Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng để thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố hưng yên tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN GIA PHONG

KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN GIA PHONG

KÊ BIÊN TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN

Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.
Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất
kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ ............................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng ......................................................................................................... 6
1.2. Cơ sở và phân loại kê biên kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ...... 21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng ....... 28
Chương 2; QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KÊ BIÊN
TÀI SẢN BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN TỈNH HƯNG YÊN...... 31
2.1. Quy định của pháp luật về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng theo pháp luật thi hành án dân sự .......................................................... 31
2.2. Thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng theo pháp luật
thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên .......................... 41
Chương 3; ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG TẠI THÀNH PHỐ HƯNG YÊN
TỈNH HƯNG YÊN .................................................................................................. 56
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện kê

biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng Yên tỉnh
Hưng Yên ....................................................................................................... 56
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng .................................................................... 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

THADS

Thi hành án dân sự

CHV

Chấp hành viên

THA

Thi hành án


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thi hành án dân sự (THADS) thì cưỡng chế thi hành án là một trong

những biện pháp mà Chấp hành viên lựa chọn để đảm bảo thi hành các Bản án, Quyết
định của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được chấp
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện Nhà nướcpháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì
vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững
kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm
bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế, tại Điều 106, Hiếp pháp năm
2013 khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lựcpháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành.”
Thi hành án dân sự là một hoạt động đã, đang và sẽ là “vấn đề nóng” của xã
hội, do đó đòi hỏi các ngành, các cơ quan chức năng phải có sự chỉ đạo sâu sát, kịp
thời để tìm ra giải pháp đúng đắn cho lĩnh vực còn gặp nhiều trắc trở này. Tầm quan
trọng của hoạt động thi hành án còn được thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 như
sau: “xây dựng cơ chế đảm bảo mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án
phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Trong các biện pháp cưỡng chế mà Luật thi hành án
dân sự 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì biện pháp kê biên tài sản là phức
tạp và thường gặp khó khăn nhất khi áp dụng. Việc ban hành Luật thi hành án dân
sự - Một văn bản chuyên ngành có giá trị pháp lý cao với cơ chế mới và chặt chẽ
cho thấy công tác thi hành án dân sự đã dần đi vào lề lối.
Thể hiện tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh các
kết quả đạt được vấn đề áp dụng biện pháp kê biên tài sản từ thực tiễn thành phố
Hưng Yên vẫn còn những khó khăn vướng mắc, bất cập nhất định, như nhiều bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng chậm tổ chức thi hành; việc áp dụng
1



biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản còn tồn tại..., các nguyên nhân chủ quan và
khách quan liên quan đến vấn đề này có thể xuất phát từ những bất cập của pháp
luật về kê biên tài sản. Hay công tác phối hợp kê biên tài sản còn chưa được chính
quyền địa phương chú trọng; điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ,
công chức ngành thi hành án dân sự chưa được quan tâm tốt.
Trong quá trình THADS, các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả
thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo Bản án, Quyết định
của Tòa án nhưng khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc
dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh nghĩa vụ, không tự
nguyện thi hành thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế để thi hành án.
Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế kê biên phức tạp đòi hỏi Chấp hành viên
phụ trách hồ sơ thi hành án phải có kỹ năng toàn diện mới có thể thực hiện được
công việc này. Mặt khác việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp
của các ngành, các cấp, nếu thiếu một thành phần theo quy định thì buổi cưỡng chế
kê biên đó phải dừng hoặc hoãn, gây tổn thất lớn về công sức, kinh tế và tài sản cho
các bên đương sự, tổ chức và Nhà nước.
Chính vì những lập luận trên, học viên quyết định chọn vấn đề: Kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt
Nam từ thự tiễn thành phố Hưng Yên, làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các biện pháp cưỡng chế THADS trong đó có biện pháp kê biên tài sản, nội
dung của luận văn có liên quan đến nhiều công trình nghiên cứu, nhưng cần quan
tâm chú trọng đến các công trình bài viết sau:
“Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu
năm 2011. “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác
giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề THADS năm
2010; “Về kê kiên, xử lý tài sản” của TS Nguyễn Thanh Thủy và Th.S Lê Thị Kim
Dung trong cuốn “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp

luật về thi hành dân sự”, nhà xuất bản Tư pháp năm 2010; “Vấn đề cưỡng chế đối
với người thứ ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại
đất sau cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về
THADS của Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 5 năm 2012.
2


- Luận văn Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh. “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Thanh Thủy.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, “Thực hiện pháp luật về THADS ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” tác giả Lại
Anh Thắng.
- Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, “Đổi mới thủ tục
thi hành án dân sự Việt Nam” tác giả Lê Anh Tuấn năm 2014.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, “Áp dụng biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản án, quyết định của tòa án qua
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Châu Vũ.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách hệ thống
và toàn diện các vấn đề về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành
án dân sự. Luận văn là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ
thống các vấn đề liên quan về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay theo pháp luật thi hành
án dân sự hiện hành của Việt Nam đặc biệt với thực tiễn áp dụng tại một địa phương là
thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng yên
trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án và kê biên tài sản bảo đảm tiền
vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.
- Phân tích về pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi
hành án dân sự, thực tiễn thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hưng Yên tỉnh
Hưng Yên và tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuân khổ luận văn thạc sĩ luật học, tôi tập trung nguyên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án
dân sự, từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nhằm
nâng cao hiệu quả về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án
dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng như khái niệm, đặc điểm kê biên tài sản bảo đảm
tiền vay ngân hàng, vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng; các quy
định của Luật THADS về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng và thực tiễn
thực hiện biện pháp này trong những năm gần đây trên địa bàn thành phố Hưng
Yên, tỉnh Hưng Yên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay về kê biên tài sản theo pháp luật thi hành án dân sự.

Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, trong chương 1 luận văn, tác giả sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử cùng
các phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp logic.
Trong chương 2 và chương 3, luận văn nghiên cứu chủ yếu bằng phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng xuyên suốt để nêu, phân
tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong luận văn.
- Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng để cung cấp các số liệu cần
thiết, đối chiếu, so sánh, làm rõ thực trạng thực hiện cưỡng chế kê biên tài sản, tìm
hiểu các giải pháp hoàn thiện pháp luật.

4


- Phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để góp phần tổng kết thực tiễn
sâu sắc về cưỡng chế kê biên tài sản.
- Phương pháp kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn cũng được sử dụng
trong tiến trình thực hiện luận văn để đưa ra những bình luận, quan điểm, kết luận
về những nội dung nghiên cứu...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đặt ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về khái niệm kê biên
tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản
chất của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong thi hành án dân sự, góp
phần bổ sung làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật
thi hành án dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân
hàng trong thi hành án dân sự, tác giả đã đưa ra được những bất cập cần sửa đổi, bổ

sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án dân sự.
Từ việc đánh giá thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng trong
thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích những nguyên nhân và đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố
Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng theo pháp luật thi hành án dân sự tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả thực hiện kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng tại thành phố Hưng
Yên tỉnh Hưng Yên.
5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TIỀN VAY NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Quan hệ tín dụng phát sinh trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa TCTD và
khách hàng vay. Thông thường, để được vay vốn tại các TCTD, khách hàng phải có
tài sản hoặc có người bảo lãnh để đảm bảo, dự phòng cho việc thực hiện nghĩa vụ
trả nợ, và người bảo lãnh cũng phải có tài sản để cho nghĩa vụ bảo lãnh, tài sản đó
được hiểu là tài sản bảo đảm.

Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Theo quy định tại điều 174 BLDS 2015 thì tài sản
được quy định bổ sung thêm là bất động sản và động sản. Để nhận diện được tài sản
thì cần chỉ ra các đặc điểm pháp lý của chúng, theo đó tài sản có các đặc điểm pháp
lý cơ bản như sau: (i) Tài sản phải trị giá được bằng tiền; (ii) Tài sản là những đối
tượng mà con người có thể kiểm soát được. Nếu là vật hữu hình thì con người phải
nắm giữ hoặc chiếm giữ được; nếu là vật vô hình thì phải có cách thức để quản lý.
Theo Từ điển Luật học, tài sản bảo đảm là “tài sản được bên bảo đảm dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm thông qua các biện pháp
bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, kí cược, kí quỹ, đặt cọc …”
Điều 295 Bộ luật dân sự năm 2015 đã đề cập đến khái niệm tài sản bảo đảm,
theo đó tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp
cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Cụ thể hóa quy định này, Khoản 7 Điều 3
Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm do Chính phủ ban hành ngày
29/12/2006 và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29
tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, có hiệu lực kể từ ngày 10
6


tháng 4 năm 2012 đã quy định “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.” Tài sản bảo đảm
là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm
giao dịch. Như vậy có thể thấy phạm vi tài sản có thể đem bảo đảm được mở rộng,
không chỉ là những tài sản phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm rồi mà còn bao gồm cả
những tài sản hình thành trong tương lai, hoa lợi thu được từ cây trồng, hoặc các khoản
có thể thu khác.… chính là những tài sản mà tại thời điểm giao dịch bảo đảm được xác
lập, thì những tài sản này chưa hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Tài sản bảo đảm tiền vay có những nét đặc trưng cơ bản. Thực chất của bảo
đảm tiền vay là sử dụng những giá trị của tài sản làm bảo đảm để trả nợ thay cho

các khoản vay không có khả năng trả nợ ngân hàng. Vậy, tài sản bảo đảm tiền vay
phải có giá trị, bản thân nó phải trở thành hàng hoá, có nghĩa là khi chuyển giao
quyền sở hữu thì đồng thời cũng phải đạt được sự chuyển đổi từ hiện vật thành giá
trị để trả nợ ngân hàng. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các khoản cho vay có
tài sản làm bảo đảm nợ vay là tài sản đó phải là hàng hóa, có giá trị lớn hơn giá trị
khoản vay, có thị trường tiêu thụ cho hàng hoá đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hay
nói cách khác, để ngân hàng chấp thuận một loại bảo đảm tín dụng nào đó, nó phải
thoả mãn các điều kiện sau: Phải dễ dàng xác định; Phải có giá trị và tuổi thọ tương
đối dài; Ngân hàng phải có khả năng định giá phù hợp với giá trị của tài sản; Phải
dễ bán; Phải có một thị trường hiện tại của nó.
Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào sự tự giác
của các bên nhưng trong thực tế không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có
thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Để nghĩa vụ
cam kết được đảm bảo thực hiện và bên có quyền trong quan hệ đó có được thế chủ
động trong viêc được hưởng quyền đó, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận
đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện các
nghĩa vụ dân sự. Trong các biện pháp bảo đảm tiền vay thì biện pháp bảo đảm tiền
vay bằng tài sản là biện pháp có tính phổ biến nhất bởi khi bảo đảm bằng tài sản bên
cho vay sẽ có được độ an toàn cao hơn, tránh được rủi ro bị thất thoát khoản vay.

7


Thứ nhất: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp
Theo điều 317 Bộ luật dân sự 2015 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau
đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)". Như
vậy, thế chấp tài sản là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ do
hai bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định.
Thế chấp tài sản là hình thức theo đó bên đi vay phải chuyển các giấy tờ

chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các tài sản bảo đảm cho bên cho vay
nắm giữ trong thời gian thỏa thuận để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với bên cho
vay. Tuy nhiên không phải tất cả các loại tài sản đều có thể đem đi thế chấp mà nó
phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định, tùy thuộc vào quy định của pháp luật. Tài
sản là động sản, bất động sản, quyền sử dụng đất có thể thế chấp để bảo đảm tiền
vay theo quy định tại Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015.
Thứ hai: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố
Theo điều 309 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Cầm cố tài sản là việcầmột
bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, bản
chất của cầm cố là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo đó bên
có nghĩa vụ giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên có quyền để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ; nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể
thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ ba giữ.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, cầm cố tài sản được hiểu là việc khách
hàng (bên vay vốn) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình giao cho tổ chức tín dụng
(bên cho vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Thứ ba: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản của người thứ ba
Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba là biện pháp bảo đảm trong đó bên thứ
ba sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thế chấp hoặc cầm cố cho Ngân hàng để
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
Bản chất của bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba cũng chính là biện pháp
bằng thế chấp hoặc cầm cố tài sản nhưng chủ thể đưa tài sản vào thế chấp hoặc cầm
cố không phải là bên vay vốn mà là người khác.
8


Thứ tư: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành trong tương lai
Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là một biện pháp bảo đảm phổ
biến áp dụng trong hoạt động kinh doanh dự án bất động sản, theo đó tài sản hình

thành trong tương lại được thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn thực hiện dự án. Do
đó, pháp luật quy định quyền huy động vốn của chủ đầu tư phải đáp ứng một số quy
định tại Điều 147 Luật nhà ở 2014, theo đó Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình
thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức, cá nhân mua nhà
ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được
thế chấp nhà ở này tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn
phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó.
Việc thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành
trong tương lai chỉ được thực hiện theo quy định tại Luật này; các trường hợp thế
chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở hoặcầnhà ở hình thành trong tương lai
không đúng với quy định tại Luật này thì không có giá trị pháp lý. Tài sản hình
thành trong tương lai có thể hiểu là loại tài sản tồn tại hoặc chưa tồn tại ở tại thời
điểm giao dịch. Tuy nhiên, nó được đảm bảo thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc
tổ chứcầnhất định trong giao dịch về tài sản đó. Có nghĩa là tài sản hình thành trong
tương lai gồm cả tài sản chưa hình thành hoặc đã hình thành nhưng việc chuyển
giao quyền sở hữu cho bên bảo đảm chưa được hoàn thành.
1.1.2. Khái niệm kê biên tài sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
Trong lịch sử hình thành, phát triển của loài người đã trải qua các giai đoạn
phát triển khác nhau. Giai đoạn chưa có Nhà nước đó là thời kỳ Công xã nguyên
thủy Con người sống từng bầy đàn, xã hội chưa phân chia thành giai cấp, việc quản
lý xã hội bằng uy tín, tự giác trong xã hội. Các quan hệ xã hội được giải quyết bằng
cách noi gương, giải thích, thuyết phục các thành viên trong xã hội tự nguyện thực
hiện, việc cưỡng chế trong giai đoạn này không đặt ra. Đến giai đoạn xuất hiện Nhà
nước (Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản và Nhà nước xã
hội chủ nghĩa) đồng thời xuất hiện các giai cấp trong xã hội, các quan hệ xã hội
ngày càng nhiều, các mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội gia tăng. Giai cấp thống trị
xây dựng nên Bộ máy nhà nước, trước tiên để bảo vệ cho lợi ích của gia cấp mình,
9



đồng thời để quản lý xã hội đi theo một mục tiêu nhất định. Đến giai đoạn này nhiều
quan hệ xã hội không thể giải quyết bằng biện pháp giáo dục, thuyết phụcầmà phải
giải quyết bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước để duy trì trật tự xã hội nhằm
thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy Nhà nước xuất hiện thì cưỡng chế cũng xuất hiện để Nhà nước sử
dụng biện pháp cưỡng chế nhằm quản lý, điều hành đất nước và bảo vệ Nhà nước
đó. Theo từ điển Chữ nôm Tập 1 thì cưỡng là thúc ép, buộc tuân theo ý trí mình;
chế là kìm giữ, nén lại, tạo ra. Vậy cưỡng chế là một từ được ghép bởi hai từ cưỡng
và từ chế để tạo thành từ cưỡng chế. Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học
do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: " Cưỡng chế là dùng quyền lựcầnhà
nước bắt phải tuân theo". Nhưng Theo cuốn từ điển Tiếng việt, Viện Ngôn ngữ học,
Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2012 làm rõ hơn khái niệm cưỡng chế là thêm
hai từ pháp luật: "Cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo pháp
luật". Trong tiếng Anh cưỡng chế là Coerce, có nghĩa là buộc ai phải làm cái gì.
Tựu chung lại cưỡng chế được hiểu là Nhà nước dùng quyền lực của mình
buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện một hành vi hoặc nghĩa vụ nhất định,
theo quy định của pháp luật hoặc là quyền lực xã hội buộcầmọi người phải tuân
theo luật, lệ... đã đặt ra.
Cưỡng chế gằn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong những
phương pháp chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Trong nhà nước pháp
quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành pháp luật của nhà nước, duy trì trật
tự xã hội. Nhà nước thực hiện cưỡng chế thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế,
những biện pháp cưỡng chế này được nhà nước trao quyền cho các cơ quan nhà
nước khác nhau thực hiện như: cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố
tụng của cơ quan điều tra và cơ quan tòa án và cưỡng chế thi hành án.
Trong hoạt động quản lý hành chính và xử lý vi phạm hành chính, cưỡng chế
hành chính đượcầuBND và các cơ quan hành chính thực hiện như: cưỡng chế hành
chính đối với những đối tượng chống đối không di dời tài sản để giải phóng mặt
bằng phục vụ cho quốc phòng hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức vi phạm hành
chính thì các cơ quan có thẩm quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được

10


quy định tại Khoản 2 Điều 86 Luật xử lý vi phạm hành chính như kê biên tài sản,
khấu trừ tài khoản của cá nhân, tổ chức… Các biện pháp cưỡng chế của cơ quan
điều tra được trao quyền cho thủ trưởng cơ quan điều tra thực hiện được quy định
tại Điều 128 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về biện pháp kê biên tài sản
áp dụng đối với bị can, bị cáo... Trong hoạt động tố tụng cơ quan tòa án cũng được
nhà nước trao quyền được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều
111 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp khẩn cấp tạm thời như: kê
biên tài sản tranh chấp, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác....
Ngoài ra cơ quan THADS cũng được nhà nước trao quyền được áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trong THADS được quy định tại Điều 71 Luật THADS trong đó có
biện pháp kê biên, xử lý tài sản ….
Theo Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự của Học viện Tư pháp viết
cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THADS, do Chấp
hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực
hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế thi
hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
mà không tự nguyện thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc chốn tránh viện thi hành án.
Theo Tài liệu bồi dưỡng Chấp hành viên trung cấp định nghĩa cưỡng chế
THADS là biện pháp sử dụng quyền lựcầnhà nước để buộc người phải thi hành án
phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của
tòa án. Biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên quyết định trong trường hợp người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Qua hai định nghĩa trên chúng ta thấy cưỡng chế THADS đều có những đặc
điểm chung đó là chủ thể thực hiện phải là Chấp hành viên là người trực tiếp ra
quyết định cưỡng chế; người phải thi hành án phải có điều kiện thi hành án; người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án.

Qua đó biện pháp cưỡng chế là phương thức, cách thức dùng quyền lựcầnhà
nước buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của

11


pháp luật, do người có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết nhằm
bảo vệ lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức và xã hội bị xâm hại.
Biện pháp cưỡng chế THADS cũng là một trong những biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước trao quyền áp dụng trong trường hợp khi bản án, quyết định của tòa
án đã có hiệu lực pháp luật mà các đương sự không chấp hành bản án, quyết định
của Tòa án và chỉ do Chấp hành viện thực hiện. Do đó Biện pháp cưỡng chế
THADS được hiểu là biện pháp cưỡng chế THADS dùng quyền lực của Nhà nước
buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do Chấp
hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
mà không tự nguyện thi hành án.
Công tác THADS chỉ là một bộ phận của thi hành án nói chung. Ở nước ta
hiện nay được phân ra làm hai bộ phận, thi hành án hình sự và THADS. Thi hành án
hình sự được Chính phủ giao cho Bộ công an quản lý, công tác THADS được Chính
phủ giao cho Bộ Tư pháp quản lý. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
hình sự hà khắc hơn biện pháp cưỡng chế THADS. Sự khác biệt giữa thi hành án
hình sự và THADS được thể hiện ở căn cứ và tính chất của cưỡng chế thi hành án.
Nếu như căn cứ cưỡng chế thi hành án hình sự là phần hình phạt được tuyên trong
quyết định của bản án hình sự đó là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và hình
phạt tử hình. Ngược lại cưỡng chế THADS căn cứ cưỡng chế chủ yếu là các bản án,
quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế và lao động liên quan đến nghĩa vụ tài
sản hoặc những hành vi. Về tính chất cưỡng chế hình sự có hiệu lực thi hành án
ngay sau khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật, tòa án có thẩm quyền ra quyết
định thi hành án hình sự đối với người phải thi hành án, họ không có thời gian tự
nguyện thi hành án. Ngay sau có quyết định thi hành án, người phải thi hành án

hình sự phải chấp hành ngay tức khắc, nếu không cơ quan công an tiến hành cưỡng
chế bằng việc bắt hoặc dẫn giải người phải thi hành án đến các trại giam để thi hành
án. Nhưng đối với việc cưỡng chế THADS chỉ đặt ra khi đương sự có đơn yêu cầu
thi hành án, cơ quan THADS ra quyết định thi hành án, giao cho Chấp hành viên
thực hiện, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án một thời hạn không quá
10 ngày, hết thời hạn trên người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, mặc
12


dù có điều kiện thi hành án thì lúc này Chấp hành viên mới có quyền áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án. Tuy nhiên trong trường
hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc
trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp
cưỡng chế thi hành án mà không cần áp dụng thời gian tự nguyện thi hành án.
Kê biên là một động từ ghép bởi hai từ kê và biên. Theo từ điển Tiếng việt
của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất giáo dục xuất bản năm 1994 viết: “Kê là viết ra
theo thứ tự từng tên, từng nhóm để ghi nhớ hoặc thông báo” “Biên viết lên trang
giấy”... Hiện nay, kê biên được hiểu là tạm thời cấm vận chuyển, chuyển đổi, định
đoạt hoặc chuyển dịch tài sản của người vi phạm pháp luật. Điều này có nghĩa khi
kê biên một tài sản của một người nào đó thì quyền sở hữu tài sản của họ bị hạn
chế, họ không được chuyển đổi, chuyển dịch, định đoạt... tài sản bị kê biên đó. Mặt
khác tài sản bị kê biên phải là của người vi phạm pháp luật, nếu một người không vi
phạm pháp luật thì sẽ không bị kê biên.
Theo cuốn Từ điển luật học kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế nhằm
bảo đảm việc thi hành án hình sự, chỉ áp dụng với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật
hình sự quy định. Với nội dung định nghĩa này khái niệm kê biên chỉ ở nghĩa hẹp
trong lĩnh vực điều tra hình sự. Trên thực tế trong hoạt động quản lý Nhà nước có
một số cơ quan Nhà nước được nhà nước được trao quyền thực hiện việc kê biên
tài sản đó là cơ quan điều tra của Công an, tòa án nhân dân các cấp, cơ quan quản lý
hành chính và cơ quan THADS thì khái niệm đó chưa đầy đủ.

Tuy nhiên trong lĩnh vực THADS thì không hoàn toàn đúng theo nghĩa trên
theo khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì
kê biên được hiểu là một trong số các bsự thấy
những lợi ích có được khi tự nguyện thỏa thuận với nhau và tự nguyện thi hành án.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kê biên tài
sản bảo đảm tiền vay ngân hàng
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản
Thứ nhất, cần phải được hoàn thiện các quy phạm pháp luật kê biên tài sản
trong Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014
Nghị định số: 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Tại
60


khoản 1, Điều 24 Nghị định này quy định: “Kể từ thời điểm bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển
nhượng, th chấp, cầm cố tài sản cho người khácầmà không sử dụng khoản tiền thu
được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác không đủ để đảm
bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đất vẫn bị kê biên, xử lý để thi hành án, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Tại khoản 1 Điều 110 Luật thi hành án dân sự, Chấp hành viên chỉ kê biên
quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thuộc trường hợp được chuyển quyền
sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Vậy, hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm thực hiện việc đăng ký chuyển quyền sử dụng
đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Trường hợp trong thực tế có người phải thi hành án đã thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng cho người khác tại Phòng Công chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã
trước khi có bản án, quyết định của Tòa án nhưng sau thời điểm đó người nhận
chuyển nhượng vẫn chưa thực hiện việc đăng ký và nộp thuế tại các cơ quan có
thẩm quyền nên chưa có hiệu lực theo pháp luật quy định. Vậy, Cơ quan thi hành án

tiến hành kê biên tài sản nói trên để đảm bảo thi hành án. Hiện nay có những quan
điểm khác nhau về việc kê biên tài sản.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Việc kê biên tài sản của Cơ quan thi hành án
là đúng pháp luật, vì theo quy định pháp luật thì việc chuyển nhượng nhưng chưa
đăng ký và nộp thuế thì chưa có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp này theo bản thân tôi thì pháp luật cần quy định theo
hướng bảo vệ ngay tình người thứ ba nhưng với điều kiện người này không biết
hoặc không thể biết được hành vi của người có nghĩa vụ trong Bản án, Quyết định
thực hiện giao dịch nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Việc kê biên tài sản của Cơ quan thi hành án
là không đúng quy định tại khoản 1, Điều 24 Nghị định số: 62/2015/NĐ-CP ngày
18 tháng 07 năm 2015, vì tài sản đã được chuyển nhượng trước khi có bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực.

61


- Luật Thi hành án dân sự quy định tại Điều 74 về cưỡng chế, kê biên tài sản
thuộc sở hữu chung. Trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung trong hộ gia đình bị
cưỡng chế để thi hành án, luật chưa quy định rõ tài sản chung của hộ được xác định khi
nào, theo hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận hợp pháp, hay theo hộ khẩu tại
thời điểm kê biên tài sản, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các đương sự.
Vấn đề này thường hay va chạm và gặp trong thực tế, đòi hỏi pháp luật về kê
biên tài sản cần phải dự tính được trước. Để hợp lý nhất theo tôi cần phải quy định
theo hướng hộ khẩu tại thời điểm cấp giấy chứng nhận hợp pháp thì mới phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong hộ gia đình.
Trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án chỉ đủ để thi hành nghĩa
vụ theo bản án, nếu cưỡng chế thì đương sự không còn nơi ở, pháp luật về thi hành
án dân sự không có văn bản nào quy định có để lại cho đương sự diện tích để ở hay
không, trường hợp có là bao nhiêu hoặc trích lại khoản tiền theo khu vực để đương

sự lo chỗ ở mới, nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Pháp luật về thi hành
án c n quy định theo hướng như thế này phải tạo điều kiện cho người phải thi hành
án có một nơi sinh sống trong trường hợp người phải thi hành án không còn nơi ở
nào khác. Đồng thời đảm bảo quyền con người, quyền công dân đã được quy định
tại Điều 22 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, “Công dân có quyền có nơi ở hợp
pháp. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ
ở của người khác nếu không được người đó đồng ý”.
Thực tế hiện nay trong hoạt động thi hành án dân sự nảy sinh nhiều vướng
mắc về việc phải xử lý nhà ở của người phải thi hành án được xây dựng trên đất của
người khác và tài sản của người phải thi hành án do người khác đứng tên thế. Trong
nhiều trường hợp, người phải thi hành án chỉ có tài sản duy nhất là ngôi nhà đó
được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhưng nằm trên đất mượn, cơ quan thi
hành án dân sự tiến hành kê biên ngôi nhà để đảm bảo thi hành án, nhưng hầuu như
không thể xử lý tiếp được. Vì vậy pháp luật thi hành án dân sự cần phải được hoàn
thiện hơn nữa để pháp luật về kê biên tài sản thực sự đi vào đời sống dân sự một
cách hiệu quả và được cuộc sống chấp nhận.

62


Thứ hai, hoàn thiện quy định quyền yêu cầu Tòa án xác định, phân chia
quyền sở hữu, sử dụng tài sản
Theo quy định Điều 74 Luật THADS năm 2008 và khoản 2 Điều 6 Thông tư
liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26 tháng 07 năm 2010
của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi các
chủ thể sở hữu chung không yêu cầu tòa phân chia tài sản chung, thì người được án
hoặc Chấp hành viên cơ quan THADS hoàn toàn có quyền yêu cầu tòa xác định
phần sở hữu của người phải THA trong khối tài sản chung để đảm bảo đảm
THADS. Tuy nhiên, khi Chấp hành viên khởi kiện thì họ phải nộp tiền tạm ứng án
phí dân sự sơ thẩm và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm khi thua kiện. Liệu Chấp

hành viên có chịu lấy tiền túi của mình để đảm bảo cho yêu cầu khởi kiện của mình
không hay là lấy từ ngân sách ngành? Hơn nữa, yêu cầu xác định tài sản chung
trong vụ việc này là quyền sử dụng đất thì ai là người phải nộp tạm ứng chi phí tiến
hành xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá cũng như cung cấp các tài liệu cần thiết để
chứng minh khối tài sản yêu cầu giải quyết... Bên cạnh đó, người phải thi hành án luôn
trốn tránh nghĩa vụ nên họ không cung cấp các tài liệu liên quan đến tài sản và không
chủ động yêu cầu khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản chung.
Do đó, cần có quy định về quyền yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền
sở hữu, sử dụng tài sản gắn với quyền, lợi ích của người được thi hành án, người
phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thứ ba, hoàn thiện quy định thành lập hội đồng kê biên tài sản là quyền sử
dụng đất, tài sản gắn liền với đất
Trong thực tế khi kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền với đất thì Chấp hành viên
không phải là người có chuyên môn để xác định danh giới QSDĐ của người phải thi
hành án với quyền sử dụng của các hộ liền kề, hiện trạng và vị trí của QSDĐ phải kê
biên. Do vậy, thực tế Chấp hành viên phải mời cơ quan quản lý đất đai để tham gia kê
biên xác định hiện trạng, vị trí cho chính xác. Để khắc phục khó khăn này thì pháp luật
cần bổ sung quy định khi kê biên QSDĐ, tài sản gắn liền với đất phải thành lập hội
đồng kê biên. Theo đó, Chấp hành viên là chủ tịch hội đồng, đại diện chính quyền
có thẩm quyền về đất đai tại địa phương là thành viên hội đồng.
63


Thứ tư, hoàn thiện về thứ tự kê biên tài sản
Hiện nay chưa có một quy định cụ thể nào quy định nào về thứ tự kê biên tài
sản, chỉ có quy tại khoản 1 Điều 95 Luật THADS 2008 sửa đổi bổ sung 2014 với
nội dung: “Việc kê nhà ở là nơi diu nhất của người phải thi hành án và gia đình chỉ
được thực hiện sau khi xác định người phải thi hành án không còn tài sản nào khác
hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng
ý kê biên nhà ở để thi hành án”. Tuy nhiên quy định này cũng không đủ tính khái

quát để có thể coi là một nguyên tắc trong kê biên tài sản và chỉ đặt ra trong trường
hợp kê biên nhà ở là nơi duy nhất của người phải thi hành án.
Việc quy định này nhằm khuyến khích ý thức tự nguyện thi hành án, tôn
trọng quyền tự định đoạt tài sản của đương sự nhưng vẫn đảm bảo nhưng vấn đảm
bảo hiệu quả thi hành án. Mặt khác để tránh sự tùy tiện, áp đặt của Chấp hành viên,
theo tác giả cần bổ sung quy định về thứ tự tài sản kê biên theo định hướng: “Người
phải thi hành án có quyền thảo thuận với người được thi hành án về tài sản được kê
biên để thi hành án. Nếu không có sự thỏa thuận, chấp hành viên tiến hành kê biên
theo nguyên tắc: Kê biên tài sản riêng trước, nếu không có hoặc không đủ thi kê
biên tài sản chung với người khác; kê biên động sản trước rồi mới kê biên bất động
sản. Trường hợp tài sản riêng là bất động sản, tài sản chung là động sản mà phần tài
sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung đó sau khi phân chia đủ để
thi hành án thì vẫn có thể kê biên tài sản chung trước”.
Thứ năm, việc kê biên tài sản của người phải thi hành án có tranh chấp với
người khác.
Theo quy định Điều 75 Luật THADS 2008 sửa đổi, bổ sung 2014 trường hợp
cưỡng chế đối với tài sản của người phải thi hành án mà có tranh chấp với người
khác thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh
chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Thực tế cho thấy
có rất nhiều trường hợp đương sự khởi kiện tại tòa án theo hướng dẫn của Chấp
hành viên, nhưng tòa án không thụ lý vụ việc, trong khi đó Điều 75 Luật THADS
năm 2008 thì Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Tòa án và
cơ quan có thẩm quyền. Việc tòa án không thu lý trong trường hợp này dẫn đến hậu
64


quả khó sử lý tài sản kê biên, vì không thể xác định được quyền sở hữu tài sản mà
Chấp hành viên đã tiến hành kê biên. Do đó, trường hợp này, bộ luật tố tụng dân sự
cần có điều luật quy định cụ thể về thời gian, căn cứ, lý do cho việc thụ lý hay
không thụ lý và bổ sung vào loại việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa

án trong bộ luật tố tụng.
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung quy định về việc xác định QSDĐ nào được kê biên
để thi hành án.
Để khắc phục vướng mắc trong việc kê biên tài sản, đặc biệt là vướng mắc
đối với việc QSDĐ nào được kê biên để đưa ra đấu giá, chúng tôi đưa ra hai phương
án sau: Phương án 01. Sửa đổi điều kiện kê biên QSDĐ để thi hành án trong Luật
THADS năm 2014 cho phù hợp với Luật đất đai năm 2013. Theo đó Điều 110, Luật
THADS năm 2014 chỉ quy định: “CHV chỉ kê biên QSDĐ của người phải thi hành
án thuộc trường hợp được chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất
đai”. Bỏ quy định: “Người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ
mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định của pháp luật
về đất đai hoặc thuộc diện quy hoạchấphải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định
thu hồi đất thì vẫn được kê biên, xử lý QSDĐ đó.” Ưu điểm của phương án 01 này
là có sự phù hợp giữa pháp luật hiện hành về thi hành án và quy định của Luật đất
đai, giúp cho CHV và tổ chức đấu giá dễ dàng trong việc kê biên và kiểm soát tình
trạng tài sản là QSDĐ được đưa ra đấu giá. Tuy nhiên về nhược điểm của quy định
này là không bảo vệ được tận cùng quyền đeo đuổi của người được thi hành án yêu
cầu người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án đến cùng chỉ cần xác
định đó là tài sản của người phải thi hành án mặc dù tài sản này chưa được công
nhận về mặt pháp lý là có giấy chứng nhận QSDĐ! Phương án 02. Sửa đổi điều
kiện chuyển nhượng QSDĐ trong Luật đất đai và các giấy tờ cần có trong hồ sơ
công chứng QSDĐ đối với tài sản là QSDĐ trong THADS. Phương án này cho
phép về cơ bản là giữ nguyên quy định tại Điều 110, Luật THADS năm 2014 như
sau: “CHV kê biên QSDĐ của người phải thi hành án thuộc trường hợp được
chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai. Người phải thi hành
án chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ mà thuộc trường hợp được cấp giấy
65


chứng nhận QSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy

hoạchấphải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn được kê biên,
xử lý QSDĐ đó”. Để thực hiện đượcấphương án 02 này đòi hỏi Luật đất đai 2013
phải được sửa đổi theo hướng cho phép tổ chức đấu giá được quyền đấu giá tài sản
là QSDĐ trên cơ sở kê biên của CHV đối với trường hợp đất chưa được cấp giấy
chứng nhận nhưng thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận. Điều kiện để được
cấp giấy chứng nhận QSDĐ là trên cơ sở biên bản đấu giá thành của tổ chức đấu
giá. Bên cạnh đó, cần quy định các giấy tờ thay thế cho giấy chứng nhận QSDĐ khi
ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá này là các loại giấy tờ nào? Ví dụ như biên
bản xác minh của CHV về hiện trạng đất tại UBND về việc đất không có tranh
chấp, Công văn trả lời của Văn phòng đăng ký QSDĐ xác định đất thuộc trường
hợp được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Trong hai phương án trên, chúng tôi cho
rằng áp dụng phương án 02 là bảo vệ được tốt hơn quyền, nghĩa vụ của các bên
trong THADS, đặc biệt là người được thi hành án.
Thứ bảy, hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến việc kê biên tài
sản trong thi hành án.
Một là, Bộ luật dân sự 2015. Quy định về giao dịch vô hiệu khi mục đích giao
dịch giữa các chủ thể nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của mình.
Hai là, Luật đất đai năm 2013. Bổ sung các quy định về trường hợp hủy
giấy chứng nhận QSDĐ theo yêu cầu của CHV; Bổ sung quy định thời điểm
chuyển QSDĐ.
Ba là, Luật doanh nghiệp. Bổ sung trách nhiệm của thành viên cổ đông, hội
đồng quản trị phải liên đới chịu trách nhiệm về mặt pháp lý với giám đốc doanh
nghiệp với phần vốn góp của mình.
Bốn là, Luật thi hành án dân sự cần quy định thêm về trách nhiệm của
UBND xã (phường) trong việc cung cấp thông tin không đúng thực tế về tài sản của
đương sự, người phải thi hành án, người có liên quan đến việc thi hành án. Cần phải
có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp UBND xã phường cung cấp thông tin
không đúng thực tế về tài sản của người phải thi hành án.

66



3.2.2.. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kê biên tài sản bảo đảm tiền vay
ngân hàng
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đội ngũ chấp hành viên
Từ những thực trạng Chấp hành viên của thành phố Hưng Yên đã được đề
cập ở phần trên, vấn đề đặt ra cần nâng cao chất lượng đội ngũ Chấp hành viên bằng
những giải pháp sau đây:
- Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ cho các
Chấp hành viên yếu kém, với phương châm cầm tay chỉ việc cho các Chấp hành
viên hiện có tư tưởng an vị, không chịu suy nghĩ, nghiên cứu. Đồng thời ngắn với
việc thường xuyên kiểm tra, giám sát việc làm của các Chấp hành viên này để kịp
thời điều chỉnh chuyên môn của họ theo hướng tích cực.
- Thực hiện cơ chế tuyển chọn Chấp hành viên một cách thực chất, tránh
chạy theo số lượng, quan tâm đến chất lượng để chọn ra những người có đủ sức
khoẻ, đủ đức, đủ tài thực sự để bổ nhiệm vào các ngạch Chấp hành viên. Đồng thời
có cơ chế cụ thể bãi miễn những Chấp hành viên không đủ tiêu chuẩn đáp ứng được
vị trí làm việc của mình để có chỗ dành cho người khác, người có đủ tiêu chuẩn, bổ
nhiệm thay thế cho những người không đáp ứng yêu cầu của công việc.
- Chi cục THADS thành phố Hưng Yên cần có chính sách thi tuyển công
chức đầu vào, ưu đãi những sinh viên ra trường có kết quả học tập cao, để lựa chọn
người đầu vào ngành có chất lượng đào tạo tốt, đồng đều là tiền đề lựa chọn đội ngũ
công chức làm công tác THADS có chất lượng sau này. Ngoài ra để làm tốt việc
này cần phải tổ chức thi tuyển nghiêm túc, công khai minh bạch từ khâu thông báo,
nộp hồ sơ, tổ chức thi tuyển, chấm điểm, công bố kết quả. Có như vậy mới tuyển
được những người chất lượng vào ngành THADS trên địa bàn tỉnh.
- Nhà nước có cơ chế chính sách tăng lương cho đội ngũ công chức trong
ngành THADS, vì đây là một nghề luôn tiếp xúc với mặt trái của xã hội cho nên dễ
dẫn đến vi phạm, việc tăng lương nhằm đảm bảo cho họ có đủ điều kiện tự sống
bằng đồng lương được nhận thì họ sẽ toàn tâm công tác, toàn tâm, toàn lựcấphục vụ

tốt cho công tác THADS. Mặt khác Nhà nước có chính sách khoán biên chế, khoán
lương trao quyền chủ động cho các cơ quan THADS tự sử dụng biên chế, kinh phí
67


×