Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP hợp ĐỒNG tín DỤNG NGÂN HÀNG từ THỰC TIỄN xét xử sơ THẨM tòa án NHÂN dân HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TRƯỜNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TRƯỜNG

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực.
Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất
kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG .......................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng ................................. 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ..................... 10
1.3. Nguyên nhân và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng .............................................................................................................. 18
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án .................................................................... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.............................. 30
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng . 30
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án
nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội ....................................................... 48
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ
THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ THÀNH
PHỐ HÀ NỘI........................................................................................................... 64

3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng tại Tòa án nhân dân ............................................................................. 64
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
ngân hàng .............................................................................................................. 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
HĐTD

: Hợp đồng tín dụng

KDTM

: Kinh doanh thương mại

TAND

: Tòa án nhân dân

TCTD

: Tổ chức tín dụng



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số liệu tranh chấp kinh doanh thương mại TAND huyện Phúc
Thọ thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết giai đoạn 2014-2018 .......... 51
Bảng 2.2. Số liệu vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng thụ lý trong giai
đoạn 2014 – 2018 .................................................................................... 52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực của nền kinh tế,
chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào
công cuộc cải tiến đất nước. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày rất đa dạng,
pháp luật khó có thể điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ trong cuộc sống. Thông
thường các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng – hợp đồng ghi nhận
sự thỏa thuận giữa các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền lợi của các bên khi có
tranh chấp. Trong lĩnh vực ta nhận thấy hợp đồng tín dụng có nhiều trong các giao dịch
với các đối tác cho nhu cầu vay vốn trong phát triển kinh doanh, sản xuất. Bởi hợp
đồng tín dụng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến tranh
chấp giữa các bên trong hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên bị ảnh hưởng quyền đến
quyền lợi và lợi ích hợp pháp sẽ làm thủ tục khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài thương
mại để được pháp luật bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng của Tòa án
đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ
chức, các nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc biệt góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong nên kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch
dân sự, đặc biệt là giao dịch thông qua hợp đồng tín dụng diễn ra ngày càng nhiều
trên phạm vi rộng, gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp này ở Tòa án.
Trước tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến việc

giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình
giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm quyền và lợi ích của các
bên tham gia hợp đồng.
Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thì hoạt động cấp tín dụng
trong đó có cấp tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ
yếu và quan trọng nhất. Thông qua hợp đồng tín dụng được xác lập giữa tổ chức tín
dụng và bên vay tiền, quan hệ tín dụng đã được hình thành. Hợp đồng tín dụng phải
tuân thủ chặt chẽ các quy định của Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng và các
quy định khác của Ngân hàng nhà nước…
Trong thực tế, cùng với sự phức tạp của quan hệ tín dụng nói chung và quan
hệ hợp đồng tín dụng nói riêng, các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình

1


thực hiện hợp đồng tín dụng xảy ra tương đối nhiều. Điều này đã ảnh hưởng lớn tới
sự ổn định của thị trường tín dụng, ảnh hướng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các
tổ chức và cá nhân có liên quan.
Trên cơ sở đó, việc hệ thống pháp luật có những quy định cụ thể về giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng là rất cần thiết. Trong những năm vừa qua, cùng
với sự phát triển của quan hệ này, các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng đã được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam được
thể hiện qua các văn bản nhưng: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung
năm 2011, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và đặc
biệt gần đây là việc Quốc hội đã ban hành Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự
mới vào năm 2015.
Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về cơ
bản đã tương đối đầy đủ về hình thức cũng như nội dung. Tuy nhiên, những quy
định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng còn chưa thực sự đồng bộ
giữa Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự với Luật các tổ chức tín dụng, trong khi

BLDS, BLTTDS mới được ban hành mới thì Luật các tổ chức tín dụng 2010 chưa
được sửa đổi, bổ sung. Những quy định đặc thù về giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng chưa thực sự cụ thể, còn có sự chồng chéo về chủ thể, quyền hạn giải
quyết… Điều này dẫn đến hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng chưa
thực sự cao, có nhiều vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị thậm chí có quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ.
Huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội là một huyện ngoại thành có tốc độ phát
triển kinh tế nhanh, có tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh trên địa bàn thành
phố, quy mô kinh tế ngày một lớn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì những tranh
chấp phát sinh từ hoạt động tín dụng nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng trên
địa bàn huyện Phúc Thọ ngày một lớn. Các tranh chấp này đã được Tòa án nhân
dân huyện Phúc Thọ thụ lý giải quyết góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh
chấp hợp đồng tín dụng trên địa bàn còn nhiều hạn chế, tồn tại, cần phải có những
nghiên cứu để góp phàn nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp này hơn nữa.

2


Đó cũng là lý do học viên quyết định chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng ngân hàng từ thực tiễn xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu, thông qua đó giúp học
viên học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao kiến thức pháp luật của mình về
lĩnh vực hợp đồng tín dụng trên thực tế. Từ đó đề ra những giải pháp nâng cao các
quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng
con đường Tòa án.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói

chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng nói riêng như:
- Tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng “Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng qua thực tiễn xét xử tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội năm 2013;
- Tác giả Hoàng Văn Bích “Giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản
qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc” Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã
hội, Năm 2014;
- Tác giả Hồ Thị Khuyên “Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2016.
- Một số bài báo khoa học như:“ Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng
và thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng”, của Th.s
Nguyễn Quỳnh Chi đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 3/2005; “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Như
Phát, TS. Lê Thị Thu Thủy đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2010;
“Tranh chấp hợp đồng và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng” của
TS. Phan Chí Hiếu đăng trên tạp chí Luật học, số 2/2008;
- Một số Sách chuyên khảo như: “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản của các tổ chức tín dụng” do TS. Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên, Nhà Xuất bản
Tư pháp 2006, Cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng
Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của TS. Ngô Quốc Kỳ, Nhà
Xuất bản Tư pháp, năm 2005.
Các công trình nghiên cứu này đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho

3


việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nói chung
và hợp đồng tín dụng nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đề tài pháp luật về hợp
đồng tín dụng vẫn còn là cấp thiết, bởi lẽ các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn

còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn.
Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp
đồng tín dụng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, chỉ ra những
bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng
con đường tòa án ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp
đồng tín dụng ngân hàng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân
hàng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng. Từ đó, đề xuất
những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng con đường Tòa án ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm; để từ đó xác định khái
niệm, nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng;
- Nghiên cứu làm sáng tỏ quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng để từ đó đánh giá được những hạn chế, tồn
tại trong hệ thống quy định này;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại
các Tòa án nhân dân trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội, đưa ra được
những hạn chế, bất cập trong thực tiễn giải quyết này;
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng.


4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ thực trạng giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng con đường tòa án ở Việt
Nam. Qua đó, đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các văn bản pháp
luật Việt Nam có quy định về vấn đề nghiên cứu như: Bộ luật dân sự (2005, 2015),
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật thương mại 2005, Luật các tổ chức tín dụng
2010… cùng các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung, làm rõ các
điều khoản có liên quan. Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu các số liệu, báo cáo
thống kê, tổng kết về thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp
đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội .
- Phạm vi không gian: huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp như: phương pháp thống kê, khảo
sát; phương pháp tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án.
6. Ý nghĩa lý luận và những đóng góp mới của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu toàn diện ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học
về hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện

này. Đề tài có ý nghĩa lý luận như sau:
- Đưa ra được những phân tích lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm, nội dung;

5


- Đánh giá được thực trạng quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành
phố Hà Nội;
- Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,
giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật, các viện nghiên cứu và các cơ quan thực tiễn
như Tòa án; Viện kiểm sát; Thi hành án…
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và pháp
luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Chương 3: Quang điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngân hàng
Hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản đã được quy
định trong BLDS 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD trong trường hợp bên cho vay
là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Theo quy định tại điều
463 BLDS 2005: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên
cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Hợp đồng tín dụng về bản chất là hợp đồng
cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố,
chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là một căn cứ pháp lý mà qua đó, ngân hàng thực hiện
hoạt động cho vay. Hoạt động tín dụng luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế và các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng diễn ra ngày một
nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho các chủ thể, song, cho đến nay vẫn chưa có một
văn bản pháp luật nào của nước ta đưa ra một khái niệm chính thức về hợp đồng tín
dụng mà chỉ liệt kê những nội dung chủ yếu của hợp đồng tín dụng. Việc cho vay
của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay,
phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá
trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả
thuận. Như vậy, ngay trong quy chế cho vay của TCTD cũng chỉ qui định việc cho
vay phải xác lập bằng hợp đồng tín dụng.
Từ các phân tích trên, cho thấy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy định
về những nội dung cơ bản HĐTD phải có mà không đưa ra định nghĩa cụ thể về
HĐTD. Quan hệ tín dụng về bản chất là một quan hệ dân sự nên HĐTD cũng là một


7


dạng cụ thể của hợp đồng. Từ khái niệm hợp đồng được quy định theo điều 385
BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, có thể hiểu “HĐTD là sự thỏa thuận bằng
văn bản giữa TCTD (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật
định (bên vay), theo đó TCTD chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng vào
mục đích và trong một thời hạn được xác định, khi đến hạn, bên vay phải trả cả gốc
và lãi được xác định theo lãi suất mà các bên đã thỏa thuận”.
Như vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng là văn bản phản ánh thỏa thuận trực
tiếp của tổ chức tín dụng và khách hàng trong việc xác lập một quan hệ cho vay, xác
lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đó trong việc vay và hoàn trả
vốn vay.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng
HĐTD mang những đặc điểm chung của hợp đồng nhưng vẫn có những nét
khác biệt cụ thể như sau:
- Hợp đồng tín dụng ngân hàng phải luôn được ký kết dưới hình thức văn
bản. Sau khi TCTD quyết định cho khách hàng vay vốn, sự thoả thuận cho vay và
vay của TCTD với khách hàng phải thành lập bằng văn bản. Với HĐTD bằng văn
bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo an toàn pháp lý và khi có
tranh chấp xảy ra, HĐTD sẽ là căn cứ xác thực nhất để các cơ quan tài phán giải
quyết tranh chấp. Đa phần các HĐTD là hợp đồng theo mẫu, chủ thể cho vay là
TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với quy chế cho vay
của TCTD. Bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản trong hợp đồng mà
không phải ai cũng có thể yêu cầu sửa đổi điều khoản theo hướng có lợi hơn cho
mình. Sự tự do ý chí được thể hiện thông qua việc khách hàng chấp nhận những
điều khoản trong đó thì đồng ý giao kết hợp đồng, ngược lại thì không giao kết.
Thực tế cho thấy việc thỏa thuận sửa một số điều khoản trong HĐTD theo mẫu ít

xảy ra và chỉ xảy ra với những tổ chức, cá nhân có uy tín, khoản vay lớn và TCTD
có thể thu được lợi nhuận lớn từ hợp đồng này.
Theo khoản 2, khoản 3 điều 405 BLDS 2015: “Trường hợp hợp đồng theo
mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất
lợi khi giải thích điều khoản đó. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản
miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại

8


bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ
khách hàng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có những điều khoản không rõ
ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó
hoặc điều khoản gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này không có hiệu lực
khi không có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết dưới các hình thức
pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp
dữ liệu. Căn cứ khoản 1 điều 119 BLDS 2015, “Giao dịch dân sự được thể hiện
bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật
về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản”; và điều 11, 12, 13, 14
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì dù hợp đồng tín dụng ngân hàng ký kết dưới
hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong
quá trình giao dịch. Trên thực tế thì hợp đồng tín dụng được ký kết dưới hình thức
văn bản điện tử dạng thông điệp dữ liệu thường ít xảy ra.
- HĐTD có đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình thức tiền
tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Cho vay là
một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với

nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhờ đó, hoạt động cho vay đã trở thành hoạt động
sinh lời chủ yếu của các TCTD và trở thành một hình thức tín dụng phổ biến trong nền
kinh tế thị trường. Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là một số tiền
xác định, được các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng.
- Một bên chủ thể của HĐTD bắt buộc là TCTD được thành lập và hoạt động
cho vay theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các
văn bản liên quan; có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng. TCTD bao gồm
ngân hàng và TCTD phi ngân hàng. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều TCTD
(trường hợp cho vay hợp vốn) thỏa mãn điều kiện luật định.
- HĐTD phải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc, năng lực chủ
thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay, giới hạn vốn
vay, lãi suất vay và bảo đảm thực hiện hợp đồng, phương pháp giải quyết tranh

9


chấp. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu bị cấm theo quy
định của pháp luật. Tổ chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn sau đây:
để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua
bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các
giao dịch mà pháp luật cấm; để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà
pháp luật cấm”. Tổ chức tín dụng không được cho vay đối với khách hàng trong các
trường hợp sau đây: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc
(Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng; Cán bộ,
nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định
cho vay; Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát,
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc)”. Đối với người vay
là bố, mẹ, vợ, chồng, con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín
dụng do tổ chức tín dụng xem xét quyết định”.
Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan hệ tín

dụng, HĐTD trở nên rất quan trọng. Đặc biệt, các bên phải chú ý đến nội dung của
hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng buộc các bên thực hiện
đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần giảm bớt các tranh chấp phát sinh
và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của cả TCTD và khách hàng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng
1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Cùng với sự tồn tại và phát triển của các HĐTD là những tranh chấp trong
HĐTD phát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về quyền và nghĩa vụ hoặc
lợi ích trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng của các bên tham gia. Một hợp
đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về quyền lợi
giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những bằng chứng cụ thể và
xác định được. Theo TS. Bùi Ngọc Cường, tranh chấp kinh tế được hiểu là những
mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích kinh tế giữa các bên chủ thể khi
tham gia kinh doanh.
Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là
hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong
hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành
vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được

10


thể hiện ra bên ngoài. Cho nên, không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó
có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng
lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi phạm
hợp đồng tín dụng nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên
ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi phản
kháng cụ thể có giá trị chứng cứ.
Như vậy, tranh chấp HĐTD là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh từ quyền
và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên vay

(khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử
lý tài sản đảm bảo, thế chấp…
1.2.2. Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Vì tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói
chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy
nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD, tranh chấp HĐTD mang một số đặc trưng
riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác.
Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD thường có giá trị lớn hoặc thậm chí
là rất lớn.
Khi kí kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà không
thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh doanh đối với
tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Do đó, số tiền
này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội mà
không phải là ngân hàng.
Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn
cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể khác để
cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các HĐTD có
giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay. Do bên vay vốn
dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên nếu
bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các TCTD sẽ
làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD đó. Thực tế không hiếm các trường
hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi khách
hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị
thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục

11


đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp
HĐTD phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi

vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả
năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì TCTD sẽ mất
lòng tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả
khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình. Do đó, có thể nói
tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh hưởng
đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh chấp xảy ra
nhiều thì ảnh hưởng đó không chỉ ảnh hưởng đến một TCTD mà có thể ảnh hưởng
dây chuyền đến các TCTD khác trong nền kinh tế.
Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàng được giải quyết dựa trên nguyên tắc tự do
thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh chấp.
Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Điều 3 Bộ
Luật dân sự 2015 ghi nhận: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”
HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa
thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh chấp
phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được hiệu quả tối
ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn trọng quyền định đoạt này
có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng,
không phải là mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng như các quan hệ hành chính nhà
nước khác. Khi các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì
việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm
thiểu được thiệt hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ
quan tài phán, thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm
nhẹ khối lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra
nhiều và phức tạp như hiện nay.
Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với
các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng hơn
bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước, chịu sự điều chỉnh


12


của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự khác nhau trong quy định
của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc
cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm
thiểu tối đa những xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh
chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với các quy
định của pháp luật Việt Nam.
Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng
được Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là trách
nhiệm của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó các bên có thể thỏa
thuận về việc giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra hoặc tại phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp miễn
sao thỏa thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật.
Thứ ba, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là TCTD và
phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín dụng cho vay, bị đơn
là bên đi vay.
Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến những tổ
chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức, cá nhân có
thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong mối quan
hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh
chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông thường giữa các tổ chức, cá
nhân khác mà không phải là TCTD.
Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các TCTD và khách
hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư cách là chủ thể
có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với khách hàng là điều
không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng thì hợp đồng thường do
bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về

mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay là khách hàng thường là các tổ
chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi
không được chú trọng đúng mức. Và như vậy là hợp đồng được kí kết với các điều
khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ
hay trả không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng
chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng

13


được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì là do bên đi
vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những điều khoản do chính mình
soạn thảo.
Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay
thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất việc
giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình. Các
nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín dụng, nghĩa
vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm bảo... là ít quan trọng
và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý do đó nên nếu có tranh chấp
xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp trường
hợp bên đi vay khởi kiện TCTD.
Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD ngân hàng chính là các
tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của bên vay cho
TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong HĐTD.
Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: tranh chấp về chủ thể
xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn, tranh chấp
liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh chấp xảy ra nhiều nhất
là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về mức lãi suất vay, về vấn
đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ này chính là những nghĩa vụ
chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên và

việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của TCTD. Các tranh chấp
khác cũng có tác động đến các TCTD nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn
so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi suất, về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ.
Thứ năm, tranh chấp HĐTD ngân hàng thường là tiền đề làm phát sinh và
gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay thông qua
hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba
Các TCTD khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho
vay đó vì bản chất của TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm thiểu rủi
ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho
bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh
của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng

14


của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo trong
HĐTD thì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó
có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo
lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng
bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ hợp
đồng tín dụng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc trả nợ của
bên đi vay.
Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi
HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối quan hệ
mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ giữa hợp
đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có ảnh hưởng đến loại
hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao dịch bảo đảm chấm dứt,
nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì

giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Ngược
lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp
HĐTD, với tư cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp
hợp đồng bảo đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên.
Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa các bên
tham gia tranh chấp.
Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên phải xuất
phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong quan hệ dân
sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi kiện để đảm
bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là lợi ích của chính cơ
quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì chỉ có
chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có trường hợp nào
mà tranh chấp HĐTD phát sinh do tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo vệ quyền
lợi cho các bên tham gia HĐTD. Như vậy, tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát
sinh khi các bên khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong
quan hệ tín dụng, hay nói cách khác, tranh chấp HĐTD thường gắn liền với lợi ích
của các bên tranh chấp.

15


1.2.3. Phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Khách hàng vay vốn có thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh hoặc
không đăng ký kinh doanh và mục đích vay vốn để kinh doanh, sản xuất hoặc tiêu
dùng, sinh hoạt. Vậy, tranh chấp hợp đồng tín dụng có thể là tranh chấp về hợp
đồng dân sự và cũng có thể là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Vậy khi nào
tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng dân sự và khi nào là tranh
chấp kinh doanh, thương mại? Để trả lời câu hỏi này, ta cần nhận định rằng bản chất

hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay tài sản. Vì vậy, HĐTD ngân hàng là một dạng
đặc biệt của hợp đồng dân sự xuất phát từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu
ngân hàng thực hiện cho vay mà bên vay là cá nhân, tổ chức và mục đích vay nhằm
đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt và tiêu dùng thì hợp đồng tín dụng ngân hàng mang
tính chất là một hợp đồng dân sự theo đúng nghĩa. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay
mà bên vay là các cá nhân, tổ chức hoạt động kinh doanh và mục đích nhằm đáp
ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thương mại thì hợp đồng tín dụng
ngân hàng mang tính chất là hợp đồng kinh doanh, thương mại. Do đó, tuỳ theo đối
tượng và mục đích trong hoạt động cho vay của ngân hàng mà chúng ta nhìn nhận
hợp đồng tín dụng ngân hàng ở gốc độ thích hợp.
Từ phân tích trên tác giả cho rằng tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
có hai loại:
- Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng dân sự
khi bên vay vốn là hộ gia đình, cá nhân hay tổ chức không có đăng ký kinh doanh
và không có mục đích lợi nhuận.
- Thứ hai, tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp kinh doanh - thương
mại khi bên vay vốn là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích
lợi nhuận.
* Các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng:
- Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng:
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay (ngân hàng) khi HĐTD có hiệu
lực, vì một lý do nào đó bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng xấu tới quyền và lợi ích hợp pháp
của bên vay.
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên vay. Rõ ràng khi cần tiền

16


để thực hiện kế hoạch, mục tiêu của mình thì khách hàng mới đi vay. Cũng vì lý do

này nên ban đầu thông thường thì khách hàng chấp nhận với lãi suất của ngân hàng
đưa ra nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi
suất đó cao quá nên không đồng ý. Đồng thời, quá trình sử dụng vốn vay không
hiệu quả nên dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ gốc và lãi. Đây là dạng tranh chấp
xảy ra nhiều nhất trong các tranh chấp HĐTD.
- Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này trên
thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có yếu tố
nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh chấp.
Trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng, việc xem xét tư cách chủ thể của bên vay
vốn là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của HĐTD. Trên
thực tế, nếu tổ chức tín dụng xem nhẹ vấn đề này, không xác định đúng tư cách chủ
thể (đặc biệt là trường hợp khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp) dẫn đến việc
ký hợp đồng tín dụng với chủ thể không có thẩm quyền ký kết. Hợp đồng bị tuyên
bố vô hiệu gây thiệt hại nặng nề cho các tổ chức tín dụng.
- Tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có
bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm.
Chính bởi bản chất hợp đồng tín dụng mang tính rủi ro cao nên các tổ chức
tín dụng coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất
(các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Hiện nay, theo quy định của
pháp luật có ba hình thức bảo đảm tín dụng là cầm cố, thế chấp, bảo đảm tài sản
bằng bảo lãnh. Quá trình xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo
đảm được quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày
22/2/2012 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện không phải khi nào các bên cũng tuân thủ nghiêm túc
những quy định của pháp luật, nên trên thực tế, các tranh chấp liên quan đến tài sản
bảo đảm tương đối nhiều.
Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này chủ yếu liên quan đến việc xử
lý tài sản bảo đảm. Khi thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu như nhân viên ngân hàng

thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những

17


tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm thì sẽ dẫn
đến những tranh chấp phát sinh khi ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, nếu
không xác định được tài sản bảo đảm thuộc sở hữu chung hay riêng của vợ chồng hoặc
tài sản bảo đảm không thuộc của người cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh thì cũng gây khó
khăn khi xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là tài sản của Hộ gia đình.
- Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD : Nếu như khi ký hợp
đồng tín dụng mà các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh
chấp cũng như luật áp dụng (nếu như có yếu tố nước ngoài) thì sau này có nhiều
khả năng xảy ra việc tranh chấp về luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng tín dụng. Thực tiễn cho thấy tranh chấp này ít xảy ra.
Hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam ít nhiều chịu sự ảnh hưởng không nhỏ
bởi các cuộc khủng hoảng của các nước trên Thế giới dẫn đến việc xảy ra tranh
chấp trong hợp đồng tín dụng ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp. Do đó, việc
tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết sức cần thiết. Từ đó, có
những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục tình trạng tranh chấp để
tiến tới giảm thiểu đáng kể số lượng tranh chấp.
1.3. Nguyên nhân và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng ngân hàng
1.3.1. Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Về bản chất, cũng như bất kỳ một tranh chấp thuộc lĩnh vực khác, tranh chấp
HĐTD là sự phản ánh những mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể trong việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ theo HĐTD, hay nói cách khác, chỉ khi có sự vi phạm nghĩa
vụ theo hợp đồng của một bên hoặc cả hai bên thì tranh chấp mới phát sinh. Ở đây,
bên cạnh thuật ngữ “tranh chấp HĐTD” còn xuất hiện thuật ngữ “vi phạm HĐTD”.
Hai thuật ngữ này có sự khác biệt về mặt nội dung nhưng lại có mối quan hệ thống

nhất và phụ thuộc lẫn nhau.
“Vi phạm HĐTD” có thể được hiểu là hành vi bất hợp pháp của một hoặc cả
hai bên giao kết không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những điều khoản đã
thỏa thuận trong hợp đồng. “Tranh chấp HĐTD” có thể hiểu là tình trạng pháp lý
phát sinh do một bên hoặc cả hai bên đã có hành vi vi phạm hợp đồng. Như vậy,
trong mối liên hệ giữa hành vi vi phạm hợp đồng với tranh chấp hợp đồng thì vi
phạm HĐTD được coi là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp HĐTD. Theo đó, tranh

18


chấp HĐTD thường bao gồm ba yếu tố: (1) Có quan hệ HĐTD tồn tại giữa các bên
tranh chấp; (2) Có sự vi phạm của một bên làm ảnh hưởng tới lợi ích của bên kia;
(3) Có sự mâu thuẫn, xung đột, bất đồng quan điểm, lợi ích giữa các bên về sự vi
phạm hoặc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm.
Trên thực tế, hầu hết các tranh chấp HĐTD phát sinh đều có nguyên nhân từ
các hành vi vi phạm HĐTD như bên đi vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín
dụng dẫn đến tranh chấp, tổ chức tín dụng không giải ngân theo đúng kế hoạch
trong hợp đồng gây thiệt hại cho khách hàng… Tuy nhiên, nếu khẳng định tất cả
tranh chấp đều phát sinh từ hành vi vi phạm hợp đồng thì sẽ không đầy đủ và thiếu
chính xác vì tranh chấp HĐTD còn có thể xuất phát từ một dạng vi phạm khác, đó
là những vi phạm liên quan đến các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy
định của pháp luật và các bên hoàn toàn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu để khôi phục lại trình trạng ban đầu. Mặc khác, nhiều khi mâu
thuẫn, bất đồng xảy ra do các bên còn có quan điểm trái ngược nhau về cùng một
vấn đề. Điển hình của loại tranh chấp này là hai bên hiểu không thống nhất về điều
khoản cụ thể nào đó trong hợp đồng và tranh chấp này chỉ đơn thuần là tranh chấp
liên quan đến vấn đề giải thích hợp đồng.
Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, song có thể khái quát với
những nguyên nhân từ phía bên vay, bên cho vay và cả những hạn chế của quy định

pháp luật.
Về nguyên nhân từ phía bên cho vay: Thông thường phía ngân hàng vi
phạm nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như quy định trong hợp đồng. Các tổ chức
tín dụng không tuân thủ chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Đôi khi ngân hàng
cho vay mà không tiến hành quy trình thẩm định theo nguyên tắc phân tích tín dụng,
điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là: Tính cách người vay, năng
lực trả nợ, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện môi trường, sự kiểm soát
mà ngân hàng lại dựa vào nhận định của các nhân viên của mình. Trên thực tế, khi
tiến hành thẩm định bên cho vay không thể kiểm tra được bên vay có thông qua một
tổ chức tín dụng đen nào hay không. Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp
lý và quy trình cho vay hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế. Việc
đánh giá biện pháp bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích, đánh giá các điều
kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. Tổ chức tín dụng đánh giá về biện pháp bảo

19


×