Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÂM HOÀNG THUẬN YẾN

BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH THÁI NGUYÊN

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Lâm Hoàng Thuận Yến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO
ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ....................................................................... 8


1.1 Lao động chưa thành niên ..................................................................... 8
1.2 Bảo vệ lao động chưa thành niên ........................................................ 16
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA
THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH THÁI
NGUYÊN........................................................................................................ 25
2.1 Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về
bảo vệ người lao động chưa thành niên .................................................... 25
2.2 Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện
hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên .... 45
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ BẢO
VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI TỈNH THÁI
NGUYÊN........................................................................................................ 52
3.1. Các yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật lao động về bảo
vệ người lao động chưa thành niên ........................................................... 52
3.2 Hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa
thành niên .................................................................................................. 56
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về
bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên .................. 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
ILO: Tổ chức lao động quốc tế
BLLĐ: Bộ luật lao động năm 2012
BLDS: Bộ luật dân sự năm 2015
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động

HĐLĐ: Hợp đồng lao động
ATLĐ, VSLĐ: An toàn lao động, vệ sinh lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam bắt đầu quá trình đổi mới nền kinh tế. Các
nguồn chi bao cấp cho y tế, văn hóa giáo dục và nhiều lĩnh vực khác dần dần bị
giảm hoặc cắt hoàn toàn. Mặt khác, Nhà nước cũng khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân. Điều này đã thu hút
nhiều loại hình lao động, trong đó có không ít lao động chưa thành niên.
Theo Báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) nhân ngày Thế giới
về chống bóc lột lao động 12/6/2019, thế giới có khoảng 152 triệu lao động
dưới 18 tuổi. Việc trẻ em phải lao động sớm để lại hậu quả nặng nề, ảnh
hưởng đến sự phát triển hài hòa của con người, tác động tiêu cực đến phát
triển kinh tế - xã hội, nhất là chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Tại
Việt Nam, theo Báo cáo Khảo sát quốc gia về lao động trẻ em năm 2018, có
1,75 triệu lao động trẻ em và người chưa thành niên từ 5 - 17 tuổi, chiếm
9,6% tổng dân số trẻ em. Để giảm thiểu số lượng lao động trẻ em và kiểm
soát chặt chẽ những hậu quả của việc người chưa thành niên tham gia lao
động, thời gian qua Chính phủ đã cam kết giải quyết vấn đề này thông qua
ban hành hệ thống luật pháp và chính sách. Ngay trong Bộ Luật lao động
cũng đã có các quy định về độ tuổi lao động tối thiểu, thời giờ làm việc và
điều kiện làm việc, quy định về lao động đối với người chưa thành niên. Bên
cạnh đó, Luật trẻ em năm 2016 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ
ngày 1/6/2017 tiếp tục có các quy định cụ thể về các hành vi nghiêm cấm bóc
lột trẻ em. Năm 2016 Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình
phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016-2020.
Tuy nhiên, trên thực tế các vấn đề liên quan đến người lao động chưa
thành niên hiện vẫn còn nhiều bất cập. Theo dõi các báo cáo kết quả khảo sát

của Cục An toàn lao động và Báo cáo kết quả thanh tra của Thanh tra Bộ Lao

1


động - Thương binh xã hội qua các năm gần đây cho thấy vẫn còn rất nhiều
người lao động chưa thành niên phải làm các nghề, các công việc độc hại,
nặng nhọc, nguy hiểm,... Chưa kể tình trạng người sử dụng lao động còn lợi
dụng sự non nớt, thiếu hiểu biết của các em để vi phạm giao kết hợp đồng lao
động, làm trái các quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,
tiền lương, an toàn lao động, vệ sinh lao động,... Đã có nhiều trường hợp trên
thực tế ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể lực, nhân cách, trí tuệ
của các đối tượng này. Ngoài ra, trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày nay,
việc vi phạm quy định về sử dụng lao động chưa thành niên còn ảnh hưởng
tới cam kết của Việt Nam về thực hiện Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu
làm việc và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các
hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Xét thấy, thực trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một mặt,
xuất phát từ nhu cầu thiết yếu của thị trường lao động nói chung. Người sử
dụng lao động vì lợi ích kinh tế trước mắt mà bất chấp sử dụng người lao
động chưa thành niên theo những cách "bóc lột", trả công rẻ, dễ sai khiến,...
Mặt khác, xuất phát từ chính nhu cầu chủ quan của người lao động chưa thành
niên dưới sức ép của sự nghèo đói, mưu sinh, từ gánh nặng gia đình,... Họ
chấp nhận làm những công việc nặng nhọc, không vừa sức, cam chịu đồng
lương ít ỏi vì "không còn cách nào khác" dù có thể biết những việc đó ảnh
hưởng đến sức khỏe cũng như sự phát triển trí tuệ, nhân cách. Thực trạng này
đòi hỏi cộng đồng và pháp luật cần ra tay tương trợ. Tuy nhiên, pháp luật về
người lao động chưa thành niên hiện hành còn nhiều những hạn chế, bất cập,
ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh. Các quy định của pháp luật liên quan trực
tiếp đến người chưa thành niên không nhiều, chưa rõ ràng và chưa có nhiều

sự đổi mới phù hợp, linh hoạt theo tình hình thay đổi của kinh tế - xã hội đất
nước. Công tác điều tra, thống kê, nghiên cứu về thực trạng áp dụng pháp luật

2


đối với người lao động chưa thành niên còn chưa được chú trọng, chưa có sự
tổng kết, đúc rút kinh nghiệm một cách toàn diện và khách quan. Đặc biệt là ở
những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, khó khăn cho cơ quan Nhà nước
trong việc quản lý, giám sát và áp dụng pháp luật trong khi người dân đa số
đều chưa có điều kiện tiếp cận và hiểu biết pháp luật. Có thể lấy ví dụ điển
hình như tỉnh Thái Nguyên. Là một địa phương có nhiều lợi thế khi có đất đai
canh tác nông nghiệp rộng lớn, nguồn tài nguyên về khoáng sản dồi dào,
nhiều khu công nghiệp trải dài ở một số huyện, thị xã,... Tuy nhiên, cũng
chính vì diện tích rộng rất khó cho việc quản lý, giám sát, nhiều huyện miền
núi, vùng sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, do đó tình
trạng vi phạm trong sử dụng lao động chưa thành niên cũng diễn ra khá phổ
biến mà đến nay vẫn chưa có biện pháp khắc phục và áp dụng hiệu quả để bảo
vệ tốt nhất cho người lao động chưa thành niên – đối tượng lao động “yếu thế”
trên địa bàn. Đây chính là những lý do để tác giả chọn đề tài " Bảo vệ người
lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động từ thực tiễn tỉnh Thái
Nguyên " làm đề tài thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói
chung là một vấn đề nhức nhối và được chú trọng quan tâm trong suốt nhiều
năm. Đã có nhiều công trình khoa học tâm huyết nghiên cứu về các khía cạnh
pháp lý xoay quanh người lao động chưa thành niên và đặc biệt là phải làm
sao để bảo vệ đối tượng được coi là “yếu thế” trong xã hội này trước tình hình
kinh tế - xã hội đang ngày một biến đổi và phát triển nhanh chóng.
Mới đây nhất có luận văn về đề tài “ Bảo vệ người lao động chưa thành

niên theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Hồng Nhị (2019) đã
nghiên cứu và khái quát khá toàn diện về vấn đề bảo vệ người lao động chưa
thành niên theo pháp luật Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật trên toàn

3


quốc hiện nay và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ
người lao động chưa thành niên ở nước ta. Tuy nhiên, với một đề tài có phạm
vi nghiên cứu khá rộng, vấn đề bảo vệ người lao động chưa thành niên được
tác giả xem xét trên nhiều lĩnh vực của pháp luật, từ pháp luật dân sự, lao
động cho đến thương mại,... Do vậy, ở một mặt nào đó, những vấn đề này
chưa được đánh giá sâu hoặc có một số tồn tại trong công tác bảo vệ người
lao động chưa thành niên trên thực tế vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có giải pháp thỏa
đáng. Trước đó, vào năm 2016, tác giả Nguyễn Thị Nhàn cũng đã nghiên cứu
đề tài “ Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay”
trong đó có nghiên cứu và đánh giá khá sâu sát về lao động chưa thành niên
theo pháp luật lao động tại Việt Nam. Việc nghiên cứu xem xét chỉ trên một
“mảnh đất” là pháp luật lao động Việt Nam cho phép tác giả có thể dành
nhiều thời gian và công sức hơn để “cày sâu” về vấn đề người lao động chưa
thành niên tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài, tác
giả cũng chỉ đánh giá chung trên bình diện lao động chưa thành niên mà
không nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phù hợp để bảo vệ người lao động
chưa thành niên – nhóm đối tượng “ yếu thế” rất cần được Nhà nước, gia đình
và xã hội chở che. Ngoài ra, cũng có một vài đề tài lựa chọn nghiên cứu một
hoặc một số đối tượng cụ thể, ví dụ “ Vấn đề trẻ em gái giúp việc trong các
thành phố lớn” của tác giả Chu Mạnh Hùng, đăng trên Tạp chí gia đình giới
(2015).
Như vậy, có thể thấy có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học tiếp
cận ở nhiều vị trí khác nhau liên quan đến người lao động chưa thành niên.

Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay chưa có đề tài nào liên quan đến vấn đề bảo
vệ người lao động chưa thành niên tại một địa phương cụ thể. Trong khi đây
là một đề tài mang tính thực tiễn và rất cần thiết. Bởi lẽ, mỗi địa phương có
tình hình phát triển kinh tế - văn hóa xã hội cũng như đặc thù về địa lý, dân cư

4


khác nhau. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ người lao động chưa
thành niên vì thế cũng khác nhau và cần phải có những nghiên cứu toàn diện
về thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân cũng như đưa ra giải pháp phù hợp cho
điều kiện của mỗi địa phương. Do vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu
sâu sát, những giải pháp đổi mới với tình hình phát triển thực tế về " Bảo vệ
người lao động chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên" nhằm tăng
tính hiệu quả cho cơ chế pháp luật điều chỉnh, bảo vệ nhóm đối tượng đặc thù
và yếu thế này. Các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan khác đều có
mục đích, phạm vi nghiên cứu, nội dung nghiên cứu và phương pháp tiếp cận
khác với luận văn này, nhưng cũng là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quý
giá đối với tác giả luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn từ việc phân tích, làm rõ thực trạng pháp luật về
bảo vệ người lao động chưa thành niên qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái
Nguyên. Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
người lao động chưa thành niên.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về người lao động
chưa thành niên cũng như cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với nhóm đối
tượng này.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật lao động

về người lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Thái
Nguyên nói riêng, chỉ ra những ưu điểm và những mặt còn hạn chế cần đổi
mới, khắc phục trong việc bảo vệ quyền lợi tối ưu cho người lao động chưa
thành niên.

5


- Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn đánh giá nêu trên, luận văn
mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động về
người lao động chưa thành niên, đặc biệt chú trọng các giải pháp nâng cao
hiệu quả "bảo vệ" của pháp luật đối với nhóm đối tượng yếu thế này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài chủ yếu là các quy định của pháp luật lao
động Việt Nam hiện hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên. Bên
cạnh đó, luận văn còn đề cập đến một số nội dung chủ yếu trong các Công
ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết, trong đó có Công ước số
138 về độ tuổi lao động tối thiểu (1973) và Công ước số 182 về cấm và hành
động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
(1999) làm cơ sở đối sánh để đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam.
Do pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên chủ yếu điều
chỉnh trong mối quan hệ " làm công ăn lương", nên để phù hợp với tên gọi
của đề tài và chuyên ngành nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về
đối tượng này và các nhóm quy định có liên quan mật thiết trong vai trò bảo
vệ người lao động chưa thành niên: Nhóm quy định về bảo vệ việc làm cho
người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ sức khỏe cho
người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ tiền lương và thu
nhập cho người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ các
quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên. Ngoài ra, tác giả còn
mở rộng ở một mức độ phù hợp về người lao động chưa thành niên trong giai

đoạn học nghề,...và một số mối quan hệ xã hội có liên quan.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của triết học Mác - Lênin cũng như lý luận chung về Nhà nước và pháp luật

6


làm cơ sở cho phương pháp luận để đạt được mục đích và giải quyết tốt các
nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Ngoài ra, tùy vào mục đích, phạm vi và nội dung nghiên cứu của từng
chương trong luận văn mà tác giả sử dụng riêng lẻ hoặc tổng hợp các
phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... sao cho phù hợp và
hiệu quả nhất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công
tác nghiên cứu, giảng dạy khoa học luật lao động, cho các cá nhân quan tâm
đến việc bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động. Bên
cạnh đó, ở mức độ nhất định, luận văn cũng giúp cho những người hoạt động
trong lĩnh vực lao động xã hội hay chính bản thân những người lao động chưa
thành niên những kiến thức cần thiết trong thực tiễn áp dụng pháp luật lao
động về người lao động chưa thành niên phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội
Việt Nam nói chung và thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục từ
viết tắt, kết cấu chính của luận văn gồm 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động chưa thành niên.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về
bảo vệ người lao động chưa thành niên và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật lao động và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
1.1 Lao động chưa thành niên
1.1.1 Khái niệm
Trên thế giới hiện chưa có khái niệm thống nhất về “ lao động chưa
thành niên”. Theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc và
Công ước số 182 năm 1999 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về loại bỏ
những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất không đưa ra khái niệm “ lao
động chưa thành niên” mà đưa ra khái niệm “lao động trẻ em”. Theo đó, “ trẻ
em được xác định là người dưới mười tám tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia
công nhận tuổi thành niên sớm hơn”. Còn trong Bản quy tắc của Liên hợp
quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 có quy định: “ người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn dưới tuổi này cần phải được pháp luật
xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên”. Như
vậy, khi đưa ra khái niệm chưa thành niên, pháp luật quốc tế không dựa hoàn
toàn, trực tiếp vào đặc điểm tâm, sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh
thần,... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Nhìn
chung, pháp luật quốc tế đã đưa ra khả năng “mở” cho các quốc gia tùy điều
kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống riêng để có thể quy định độ tuổi
thành niên sớm hơn.
Ở Việt Nam, những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần
nhưng tham gia lao động là hiện tượng phổ biến và được nhà nước thừa nhận.
Hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta đang ghi nhận cả hai thuật ngữ “trẻ em”

và “người chưa thành niên”. Theo Điều 1 Luật trẻ em 2016 thì “ trẻ em là
người dưới 16 tuổi”. Còn theo Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “ người

8


chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Điều đó cho thấy khái niệm “ trẻ
em” trong pháp luật Việt Nam là không hoàn toàn đồng nhất với quy định của
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xét về độ tuổi, “ trẻ em” theo quan
niệm của Liên hợp quốc tương ứng với khái niệm “ người chưa thành niên”
của pháp luật Việt Nam là người dưới 18 tuổi.
Trong lĩnh vực pháp luật lao động, khái niệm người lao động chưa thành
niên hiện nay được quy định tại Điều 119 Bộ luật lao động 2012. Theo đó,
“người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Căn cứ các
quy định liên quan về người lao động chưa thành niên, giáo trình Luật lao
động Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội có diễn giải rõ hơn như sau:
“ lao động chưa thành niên là những lao động dưới 18 tuổi, bao gồm hai loại
lao động là lao động dưới 15 tuổi và lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18
tuổi”. Quy định này thể hiện sự phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự
2015 về xác định độ tuổi, năng lực chủ thể và trách nhiệm chủ thể, thông qua
đó để xác định phạm vi tham gia công việc, điều kiện bảo đảm và phương
hướng bảo vệ lao động chưa thành niên trong quan hệ lao động. Đồng thời
cũng thể hiện sự phù hợp với quy định của Công ước về quyền trẻ em năm 1989
của Liên hợp quốc và Công ước số 182 năm 1999 của ILO. Tuy nhiên, tương tự
như Điều 119 Bộ luật lao động, khái niệm này chưa nêu rõ những đặc tính cơ
bản làm cơ sở để nhận biết đối tượng người lao động chưa thành niên.
Theo tiến sỹ Nguyễn Hữu Chí: “ mọi người lao động dưới 18 tuổi có khả
năng lao động và giao kết hợp đồng lao động là lao động chưa thành niên”.
Đây là khái niệm phản ánh tương đối đầy đủ nội hàm về người lao động chưa
thành niên, trong đó đã xác định phạm vi đối tượng, tính chất, thuộc tính của

nhóm đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần tham gia quan hệ
lao động, làm cơ sở để phân biệt với những người lao động đã phát triển đầy
đủ về thể chất, tinh thần.

9


Từ đó có thể đưa ra khái niệm lao động chưa thành niên như sau: người
lao động chưa thành niên là người lao động có đặc điểm riêng, gồm những
người dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
Khái niệm này đã nhấn mạnh đây là nhóm lao động đặc thù, có những
đặc điểm riêng biệt nhằm xây dựng một hành lang pháp lý phù hợp để bảo vệ
quyền lợi xác đáng cho họ.
Đây cũng là khái niệm thể hiện tính đồng nhất với các quy định của pháp
luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng khi chỉ rõ phạm vi
giới hạn tối đa về độ tuổi của người lao động chưa thành niên là dưới 18 tuổi
nhằm phân biệt với người lao động thành niên, có sự phát triển đầy đủ về thể
lực, trí tuệ.
Ngoài ra, khái niệm trên cũng nêu điều kiện, tính chất của người lao
động chưa thành niên. Đó chính là khả năng lao động. Việc xác định khả năng
lao động là điều kiện, thuộc tính của đối tượng này nhằm phân biệt với người
không có khả năng lao động (có khuyết tật nặng về trí lực, thể lực,...).
Một điều kiện quan trọng khác để được thừa nhận là người lao động
chưa thành niên, đó là phải có giao kết hợp đồng lao động. Người chưa thành
niên có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đầy đủ nhưng có trường hợp
họ không được coi là người lao động chưa thành niên khi họ không tham gia
vào quan hệ lao động. Việc tham gia quan hệ lao động thông qua hình thức
hợp đồng lao động. Theo đó, chủ thể trong hợp đồng lao động phải là người
sử dụng lao động và người lao động chưa thành niên. Đồng thời, hai bên khi
giao kết hợp đồng lao động phải tuân theo những quy định về hình thức, nội

dung hợp đồng để đảm bảo hợp đồng có hiệu lực.

10


1.1.2 Tính đặc thù của lao động chưa thành niên
So sánh với lao động thành niên, có thể thấy lao động chưa thành niên là
nhóm lao động đặc thù, có những đặc điểm riêng cơ bản như sau:
Thứ nhất, lao động chưa thành niên là người có độ tuổi dưới 18 tuổi,
chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần. Ở giai đoạn dưới 18 tuổi, nhóm
người này đang phát triển vượt bậc về thể chất nhưng chưa có sự ổn định về
sinh lý. Nếu phải lao động với cường độ quá sức, hoặc làm việc nhiều giờ,
hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại,...hoặc phải tiếp xúc thường xuyên với
các môi trường dễ xảy ra tệ nạn xã hội như: quán bar, quán karaoke, quán bia
– rượu,... sẽ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành và phát triển cả về thể chất lẫn
trí tuệ của người chưa thành niên. Tâm lý phức tạp của lứa tuổi này cũng là
một vấn đề lo ngại khi họ bắt đầu có sự tự ý thức về cá tính của mình, việc
sinh hoạt, giao tiếp với xã hội cũng được mở rộng và mang tính độc lập hơn,
không chịu sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ từ gia đình như trước. Nếu không
có sự uốn nắn kịp thời, người lao động chưa thành niên, với tâm lý tuổi trẻ
bồng bột, hiếu thắng, rất dễ ảnh hưởng xấu đến khả năng học nghề, năng suất
lao động, thậm chí là cả sự hình thành về tính cách sau này.
Chính vì vậy, các yếu tố bên ngoài là một trong những yếu tố để hình
thành nhân cách, lối sống của lao động chưa thành niên. Mặt khác, lao động
chưa thành niên là người chưa hoàn thiện về nhận thức, trì tuệ, còn non nớt về
xã hội và pháp luật cho nên rất khó để họ độc lập thực hiện và bảo vệ tính
mạng, danh dự của mình. Vì thế, đây là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị
xâm hại, bị lợi dụng, dụ dỗ, bóc lột lao động. Xuất phát từ đặc điểm này mà
pháp luật lao động cũng có quy định chặt chẽ các vấn đề liên quan đến việc
tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên.

Thứ hai, người lao động chưa thành niên được pháp luật bảo vệ ở mức
độ cao hơn so với người lao động thành niên. Lao động chưa thành niên còn

11


thiếu kinh nghiệm sống và làm việc, chưa hiểu biết pháp luật, hiểu biết xã hội.
Do độ tuổi còn trẻ, nên lao động chưa thành niên chưa có nhiều kinh nghiệm
sống, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, chưa nhận thức được đầy đủ về quyền
và nghĩa vụ lao động của mình. Cho nên khả năng tự bảo vệ là chưa cao,
nhiều em nhỏ phải chịu nguy cơ bị bóc lột, lợi dụng sức lao động. Do vậy, họ
được pháp luật bảo vệ theo hướng hưởng một số quyền, lợi ích ngang bằng
hoặc hơn những quyền và lợi ích mà pháp luật quy định với người lao động
thành niên, như: tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,...
Mặt khác, việc bảo vệ người lao động chưa thành niên còn thể hiện ở
quy định hạn chế họ tham gia làm một số công việc, ngành nghề nhất định.
Đối với nhóm lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi là
nhóm tuổi tham gia quan hệ lao động khá phổ biến hiện nay. Theo như Bộ
luật dân sự năm 2015 thì đây cũng là nhóm tuổi tối thiểu để có năng lực chủ
thể khi tham gia vào quan hệ lao động, có thể tự mình xác lập một số quyền
và nghĩa vụ trong quan hệ lao động ( Ví dụ như giao kết hợp đồng lao động).
Việc quy định nhóm tuổi lao động này căn cứ vào một số yếu tố như: cơ cấu
và nhu cầu giải quyết việc làm của xã hội, điều kiện kinh tế, xã hội của một số
quốc gia, lực lượng lao động xã hội và một số yếu tố khác. Bên cạnh đó, việc
quy định về nhóm tuổi này hoàn toàn phù hợp với Công ước số 138 năm 1973
về độ tuổi tối thiểu. Mặc dù, pháp luật cho phép độ tuổi này được tham gia lao
động, học nghề những do chưa hoàn thiện đầy đủ về thể chất lẫn tinh thần nên
độ tuổi này chỉ được phép làm những công việc phù hợp với sức khỏe, không
được làm những công việc độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc nơi làm việc,
tính chất công việc ảnh hưởng xấu đến nhân cách của họ.

Đối với nhóm lao động dưới 15 tuổi là nhóm tuổi đang trong quá trình
hoàn thiện về trí tuệ, nhân cách và thể lực. Nhóm tuổi này đa phần còn đang
là học sinh, vẫn còn đang đi học và vì một số nguyên nhân mà các em phải

12


lao động để phụ giúp gia đình hoặc để phục vụ nhu cầu cho chính bản thân
mình. Trong khoa học pháp lý thường gọi đây là những người có năng lực
pháp luật không đầy đủ. Vì vậy, khi các em ở độ tuổi này tham gia lao động
chỉ được làm những công việc nhẹ nhàng, đơn giản, không ảnh hưởng đến
việc học tập của các em. Còn đối với người dưới 13 tuổi, pháp luật quy định
không được sử dụng lao động là người dưới 13 tuổi trừ một số công việc do
Bộ lao động – Thương binh và Xã hội quy định.
Thứ ba, người lao động chưa thành niên bị hạn chế một phần năng lực
hành vi khi giao kết hợp đồng trong những trường hợp nhất định. Căn cứ điều
20, điều 21 BLDS năm 2015: người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện
theo pháp luật đồng ý. Người chưa đủ 6 tuổi khi tham gia giao dịch dân sự
phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Quy định này cũng
được ghi nhận trong pháp luật lao động nhằm đảm bảo có sự giám sát, bảo hộ
chặt chẽ hơn đối với quyền và lợi ích của người lao động chưa thành niên. Tại
Điều 3 Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số nội dung của Bộ luật lao động có nêu rõ hơn về vấn đề này. Người lao
động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi giao kết hợp đồng phải có sự đồng ý
bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Đối với người lao động dưới 15
tuổi không được trực tiếp giao kết hợp đồng mà phải giao kết qua người đại diện
theo pháp luật và phải có sự đồng ý bằng văn bản của người lao động.
1.1.3 Phân loại lao động chưa thành niên
Có nhiều cách phân loại lao động chưa thành niên dựa trên các tiêu chí

khác nhau, như: phân loại theo địa điểm ( nông thôn, thành thị); phân loại
theo nhóm ngành lao động ( nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,...); phân loại
theo độ tuổi,... Một vài cách phân loại phổ biến và dễ quản lý nhất như sau:

13


Thứ nhất, căn cứ vào độ tuổi có thể phân người lao động chưa thành niên
thành ba nhóm:
- Nhóm độ tuổi dưới 13 tuổi
Đây là nhóm có độ tuổi thấp nhất mà pháp luật cho phép và được quy
định rất cụ thể, chặt chẽ đối với người sử dụng lao động khi cho các em tham
gia học nghề hoặc làm việc. Đây cũng là nhóm không được khuyến khích
tham gia lao động, trừ một số ngành nghề đặc thù thuộc lĩnh vực nghệ thuật
có tính chất công việc nhẹ nhàng, không ảnh hưởng đến sự phát triển về thể
lực và trí tuệ, có thể tạo điều kiện phát triển tài năng cho các em như: đóng
phim, ca hát, trình diễn thời trang,...
- Nhóm độ tuổi từ 13 đến dưới 15 tuổi:
Đây là độ tuổi trẻ em hoàn toàn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, một số
các em trong số đó tiếp tục học lên các bậc học cao hơn. Còn một số em vì
một lý do nào đó không thể tiếp tục theo con đường học tập, thường là đối
tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thì các em buộc phải học nghề hoặc đi
làm để nuôi sống bản thân và gia đình. Tuy nhiên, đây cũng là nhóm tuổi
đang trong quá trình phát triển về thể chất, tinh thần lại có hạn chế về trình độ,
kiến thức, kỹ năng nên chỉ được phép tham gia vào những công việc nhẹ
nhàng, đơn giản, ít yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật và diễn ra trong thời gian
ngắn. Để bảo đảm được quyền lợi cho các em cũng như có sự rõ ràng hơn cho
người sử dụng lao động, Nhà nước ta đã quy định danh mục những công việc
mà nhóm tuổi này được làm kèm theo những điều kiện áp dụng chặt chẽ.
- Nhóm độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi:

Người chưa thành niên tham gia lao động ở tuổi này chiếm tỷ lệ đa số.
Họ có thể giao kết hợp đồng lao động và trở thành một bên của quan hệ lao
động và chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động. Thêm vào đó, chương

14


trình đào tạo cuối cấp ở đa số các trường học tại Việt Nam đều đã bổ sung
thêm một số nghề nhất định, giúp các em có định hướng, kiến thức và kỹ
năng cơ bản để bắt đầu lao động và làm việc gần như người trưởng thành.
Tuy nhiên, đối với nhóm tuổi này, pháp luật cũng có những quy định bảo hộ
cần thiết và hạn chế cho phép họ làm những công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm hay ảnh hưởng tới nhân cách.
Thứ hai, căn cứ vào giới tính, có thể phân người lao động chưa thành
niên thành hai nhóm là lao động nam và lao động nữ. Tiêu chí này được đặt ra
dựa trên đặc điểm về cấu trúc cơ thể và tâm sinh lý khác biệt của các đối
tượng này nhằm sắp xếp các công việc phù hợp đồng thời đặt ra những biện
pháp bảo vệ và quản lý sâu sát, tránh sự lạm dụng đối với lao động chưa
thành niên nữ.
Thứ ba, căn cứ vào trình độ chuyên môn kỹ thuật, người lao động chưa
thành niên có thể được phân thành hai nhóm: lao động chưa thành niên đã qua
đào tạo và lao động chưa thành niên chưa qua đào tạo. Tiêu chí đào tạo này
được xác định thông qua việc người lao động chưa thành niên được cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền thực hiện đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghề, hoặc
do người lao động chưa thành niên tự rèn luyện, tích lũy, học hỏi kinh nghiệm
từ những người làm nghề đi trước. Mục đích của cách phân loại này nhằm có
những chính sách cần thiết để hỗ trợ, đào tạo tay nghề cho người lao động
chưa thành niên, giúp họ tăng thêm thu nhập đồng thời nâng cao chất lượng
nguồn lao động trong tương lai.
Trên thực tế còn rất nhiều cách phân loại người lao động chưa thành niên

theo các tiêu chí khác nhau. Tuy vậy, cách phân loại nào cũng chỉ mang tính
chất tương đối và đều nhằm mục đích tạo sự điều chỉnh pháp lý phù hợp, để
người lao động chưa thành niên được làm việc dưới sự bảo vệ tối ưu nhất của
pháp luật, chống lại sự lạm dụng, bóc lột sức lao động và tinh thần của họ.

15


1.2 Bảo vệ lao động chưa thành niên
1.2.1 Khái niệm bảo vệ lao động chưa thành niên
Bảo vệ người lao động nói chung và người lao động chưa thành niên nói
riêng là một trong các nguyên tắc cơ bản được đề ra trong pháp luật lao động.
Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ sự không tương xứng về vị thế giữa
người lao động và người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao động, người
lao động thường ở vị trí bất lợi hơn so với người sử dụng lao động. Sự “yếu
thế” này thể hiện ở khía cạnh địa vị xã hội của họ thấp hơn, thể lực, trí lực của
họ chưa phát triển bằng người sử dụng lao động. Khi thiết lập quan hệ lao
động giữa hai bên, nếu áp dụng nguyên tắc tự do thỏa thuận thì phía người lao
động chưa thành niên sẽ rơi vào tình huống bất lợi, quyền và lợi ích của đối
tượng này sẽ không được đảm bảo. Do vậy, việc xây dựng một hành lang pháp
lý với những quy định riêng, cụ thể, chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
người lao động chưa thành niên cũng như đưa ra những nghĩa vụ cho đối tượng
này là một vấn đề đã, đang và sẽ được Nhà nước ta đề cao thực hiện.
Do đây là nhóm đối tượng đang trong quá trình phát triển chưa hoàn
thiện về thể lực, trí lực, tương ứng với mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm
riêng trong khi mỗi ngành nghề, môi trường làm việc lại có những tính chất
khác nhau nên không thể các quy định pháp luật theo hướng chi tiết, cụ thể
từng quyền và nghĩa vụ mà chỉ có thể quy định theo hướng thông qua các tiêu
chuẩn tối thiểu (về quyền, lợi ích) và tối đa (về nghĩa vụ) trên cơ sở độ tuổi
đồng thời khuyến khích các thỏa thuận có lợi hơn cho người lao động chưa

thành niên so với quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu, bảo vệ người lao động chưa thành niên là việc
pháp luật xây dựng và áp dụng những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của người lao động chưa thành niên đồng thời khuyến khích các thỏa thuận có
lợi nhằm cân bằng vị thế của họ trong xã hội, giúp cho nhóm đối tượng này

16


được “an toàn” phát triển toàn diện từ thể chất đến tinh thần trong quá trình
lao động kiếm thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình.
1.2.2 Ý nghĩa và sự cần thiết bảo vệ lao động chưa thành niên trong pháp
luật lao động
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế
hiện nay, sự phát triển của các mô hình kinh doanh từ hộ gia đình, doanh
nghiệp tư nhân,.. kéo theo nhu cầu lao động rất lớn, trong đó có lao động chưa
thành niên. Việc sử dụng lao động chưa thành niên, theo đa phần người sử
dụng lao động, thường có khá nhiều lợi ích, như: mức lương thấp, dễ sai bảo,
có thể tùy ý tăng thời giờ làm việc,... Mặt khác, đa phần người chưa thành
niên bắt buộc tham gia lao động vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Họ phải
bươn chải từ rất sớm, thậm chí bỏ học để làm việc nuôi sống bản thân và gia
đình. Đó chính là áp lực, là sức ép khiến người lao động chưa thành niên phải
tìm và làm bất cứ công việc gì mà họ được nhận. Hiện trạng này đã đặt ra nhu
cầu cần phải có pháp luật điều chỉnh nhằm định hướng cho sự phát triển của
các quan hệ có đối tượng này tham gia.
Các quy định của Nhà nước về việc làm, về quan hệ lao động, về thu
nhập và tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, thanh tra và xử lý vi
phạm... sẽ tạo ra một hành lang pháp lý để bảo vệ và phát huy những đặc tính
tích cực đồng thời hạn chế những ảnh hưởng không nên có của việc sử dụng
người lao động chưa thành niên, thêm vào đó cũng đảm bảo cho họ được phát

triển bình thường về mặt thể lực, trí lực và nhân cách.
Mặt khác, pháp luật về người lao động chưa thành niên còn góp phần
bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội. Người lao động chưa thành niên là
những “mầm non” tương lai của đất nước, bảo vệ nguồn lao động này chính
là bảo vệ nguồn cung trên thị trường lao động, bảo đảm sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

17


1.2.3 Nội dung điều chỉnh của pháp luật lao động về bảo vệ người lao
động chưa thành niên
1.2.3.1

Bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên

Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà người chưa thành niên
phải tham gia lao động nhằm có thu nhập nuôi sống bản thân hoặc giúp đỡ gia
đình. Để thừa nhận và bảo vệ nhu cầu chính đáng này, pháp luật có những
quy định thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền được tham gia quan hệ lao động
của người lao động chưa thành niên.
Người lao động chưa thành niên có quyền có việc làm, được tự do lựa
chọn việc làm phù hợp, có quyền làm việc cho bất kỳ người lao động nào và ở
bất kỳ nơi đâu mà pháp luật không cấm. Đây là những quyền thuộc phạm trù
quyền cơ bản của con người, tạo điều kiện và cơ hội để người lao động chưa
thành niên có thu nhập bảo đảm cuộc sống của bản thân và giúp đỡ gia đình,
đồng thời đóng góp một phần cho xã hội cũng như hạn chế các tiêu cực, tệ
nạn xã hội. Quyền này không những được khẳng định trong pháp luật quốc
gia mà còn được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế. Tuyên ngôn về quyền
con người (1948) của Liên hợp quốc nêu rõ: “mọi người đều có quyền làm
việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính

đáng và được bảo vệ chống lại thất nghiệp”. Tuy nhiên, với những đặc thù
riêng về sự phát triển chưa toàn diện về thể chất, trí tuệ,.. người lao động chưa
thành niên khó có thể tự tìm cho mình một công việc phù hợp với khả năng
mà không bị lạm dụng, bóc lột sức lao động.
Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động chưa thành niên, pháp
luật quốc gia đã phân bổ nhiệm vụ cho một số cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền xây dựng các chính sách tạo việc làm, ưu tiên cho nhóm đối tượng này,
đồng thời phát triển mạng lưới thông tin về sự cung – cầu việc làm trên các
trang mạng điện tử - nơi có thể tiếp cận được với người chưa thành niên

18


nhanh nhất. Song song với đó, nhà nước còn khuyến khích các tổ chức kinh tế
tạo nhiều cơ hội việc làm phù hợp hơn cho người lao động chưa thành niên,
đặc biệt là trong các ngành nghề có tính chất nhẹ nhàng, phù hợp với sức
khỏe, trí lực của các đối tượng từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi như: trong các làng
nghề mây tre đan, chế biến các loại trà, thủ công mỹ nghệ, tranh sơn mài...
Điều này không chỉ tạo việc làm, tăng thu nhập cho các em mà còn vun đắp
tình yêu với những sản phẩm truyền thống, đặc sắc của dân tộc, góp phần gìn
giữ những giá trị văn hóa tinh thần của đất nước.
Để đạt được hiệu quả tối ưu và bảo vệ những quyền lợi thiết yếu của
người sử dụng lao động, song song với việc tăng nhu cầu việc làm cho người
lao động chưa thành niên, nhà nước còn rất chú trọng đến việc đào tạo, nâng
cao chất lượng tay nghề của nhóm đối tượng này. Không chỉ “mang cần câu
cá cho người, mà còn phải dạy họ kỹ thuật câu cá”, như vậy mới tạo được sự
bền vững và cân đối được lợi ích hai bên.
Ngoài học nghề, thì vấn đề giao kết hợp đồng lao động với người chưa
thành niên cũng được pháp luật rất chú trọng. Với tư cách là một người lao
động, khi tham gia vào quan hệ lao động, lao động chưa thành niên cũng phải

giao kết hợp đồng lao động. Theo tổ chức lao động quốc tế thì hợp đồng lao
động là một thỏa thuận ràng buộc pháp lý giữa người sử dụng lao động và
người lao động, trong đó xác định các điều kiện và chế độ làm việc. Trên cơ
sở đó, pháp luật Việt Nam cũng quy định tại Điều 15 BLLĐ 2012 như sau: “
Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao
động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên trong quan hệ lao động”. Quy định về điều kiện giao kết hợp đồng lao
động của người lao động chưa thành niên chủ yếu là dựa trên tiêu chí phân
loại về độ tuổi. Mỗi nhóm độ tuổi khác nhau thì các công việc tương ứng với
độ tuổi cũng khác nhau: nhóm dưới 13 tuổi chỉ được giao kết hợp đồng lao

19


động để làm các công việc nhẹ nhàng liên quan đến nghệ thuật: diễn xuất,
biểu diễn nghệ thuật, ...; nhóm từ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi thông quan người
đại diện theo pháp luật để giao kết hợp đồng làm các công việc nhẹ nhàng,
không ảnh hưởng đến an toàn, sức khỏe, đạo đức, sự phát triển và việc đi học
trong khi nhóm từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được quyền giao kết hợp đồng lao
động với hầu hết các công việc, trừ công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đến
an toàn, sức khỏe, đạo đức hay sự phát triển về thể lực, trí lực và nhân cách
nhưng phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật.
1.2.3.2

Bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên

Lao động chưa thành niên là nhóm lao động riêng với đặc điểm đặc thù
là chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí lực, do đó cần phải xây dựng
những quy định riêng để bảo vệ về mặt sức khỏe cho nhóm đối tượng này. Đa
phần các quốc gia đều quy định theo hướng rút ngắn thời giờ làm việc và tăng

thời giờ nghỉ ngơi so với người lao động thành niên; thường xuyên kiểm tra
sức khỏe định kỳ,...
Ngoài ra, những quy định về ATLĐ, VSLĐ cũng được pháp luật các
quốc gia đặc biệt chú trọng. Bởi môi trường lao động là nơi có ảnh hưởng rất
lớn đến sức khỏe, sự phát triển về thể chất, tinh thần, thậm chí là về tính mạng
của người lao động, đặc biệt là người lao động chưa thành niên. Hầu hết các
quốc gia đều yêu cầu NSDLĐ phải đảm bảo nghiêm ngặt các quy định về
điều kiện lao động và vệ sinh bắt buộc, trang bị và đảm bảo các biện pháp
ngăn ngừa, loại bỏ những yếu tố độc hại, nguy hiểm cũng như trang bị đầy đủ
các thiết bị bảo hộ lao động.
Những quy định này có thể tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho người lao
động chưa thành niên tham gia lao động với thời gian hợp lý, bảo vệ sức khỏe
để làm việc lâu dài, đảm bảo có thời gian nghỉ ngơi, học tập. Điều này cũng

20


nhằm tái khả năng sản xuất lao động và đảm bảo hiệu suất làm việc, góp phần
giữ vững nền kinh tế - xã hội của một quốc gia.
1.2.3.3 Bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao động chưa thành niên
Theo ILO, “ tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập, bất kể tên gọi hay
cách tính mà có thể biểu hiện bằng tiền mặt và được ấn định bằng thỏa thuận
giữa NSDLĐ và NLĐ, hoặc bằng pháp luật quốc gia, do NSDLĐ phải trả cho
NLĐ theo một hợp đồng thuê mướn lao động, bằng viết tay hoặc bằng miệng,
cho một công việc đã thực hiện hoặc sẽ thực hiện, hoặc cho những dịch vụ đã
làm hoặc phải làm”. Như vậy, về mặt pháp lý, tiền lương được hiểu là số tiền
mà NSDLĐ trả cho NLĐ theo sự thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng lao
động, trên cơ sở năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Tiền
lương có ý nghĩa quan trọng đối với NLĐ nói chung và người lao động chưa
thành niên nói riêng, ngoài việc nuôi sống bản thân và gia đình mà còn giúp

họ tích lũy, tái sản xuất sức lao động,...
Pháp luật Việt Nam có quy định về mức lương tối thiểu, điều này giúp
người lao động chưa thành niên có căn cứ để xác định và thỏa thuận với
người sử dụng lao động một mức lương tương xứng với công sức lao động và
hợp lý trong nền kinh tế thị trường. Ngoài quy định về tiền lương tối thiểu, pháp
luật cũng có những quy định khác đối với tiền lương của người lao động chưa
thành niên, như: quyền nhận lương đầy đủ, đúng hạn, cách tính lương theo sản
phẩm làm ra hoặc theo hướng có lợi cho người lao động chưa thành niên.
1.2.3.4 Bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên
Pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền nhân thân tại khoản 1 Điều 25
BLDS năm 2015 như sau: “ Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật
này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, trừ trường hợp khác có liên quan đến quy định khác”. Quyền

21


×