dụng vốn của mỗi chủ thể trong xã hội dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu
vốn. Vấn đề đặt ra lúc này là nhu cầu giao lưu vốn xuất hiện. Hợp đồng vay
tài sản ra đời để giải quyết nhu cầu này. Nhà nước đã tạo điều kiện cho
nhân dân vay vốn của ngân hàng với mức lãi suất phù hợp, các hộ nông dân
nghèo có thể phát triển được sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nhân dân vay,
mượn tài sản của nhau để tiêu dùng cho những việc cần thiết trong gia đình
hoặc để kinh doanh là việc làm phổ biến và có ý nghĩa cần được Nhà nước
khuyến khích.
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mối quan hệ xã hội nói chung
và quan hệ pháp luật nói riêng. Trong khoa học pháp lý hiện đại, có nhiều
cách tiếp cận về tài sản. Theo quy định của Cộng Hoà Pháp, “Tất cả tài sản là
động sản hoặc bất động sản”. Từ quy định này có thể nhận thấy, pháp luật
của Cộng hoà Pháp không đưa ra một định nghĩa cụ thể về tài sản mà tiếp cận
thuật ngữ này gián tiếp thông qua hai “tiểu khái niệm” là “động sản” và “bất
động sản”. Nội hàm của khái niệm “tài sản” trong pháp luật của Cộng hoà
Pháp xoay quanh hai khái niệm: “động sản” và “bất động sản”.
Trong pháp luật Việt Nam, Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Đến BLDS năm 2015,
quy định về tài sản có chút ít thay đổi theo đó: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có

6


giá và quyền tài sản”. Đây không phải là một định nghĩa hoàn chỉnh về tài
sản, nhà làm luật đang cố gắng liệt kê tất cả các dạng tồn tại của tài sản trong
đời sống xã hội. Việc liệt kê các dạng tồn tại của tài sản này có thể dẫn đến
tình trạng bỏ sót một số tài sản đang hiện hữu trong thực tiễn cuộc sống, đồng

thời không chỉ rõ được các đặc tính pháp lý cơ bản để nhận diện tài sản.
Nghiên cứu quy định về tài sản trong Chương VII, BLDS năm 2015.Có
thể nhận thấy, mặc dù Điều 105 có nhắc đến tiền và giấy tờ có giá với tính
chất là một loại tài sản luật định tuy nhiên cả Chương VII hoàn toàn không
có quy định giải nghĩa hai loại tài sản này. Việc nhà lập pháp ghi nhận “quyền
tài sản” duy nhất ở một điều luật (Điều 115) trong BLDS năm 2015 và chỉ
đưa ra được một tiêu chí nhận diện quyền tài sản – “phải trị giá được bằng
tiền” là chưa làm rõ được nội hàm khái niệm quyền tài sản. Khi đối chiếu vào
điều 107 BLDS năm 2015 không thể xác định được quyền tài sản là động sản
hay bất động sản.
Theo quy định tài Điều 105 BLDS năm 2015, tài sản có thể là vật, tiền,
giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản.
Vật với tư cách là tài sản được hiểu là đối tượng của thế giới vật chất
theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, và tồn tại ở mọi trạng thái
(rắn, lỏng, khí). Tuy nhiên, để được coi là tài sản thì vật cũng phải thỏa mãn
được những đặc điểm của tài sản đã nêu ở trên. Ví dụ: nước trong một dòng
sông, không khí ngoài khí quyển không thể nằm trong sự kiểm soát, chi phối
của con người, do đó mặc dù cũng được coi là đối tượng tồn tại trong thế giới
vật chất nhưng chúng không được xem xét với tư cách là tài sản. Khi nước
được đóng vào chai, không khí được nén vào bình, con người có thể thực hiện
việc kiểm soát, chi phối chúng, khi đó nước và không khí lại được coi là tài
sản (tồn tại dưới dạng vật).

7


Tài sản là tiền. Tiền có chức năng trao đổi ngang giá với những loại tài
sản khác. Tiền do Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành và được hiểu là
Việt Nam đồng. Giá trị của tiền được thể hiện ở mệnh giá trên chính đồng tiền
đó. Tiền giữ chủ quyền quốc gia, có giá trị sử dụng ổn định và được sử dụng

rộng rãi trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh chức năng trao đổi, tiền
còn có chức năng dự trữ và thanh toán trên thị trường. Bên cạnh những đồng
tiền Việt Nam thì những ngoại tệ như USD, bảng Anh… cũng là tài sản tại
dưới dạng tiền, tuy nhiên chúng thuộc nhóm tài sản hạn chế lưu thông.
Tài sản là giấy tờ có giá. Giấy tờ có giá được hiểu là những giấy tờ trị
giá được thành tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. BLDS
2015 không có quy phạm pháp luật quy định về giấy tờ có giá mà quy định về
loại tài sản này nằm Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật các
công cụ chuyển nhượng năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung năm 2010)… Theo đó có các loại giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, trái
phiếu, hối phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ ký quỹ…
Tài sản dưới dạng quyền tài sản. Quyền tài sản được quy định cụ thể tại
Điều 115 BLDS năm 2015. Theo đó quyền tài sản được hiểu là quyền có thể
trị giá được thành tiền, và chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Quyền tài
sản bao gồm quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất,
hoặc một số quyền tài sản khác như: quyền đòi nợ, quyền yêu cầu chi trả
khoản tiền bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm. Căn cứ vào cách thức
thực hiện quyền của chủ thể, quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có
thể được chia làm hai nhóm, quyền đối vật và quyền đối nhân. Trong quan
niệm của người La-tinh, khối tài sản có của một người được tạo thành từ hai
loại quyền: Quyền đối vật – tức là các quyền được thực hiện trên các vật cụ

8


thể và xác định; quyền đối nhân – bao gồm các quyền tương ứng với các
nghĩa vụ tài sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền.
Hiểu một cách khái quát, quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện

các hành vi trực tiếp trên những vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay hợp
tác của các chủ thể khác. Các quyền tài sản thể hiện dưới dạng quyền đối vật
trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể kể đến là quyền sở hữu, quyền hưởng
dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề; quyền của bên bảo
đảm đối với tài sản bảo đảm…
Đối lập với quyền đối vật là quyền đối nhân. Quyền đối nhân được thiết
lập trong mối quan hệ giữa hai người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật. Có
thể hiểu, quyền đối nhân là quyền cho phép một người yêu cầu một người
khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với một
lợi ích vật chất của mình. Mối quan hệ giữa hai người này còn gọi là quan hệ
nghĩa vụ. Bản chất quyền đối nhân là quyền của chủ thể (chủ thể quyền) được
yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa vụ) phải thực hiện một hành vi
nhất định, nói cách khác quyền của chủ thể quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ
được thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ.
Tiêu biểu cho các quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm quyền đòi nợ, quyền yêu cầu cấp dưỡng,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm…
Từ điển Tiếng Việt giải nghĩa “vay” được hiểu là “nhận tiền hay vật gì
của người khác để chi dùng trước với điều kiện sẽ trả tương đương hoặc có
thêm phần lãi”. Như vậy, dưới góc độ là quan hệ xã hội, quan hệ vay tài sản
phải có ít nhất hai chủ thể tham gia, được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa
các bên, đối tượng của quan hệ là tiền hoặc vật bất kỳ. Về phương diện chủ
quan, hợp đồng vay tài sản là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự

9


trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.

Ngay từ thời La Mã cổ đại, hợp đồng vay tài sản đã trở thành một trong
những hợp đồng thông dụng nhất của pháp luật về hợp đồng. Luật của
Justinian còn quy định: "Các bên trong hợp đồng vay tài sản cũng không được
thỏa thuận về lãi suất theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi con". Dưới chế độ cũ ở miền
Nam Việt Nam, trong Bộ Dân luật Sài Gòn 1972, tại chương V: nói về khế
ước vay mượn, Điều 1156 quy định:
" Có hai loại khế ước vay mượn:
1. Vay mượn vật không bị tiêu thất vì sự hành dụng: đó là khế ước
mượn dùng;
2. Vay mượn vật nếu đã dùng sẽ không còn nữa: đó là khế ước vay nợ "
Tại Điều 1173, khế ước vay nợ được định nghĩa như sau: "Khế ước vay
nợ là khế ước trong đó, một bên đương sự giao cho bên kia một số đồ vật sẽ
bị tiêu thất do sự tiêu thụ, người vay khi tới hạn sẽ phải hoàn trả lại đúng số
lượng, cùng loại, cùng hạng như đồ vật đã vay, mặc dầu đồ vật ấy có tăng giá
hay sụt giá".
Trước đây, BLDS năm 2005 định nghĩa hợp đồng vay: “Hợp đồng vay
tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó, bên cho vay giao tài sản cho
bên vay; khi đến hạn trả, bên cho vay phải hoàn trả cho bên vay vật cùng loại
theo đúng số lượng, đúng chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định”.
Hiện nay, hơp đồng vay được quy định tại Điều 463 BLDS năm 2015:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho
vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Có thể nhận thấy, về cơ bản định
nghĩa về hợp đồng vay tài sản trong hai BLDS không có gì khác nhau. Hợp
đồng vay tài sản được xác lập dựa trên các yếu tố: (i) sự thoả thuận, thống
10



nhất ý chí giữa các bên; (ii) thời hạn hợp đồng – do các bên thoả thuận; (iii)
Đối tượng của hợp đồng là tiền hoặc vật cùng loại.
Xuất phát từ nguyên tắc "tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận tại Điều
3 BLDS năm 2015, hợp đồng vay tài sản phải được hình thành sự thoả thuận
và thống nhất ý chí giữa các bên. Thỏa thuận ở đây là sự thỏa thuận giữa bên
cho vay và bên vay trong hợp đồng. Hợp đồng có được thiết lập hay không là
do sự thỏa thuận giữa các bên, tức phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên
trong việc làm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhất định, bởi vì ý chí là khả năng
tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình, khắc phục
khó khăn nhằm đạt mục đích đó. Sự thỏa thuận này tất nhiên không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Đặc biệt, các bên chủ thể khi
giao kết hợp đồng phải có sự tự nguyện – tức là phải có sự thống nhất ý chí và
bày tỏ ý chí của từng chủ thể trong hợp đồng. Khi đó, nếu các bên tham gia
hợp đồng không có sự tự nguyện thì hợp đồng sẽ dẫn đến vô hiệu và khi có
tranh chấp đối với hợp đồng này thì là cơ sở để cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền tham gia giải quyết.
Trên cơ sở những vấn đề pháp lý về hợp đồng vay tài sản trong BLDS
năm 2005 và BLDS năm 2015 cũng như những vấn đề có liên quan. Chúng
tôi có cùng quan điểm về định nghĩa hợp đồng vay như Điều 463 BLDS năm
2015, theo đó: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải
trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
1.1.2. Đặc điểm về hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là một dạng đặc biệt của hợp đồng dân sự, do vậy
bên cạnh những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự thì hợp đồng vay tài sản
cũng có những đặc điểm riêng của nó. Đây chính là cơ sở giúp ta phân biệt
hợp đồng vay tài sản với các loại hợp đồng dân sự khác.
- Hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng đơn vụ hoặc hợp đồng song vụ
11



Căn cứ vào mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ của các bên tại thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng. Các hợp đồng thông dụng được chia làm 02 loại:
hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà tại
thời điểm hợp đồng có hiệu lực, chỉ một bên chủ thể có quyền đối với bên kia
và ngược lại. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà từ thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng, các bên chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Do đó nếu
trong hợp đồng vay tài sản, các bên thoả thuận nghĩa vụ giao tài sản của bên
vay cho bên đi vay sau thời điểm giao kết (thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng) thì hợp đồng này được xác định là hợp đồng song vụ. Trường hợp các
bên có thoả thuận bên cho vay chuyển giao tài sản vay cho bên đi vay ngay tại
thời điểm giao kết, thì hợp đồng vay được xác định là hợp đồng đơn vụ.
Từ thời điểm này trở đi, người cho vay có quyền yêu cầu người vay sử
dụng tài sản vay đúng mục đích (nếu có thoả thuận), có quyền yêu cầu người vay
hoàn trả lại tài sản đã vay cùng loại, theo đúng số lượng, chất lượng và một
khoản lãi (nếu có) khi đến hạn, còn người vay không có quyền gì đối với người
cho vay. Chính vì vậy, hợp đồng vay tài sản được xem là hợp đồng đơn vụ.
- Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù
Căn cứ vào lợi ích đem lại cho các bên khi xác lập quan hệ hợp đồng.
Các hợp đồng dân sự được chia làm 02 loại, hợp đồng có đền bù và hợp đồng
không có đền bù. Hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng có đền bù hoặc
không có đền bù.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có tính đền bù khi một bên sau khi đã
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận lại một lợi ích tương ứng. Hợp đồng
vay tài sản có tính đền bù được áp dụng có tính chất bắt buộc trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng. Các tổ chức tín dụng cho vay tiền đều có quy định
mức lãi suất tương ứng tùy thuộc vào từng thời điểm, tính chất và đặc điểm
của hợp đồng vay tài sản. Hoặc trong trường hợp bên này cho bên kia vay và


12


có thỏa thuận là vay có lãi thì tới thời hạn trả nợ bên vay không những trả nợ
gốc mà còn trả số tiền lãi mà các bên đã thỏa thuận nhưng phải phù hợp với
quy định của pháp luật.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng không có tính đền bù khi trong hợp
đồng vay các bên không thoả thuận về lãi suất. Khi đến hạn trả nợ, bên vay
chỉ có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ lại số tiền vay hoặc vật cùng loại cho bên cho
vay, mà không trả thêm bất kỳ một khoảng lợi ích vật chất nào khác, hay một
giá trị tài sản nào khác. Loại hợp đồng này có tính chất tương rợ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các chủ thể nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời của đời sống
hoặc giúp đỡ nhau phát triển sản xuất kinh doanh là chính, chủ yếu được giao
kết giữa các chủ thể có mối quan hệ quen biết lẫn nhau.
- Hợp đồng vay tài có hậu quả pháp lý làm chuyển giao quyền sở hữu
tài sản vay từ bên cho vay sang cho bên vay
Đây là dấu hiệu để phân biệt hợp đồng vay tài sản với các hợp đồng
dân sự thông dụng khác như: hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng thuê tài sản.
Vì trong hai hợp đồng này, người mượn và người thuê tài sản không trở thành
chủ sở hữu tài sản mượn và thuê, mà chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản
đã mượn, thuê trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Khi hết
hạn, bên mượn, bên thuê phải trả đúng tài sản đã mượn, thuê cho bên cho
mượn, bên cho thuê tài sản. Còn trong hợp đồng vay tài sản, "bên vay trở
thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó". Bên vay có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản vay. Hết thời hạn vay, bên vay
chỉ cần trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất
lượng, mà không phải trả lại đúng tài sản đã vay.
Như vậy, khi giao kết hợp đồng vay tài sản thì bên cho vay chuyển giao
tài sản đồng thời chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho bên vay. Tuy
nhiên, bên vay chỉ trở thành chủ sở hữu đối với tài sản vay khi nhận được tài


13


sản vay đó với sự thống nhất với bên cho vay về một số điều kiện vay. Điều
kiện vay có thể là lãi suất, là việc sử dụng tài sản vay đúng mục đích… và đặc
biệt là hoàn trả tài sản vay sau một thời gian nhất định.
- Đối tượng của hợp đồng vay là tiền hoặc vật cùng loại
Do tính chất của hợp đồng vay, bên cho vay sẽ chuyển giao quyền sở
hữu tài sản vay của mình sang cho bên đi vay. Với tư cách là chủ sở hữu tài
sản vay từ thời điểm nhận tài sản, bên cho vay có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản đó. Hết thời hạn vay bên vay sẽ không thể trả lại chính tài
sản vay mà chỉ có thể trả lại giá trị tài sản vay (và lãi nếu có thoả thuận).
Chính vì vậy đối tượng của hợp đồng vay tài sản chỉ có thể là tiền hoặc các
vật cùng loại
1.1.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là một dạng của giao dịch dân sự, vì vậy, để phát
sinh hiệu lực trên thực tế, hợp đồng vay tài sản phải thoả mãn đầy đủ các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015.
Cụ thể là các điều kiện sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng vay tài sản phải có năng lực giao kết
hợp đồng. Chủ thể giao kết hợp đồng vay tài sản phải thỏa mãn đầy đủ về
năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật. Những người từ đủ 15 tuổi đến
18 tuổi đã có thể là chủ thể giao kết hợp đồng vay tài sản. Khi một hợp đồng
vay tài sản được giao kết hợp pháp, tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, hợp
đồng vay sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên ngay từ thời
điểm giao kết hoặc một thời điểm các bên đã thoả thuận rõ trong nội dung
hợp đồng, do vậy để hợp đồng có hiệu lực pháp lý và có khả năng thực hiện,
người giao kết hợp đồng phải có khả năng nhận thức hành vi giao kết hợp
đồng cũng như hậu quả của việc giao kết hợp đồng. Đối với cá nhân, tổ chức

giao kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền.

14


Thứ hai, Khi giao kết hợp đồng vay tài sản, các bên phải hoàn toàn tự
nguyện. yếu tố tự nguyện khi giao kết hợp đồng được thể hiện ở hai nội dung:
(i) có sự thỏa thuận thống nhất giữa ý chí bên trong và sự thể hiện ý chí ra bên
ngoài khi xác lập hợp đồng; (ii) các bên không bị lừa dối, đe doạ, ép buộc
giao kết hợp đồng.
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ giao
kết, sự thoả thuận giữa các bên phải hoàn toàn tự nguyện, không có bất kỳ
một sự ép buộc nào. Việc thể hiện ý chí của các bên phù hợp với nguyện vọng
thực của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng của các bên, đồng thời
không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Việc giao kết hợp
đồng nói chung và hợp đồng vay tài sản nói riêng phải tuân theo các nguyên
tắc: tự do giao kết những không trái pháp luật và đạo đức xã hội: Tự nguyện,
bình đẳng, thiện chí... Những hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối để giao kết
hợp đồng... là lý do dẫn đến hợp đồng bị coi là vô hiệu.
Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng vay tài sản không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Mục đích của hợp đồng là
những lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi giao kết hợp
đồng. Trong hợp đồng vay, các bên có thể thoả thuận rõ về nội dung sử dụng
tài sản vay vào mục đích nào đó ví dụ như để tiêu dùng, để đầu tư sản xuất
kinh doanh… Tuy nhiên một giới hạn mà BLDS đặt ra cho các bên khi xác
lập hợp đồng vay với mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức
xã hội thì hợp đồng vay đó sẽ vô hiệu. Ví dụ, hợp đồng vay có mục đích sử
dụng tiền vay để cá cược bóng đá, chơi lô đề; hợp đồng vay có mục đích sử
dụng tiền vay để mua ma tuý…
Thứ tư, hình thức của hợp đồng vay tài sản phải tuân theo quy định của

pháp luật. BLDS năm 2015 không quy định hình thức bắt buộc của hợp đồng
vay tài sản, vì vậy quy định về hình thức chung của giao dịch dân sự được áp

15


dụng cho các hợp đồng vay tài sản. Theo đó, hợp đồng vay tài sản có thể được
xác lập dưới hình thức miệng hoặc hình thức văn bản (bao gồm cả hình thức
văn bản có công chứng). Vì vậy tuỳ từng trường hợp cụ thể, phụ thuộc vào
giá trị của tài sản cho vay mà sự thoả thuận thống nhất ý chí của các bên có
thể bằng miệng, bằng văn bản hoặc văn bản phải được công chứng.
1.2. Chủ thể, đối tượng, thời hạn, lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
1.2.1. Chủ thể của hợp đồng vay tài sản
Trước đây, theo quy định của BLDS năm 2005, các chủ thể của quan
hệ pháp luật dân sự nói chung cũng như các chủ thể của hợp đồng vay tài sản
nói chung bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên từ
thời điểm ngày 01/01/2017 khi BLDS năm 2015 có hiệu lực, chủ thể trong
hợp đồng vay tài sản chỉ bao gồm: cá nhân và pháp nhân. Các cá nhân và
pháp nhân này phải có đủ năng lực chủ thể khi giao kết hợp đồng vay tài sản
* Chủ thể cá nhân
Đây là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và phổ biến nhất của các quan hệ dân
sự nói chung và quan hệ vay tài sản nói riêng, các chủ thể khác khi tham gia vào
quan hệ dân sự cũng đều phải thông qua hành vi của con người cụ thể. Vì vậy,
để tham gia vào quan hệ vay tài sản, cá nhân phải có tư cách chủ thể, tức là năng
lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp theo quy định pháp luật. Theo quy
định tại Điều 16 Bộ luật dân sự 2015, “năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
khả năng cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”, năng lực pháp luật của
mọi cá nhân là bình đẳng không phụ thuộc vào giới tính, dân tộc, độ tuổi hay tôn
giáo. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh và mất đi khi cá nhân
chết, và không bị hạn chế, trừ trường hợp đặc biệt.

Tuy nhiên, để có thể tự mình thao gia vào các giao dịch dân sự, trong
đó có hợp đồng vay tài sản, cá nhân còn phải thỏa mãn điều kiện về năng lực
hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. BLDS năm

16


2015 chia năng lực hành vi dân sự của các cá nhân thành 03 mức độ khác nhau,
dựa trên khả năng nhận thức làm chủ hành vi của cá nhân và dựa trên tiêu chí về
độ tuổi, cụ thể gồm: (i) người mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 BLDS năm
2015); (ii) người có năng lực hành vi dân sự một phần – không đầy đủ, gồm:
người chưa thành niên (là những người chưa đủ 18 tuổi), người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự (Điều 24); người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi (Điều 23); (iii) Những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (là những
người đủ 18 tuổi trở lên, không bị Toà án tuyên mất năng lực hành vi dân sự, hạn
chế năng lực hành vi dân sự hay khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi.
Trong các đối tượng nêu trên, chỉ có những người có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người từ đủ 15 tuổi đến
dưới 18 tuổi mới có thể tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng vay tài sản.
Đối với cá nhân là người nước ngoài, theo quy định tại Điều 674 BLDS
2015 năng lực hành vi dân sự của họ được xác định theo pháp luật của nước
mà người đó là công dân. Tuy nhiên, khi xác lập và thực hiện giao dịch dân
sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam người nước ngoài
phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác lập và thực hiện
đối với loại giao dịch dân sự đó.
* Chủ thể pháp nhân
Bộ luật dân sự năm 2015 cũng như các BLDS của Việt Nam trước đây
đều không có quy phạm định nghĩa về pháp nhân mà chỉ có những quy định
dưới dạng liệt kê một các điều kiện để một tổ chức trở thành pháp nhân. Cụ

thể, tại khoản 1 Điều 74 BLDS năm 2015 quy định 04 điều kiện để trở thành
pháp nhân, cụ thể:
Thứ nhất, được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật này, luật
khác có liên quan. Pháp nhân ở Việt Nam có thể được thành lập hợp pháp
theo 3 con đường:

17


+ Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ:
Giám đốc sở xây dựng của tỉnh X ra quyết định thành lập một trung tâm quy
hoạch của sở xây dựng của tỉnh X. Bộ trưởng Bộ tư pháp ra quyết định thành
lập trường Trung cấp Luật Đồng Hới, Quảng Bình…
+ Theo trình tự cho phép thành lập. Ví dụ: Việc thành lập đoàn luật
sư của một tỉnh sẽ thông qua các bước sau: 1. Những người sáng lập gửi hồ sơ
đề nghị thành lập Đoàn Luật sư đến Sở Tư pháp; 2. Sở Tư pháp chủ trì, phối
hợp với Sở Nội vụ thẩm định hồ sơ và trình UBND tỉnh quyết định thành lập.
3. UBND tỉnh có văn bản gửi Bộ Tư pháp về việc thành lập Đoàn luật sư tại
địa phương. 4. Trên cơ sở văn bản nhất trí của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. UBND
tỉnh quyết định thành lập Đoàn Luật sư. Trong trường hợp từ chối thì phải
thông báo lý do bằng văn bản.
+ Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Ví dụ, việc
thành lập các loại pháp nhân là doanh nghiệp thông qua việc đăng ký kinh
doanh ở phòng đăng ký kinh doanh trực thuộc Sở kế hoạch đầu tư các tỉnh.
Thứ hai, có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật
này. BLDS năm 2005 quy định về điều kiện bắt buộc của một tổ chức có tư
cách pháp nhân là phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tuy nhiên khi thực hiện
trong thực tiễn đã xảy ra không ít những vướng mắc cần phải nghiên cứu lại.
Cơ cấu tổ chức như thế nào được coi là cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Ví dụ, một
tập thể lớp bao gồm ban cán sự, chi đoàn thanh niên và các thành viên có

được coi là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ không? Hay khoa pháp luật Dân sự, có
cơ cấu gồm: ban lãnh đạo khoa, trưởng khoa, 2 phó khoa phụ trách, 3 tổ bộ
môn trực thuộc và trung tâm luật SHTT có được coi là có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ không? Thông thường một pháp nhân được coi là cơ cấu tổ chức chặt chẽ
khi đáp ứng 2 điều kiện: Pháp nhân phải là một tập thể người được sắp xếp
dưới một hình thái nào đó (doanh nghiệp, bện viện, trường học...) phù hợp với

18


chức năng và lĩnh vực hoạt động của pháp nhân; Có sự thống nhất về tổ chức,
độc lập về hoạt động được quy định cụ thể trong quyết định thành lập, điều lệ
của từng loại tổ chức – phân biệt với các phòng, ban, khoa trong các trường
học, trong các tổ chức. Mặc dù có sự thống nhất về tổ chức nhưng không có
sự độc lập trong hoạt động nên không thể coi là pháp nhân.
Theo quy định của BLDS năm 2015, pháp nhân phải có cơ cấu tổ
chức theo quy định của Điều 83 tức là pháp nhân phải có cơ quan điều hành.
Cơ quan điều hành phải là một tập thể gồm nhiều người và có trụ sở làm việc
cụ thể. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều hành được quy định
trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Thứ ba, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình. Tài sản của mỗi pháp nhân phải độc lập
vơi tài sản của pháp nhân khác và độc lập với tài sản của thành viên pháp
nhân. Yếu tố độc lập ở đây phải hiểu là khi pháp nhân có nghĩa vụ về tài sản
thì không được lấy tài sản riêng của thành viên pháp nhân ra để thực hiện
nghĩa vụ và ngược lại, khi thành viên của pháp nhân có nghĩa vụ tài sản với ai
đó thì không được phép kê biên tài sản của pháp nhân để trả nợ. Liên quan
đến nội dung này cần xem xét về một số loại pháp nhân, ví dụ các cơ quan
Nhà nước ở địa phương là pháp nhân nhưng tài sản sản của các pháp nhân này
là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do pháp nhân Nhà nước đại diện và quản lý.

Vậy tài sản của các pháp nhân là cơ quan nhà nước có được coi là độc lập với
pháp nhân khác hay không? Hay trong Luật Doanh nghiệp quy định về các
công ty Nhà nước (tồn tại dưới dạng trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
nhà nước làm chủ sở hữu), nhà nước sở hữu 100% số vốn điều lệ.
Tài sản của pháp nhân được hình thành từ các nguồn sau: vốn góp
của các thành viên; lãi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của pháp nhân; tài
sản được tặng cho, thừa kế; tài sản của nhà nước được nhà nước giao quyền

19


×