VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYÊN VĂN THẮNG
CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế Mã
số
: 8.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Nguyễn Thị Thương Huyền
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết luận nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI......6
1.1...............................................................................Khái quát chung về chi bảo hiểm xã hội
............................................................................................................................................6
1.2...........................................................................................................................................Lý
luận pháp luật về chi bảo hiểm xã hội .............................................................................16
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI
TẠI TỈNH BẮC NINH..................................................................................................................30
2.1..................................................................................................................................... Kh
ái quát thực trạng pháp luật về chi bảo hiểm xã hội ở Việt Nam...............................30
2.2..................................................................................................................................... Th
ực trạng thực hiện chế độ chi bảo hiểm xã hội tại tỉnh Bắc Ninh..............................46
2.3.....................................................................................................................................Đán
h giá thực trạng thực hiện pháp luật chi bảo hiểm xã hội..........................................62
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI
TỈNH BẮC NINH...........................................................................................................................69
3.1.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về chi bảo hiểm xã hội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
. 69
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
3.2........................................................................................................................................... Mộ
t số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi bảo hiểm xã hội.............................................72
3.3.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chi bảo hiểm xã hội tại Bắc
Ninh..............................................................................................................................................75
KẾT LUẬN..................................................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................80
1. ASXH
: An sinh xã hôi
2. BHXH
: Bảo hiểm xã hội
3. BQ
4. HĐND
: Bình quân
: Hội đồng nhân dân
5. NSNN
6. NLĐ
7. TNLĐ-BNN
: Ngân sách Nhà nước
: Người lao động
: Tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp
8. UBND
: Uỷ ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm, phát
triển theo quá trình phát triển của xã hội và đến nay đối với bất cứ một quốc gia nào thì BHXH
cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với người lao động (NLĐ) và hệ thống an sinh
xã hội (ASXH) quốc gia. Ở nước ta, BHXH được Đảng và nhà nước rất coi trọng, BHXH trở
thành một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất cùng với cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội
góp phần đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho NLĐ. Công tác chi các chế độ BHXH có
thể coi là một khâu trọng yếu trong việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH. Chi các chế
độ BHXH nếu được thực hiện tốt sẽ gián tiếp tạo đà cho công tác thu BHXH, đây cũng chính
là làm cho hoạt động BHXH phát triển, từ đó góp phần làm cho mục đích của chính sách
BHXH phát huy vai trò hơn nữa.
Theo đó, chi BHXH là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ BHXH và liên
quan trực tiếp đến cuộc sống của NLĐ. Chỉ có chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và an toàn đến tay
người tham gia BHXH mới đảm bảo quyền lợi của họ cũng như phát huy hết vai trò của chính
sách BHXH. Công tác chi BHXH phản ánh chất lượng của dịch vụ BHXH và trong một trừng
mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội.
Hiện nay, quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH của cơ quan BHXH ở cả nước nói
chung và ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng đã thu được nhiều thành tựu: phí thu ngày càng tăng, chi
đúng đối tượng, luôn hoàn thành kế hoạch và thực hiện nghiêm theo quy định của Luật BHXH
năm 2014.
BHXH tỉnh Bắc Ninh thuộc hệ thống BHXH Việt Nam, được thành lập ngày
01/10/1997, trên cơ sở tách ra từ BHXH Hà Bắc cũ, có nhiệm vụ thực hiện chính sách BHXH.
Đến tháng 01/2003 đến nay thực hiện thêm chính sách Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh. Đối
tượng tham gia bảo hiểm ngày càng đông vì vậy vấn đề chi cũng gặp nhiều khó khăn, chẳng
hạn như: đối tượng quản lý và nguồn kinh phí chi phức tạp, phương tiện và chi phí chi chưa
đáp ứng đủ nên ảnh hưởng không nhỏ đến sự an toàn trong quá trình vận chuyển; đồng thời,
vẫn tồn tại tình trạng trục lợi BHXH của các cá nhân và tổ chức lợi dụng khe hở của Luật
1
BHXH, sự phức tạp của các thủ tục hành chính.... Điều đó đòi hỏi phải từng bước đưa công tác
thực hiện chi BHXH theo đúng quy định của pháp luật và yêu cầu của nhân dân.
Vì những lý do trên nên tác giả đã lựa chọn đề tài: “Chi BHXH theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học. Việc nghiên
cứu đề tài này có một ý nghĩa rất quan trọng, cần thiết đối với việc nâng cao hiệu quả công tác
chi BHXH nói riêng và đối với sự phát triển bền vững của chính sách ASXH nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nội dung pháp luật về BHXH nói chung là một đề tài phổ biến nhưng những nghiên
cứu chuyên sâu về pháp luật chi BHXH lại chưa có nhiều, đặc biệt là từ khi Luật BHXH năm
2014 có hiệu lực đến nay. Một số công trình khoa học nghiên cứu về chi BHXH có thể kể đến
như:
- Đề tài khoa học: "Hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi các chế độ BHXH ở
Việt Nam'" (2010) của Ths. Nguyễn Thị Chính làm chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu một cách có
hệ thống, toàn diện hệ thống tổ chức và hoạt động chi các chế độ BHXH ở nước ta. Đề tài đã
tổng hợp, phân tích có hệ thống về hệ thống tổ chức và hoạt động chi các chế độ BHXH ở Việt
Nam. Qua đó đã có những đánh giá xác đáng về hệ thống tổ chức chi các chế độ BHXH. Đồng
thời, nghiên cứu hoạt động chi các chế độ BHXH ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2003 đến 2008
về quy trình chi, phương thức chi, lệ phí chi, cơ sở vật chất phục vụ công tác chi... rút ra kết
quả đạt được và một số vấn đề còn tồn tại. Dựa trên cơ sở phân tích khoa học, đề tài đã đưa ra
các giải pháp cụ thể, có tính khả thi cao nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi
các chế độ BHXH ở Việt Nam, bao gồm: Hoàn thiện hệ thống tổ chức chi; Đổi mới công tác
lập kế hoạch chi; Hoàn thiện phương thức chi; Quản lý chặt chẽ nguồn kinh phí chi; Tăng
cường phương tiện phục vụ công tác chi; Kiện toàn công tác cán bộ; Tăng cường kiểm tra và
thanh tra trong các khâu chi; Quản lý chặt chẽ chi các chế độ BHXH ngắn hạn; Tăng lệ phí chi
và một số giải pháp khác.
-
Đề tài khoa học: “Đảm bảo tài chính cho BHXH Việt Nam’" (2015) của Ths.
Nguyễn Thị Hào làm Chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu đã đưa ra khái niệm đảm bảo tài chính cho
BHXH dưới góc độ kinh tế chính trị học và luận giải nội dung đảm bảo tài chính cho BHXH
bao gồm các vấn đề: đảm bảo thu; đảm bảo chi; đảm bảo duy trì sự cân đối và ốn định quỹ
2
BHXH trong dài hạn; đảm bảo sự công bằng đối với các đối tượng tham gia BHXH. Đề tài đã
đưa ra hệ thống các tiêu chí đánh giá đảm bảo tài chính cho BHXH bao gồm: mức độ bao phủ
của hệ thống; mức độ tuân thủ BHXH; mức độ thụ hưởng của NLĐ phân theo chế độ BHXH,
khu vực kinh tế và giới tính; mức độ bền vững về tài chính BHXH... Trên cơ sở những tiêu chí
đánh giá đảm bảo tài chính cho BHXH, đề tài đã làm rõ những kết quả và những hạn chế về
đảm bảo tài chính cho BHXH Việt Nam, nguyên nhân của những kết quả, hạn chế.
- Cùng với các bài viết nghiên cứu khoa học là các luận văn, luận án, các bài viết như:
luận văn về “Thực hiện pháp luật về BHXH qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm" (2015) của tác
giả Nguyễn Phương Thảo, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; luận văn “BHXH bắt buộc
trong Luật BHXH và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội"" (2014) của Nguyễn
Thị Thúy, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng chi BHXH
tại BHXH thành phố Thanh Hóa 2004 - 2008"" của tác giả Trần Thị Thu Huyền (2009),
Trường Đại học Kinh tế quốc dân. và nhiều công trình nghiên cứu khác.
Các công trình nghiên cứu trên phân tích về chính sách BHXH nói chung và công tác
chi BHXH nói riêng.. từ đó đưa ra những bất cập cần sửa đổi và kiến nghị. Vấn đề chi BHXH
tại các tỉnh cũng có công trình nghiên cứu nhưng đó là thời điểm cũ (2004-2008). Hiện nay,
Luật BHXH năm 2014 đã có hiệu lực, có nhiều quy định mới, song vấn đề về chi BHXH theo
quy định hiện hành chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu ở trên sẽ là những tài đó là liệu tham khảo quý báu cho học viên khi
nghiên cứu đề tài ”Chi BHXH theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp
luật về chi BHXH và từ thực tiễn thực hiện ở tỉnh Bắc Ninh, để từ đó, đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu, từ mục đích nghiên cứu ở trên, luận văn xác định các nhiệm
vụ nghiên cứu như sau:
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về chi BHXH;
3
+ Khái quát thực trạng pháp luật về chi BHXH của Việt Nam và đánh giá thực trạng
thực hiện pháp luật về chi BHXH từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân.
+ Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi BHXH từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận pháp luật về chi BHXH của
Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật về chi BHXH tại tỉnh Bắc Ninh, cùng với quan điểm
và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về chi BHXH nhằm nâng cao hiệu quả quản lý,
giám sát thực hiện chính sách chi BHXH trên địa bàn.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn ở quy định của pháp luật về chi
BHXH và thực tế áp dụng pháp luật về chi BHXH trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Các số liệu
minh họa thực tế được lấy từ thực tế áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh từ năm 2013 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở phương pháp luận, luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin, định hướng của Đảng, Nhà nước về pháp luật chi BHXH của Việt Nam và tại tỉnh
Bắc Ninh. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống có độ tin cậy như:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn.
- Phương pháp khảo sát, đánh giá tài liệu, quan sát, kiểm chứng để nghiên cứu, phân
tích thực trạng các vấn đề nghiên cứu, xác định rõ những nguyên nhân làm cơ sở đề xuất
những định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về chi BHXH từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh.
- Phương pháp thống kê, so sánh nhằm sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, so
sánh, tổng kết và rút ra các kết luận làm cơ sở đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn
thiện hệ thống pháp luật về chi BHXH từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài nghiên cứu của luận văn đã khái quát, phân tích những vấn đề lý luận và thực
tiễn quy định của pháp luật Việt Nam về chi BHXH; đồng thời tìm hiểu, phân tích thực trạng
4
áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi
BHXH. Vì vậy, kết quả nghiên cứu đề tài luận văn có thể làm tài liệu tham khảo liên quan đến
công tác chi BHXH cho những chủ thể tham gia BHXH tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và ở Việt
Nam nói chung; là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu pháp luật về
BHXH nói chung và chi BHXH nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kếu cấu của luận văn
gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về chi bảo hiểm xã hội
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật chi bảo hiểm xã hội tại tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi bảo hiểm xã hội tại tỉnh Bắc Ninh.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái quát chung về chi bảo hiểm xã hội
1.1.1.
Khái niệm và đặc điểm của chi bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm về chi bảo hiểm xã hội
Chi BHXH không ra đời cùng khái niệm BHXH bởi hình thức sơ khai nhất của BHXH
là những quỹ được hình thành do sự tự nguyện đóng góp của một cộng đồng người nhất định.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, BHXH ngày càng hướng tới nhiều đối tượng và các chế
độ trợ cấp khác nhau. Bởi vậy, mức độ chi BHXH cũng đặt ra yêu cầu cần được quản lý phù
hợp với nguồn quỹ BHXH. Theo đó, có thể hiểu chi BHXH ra đời là một tất yếu khách quan
xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của chi BHXH như sau:
Thứ nhất, Chi BHXH phải thực hiện trên nguyên tắc đóng, có hưởng, cộng đồng chia
sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của người đang làm việc trả cho người nghỉ hưởng chế độ
BHXH; đồng thời có thêm trách nhiệm đóng góp của người sử dụng lao động và sự bảo hộ của
Nhà nước.
Thứ hai, mức chi BHXH phải căn cứ trên mức đóng góp, thời gian đóng góp, không
được cao hơn mức lương tham gia BHXH và thấp nhất phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho
NLĐ. Việc quy định mức hưởng phải thấp hơn tiền lương là nguyên tắc bắt buộc, song không
được thấp hơn mức lương tối thiểu ở từng thời kỳ.
Thứ ba, quỹ BHXH dùng để chi BHXH phải tự chủ về tài chính. Đây là nguyên tắc
quan trọng trong chính sách chi BHXH bởi nếu không thực hiện nguyên tắc này, quỹ BHXH sẽ
chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
Thứ tư, việc chi BHXH phải kết hợp hài hòa giữa các lợi ích, các mục tiêu và phù hợp
với điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi một quốc gia.
Về mặt ngôn ngữ, “chi BHXH” là một động từ chỉ hành động trả tiền cho những đối
tượng đã tham gia đóng BHXH.
Về mặt kinh tế học, “chi BHXH” là một hoạt động hay một nghiệp vụ tài chính, là quá
trình phân phối, sử dụng quỹ BHXH để chi cho các chế độ BHXH nhằm ổn định cuộc sống
của người tham gia BHXH và đảm bảo các hoạt động của hệ thống BHXH. Đó là quá trình
phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào quỹ BHXH. Quá trình phân phối được
thực hiện theo từng mục đích sử dụng nhất định.
Chi BHXH được thực hiện bởi hai quá trình đó là phân phối và sử dụng quỹ BHXH,
cụ thể:
- Phân phối quỹ BHXH là quá trình phân bổ các nguồn tài chính từ quỹ BHXH để
hình thành các quỹ thành phần như quỹ ốm đau và thai sản, quỹ TNLĐ và BNN, quỹ hưu trí và
tử tuất hoặc phân bổ cho các mục đích sử dụng khác nhau như quỹ đầu tư phát triển, quỹ chi
cho các chế độ BHXH...
- Sử dụng quỹ BHXH là quá trình chi tiền của quỹ BHXH đến tay đối tượng được thụ
hưởng hoặc cho từng mục đích sử dụng cụ thể.
Phân phối và sử dụng quỹ BHXH là hai phạm trù khác nhau nhưng trong thực tế, hai
quá trình này thường đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp từ mục đích sử
dụng quỹ đòi hỏi phải tách riêng hai quá trình này theo thứ tự trước sau. Chẳng hạn, hoạt động
bảo tồn và tăng cường quỹ đòi hỏi phải kết thúc quá trình phân phối quỹ, quỹ phân phối đủ cho
mục đích cho trả các chế độ BHXH, số còn lại mới phân phối vào quỹ bảo tồn tăng trưởng.
Nghĩa là quỹ phải có số dư mới thực hiện đầu tư tăng trưởng.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm chi BHXH như sau: Chi BHXH được hiểu
là việc Nhà nước phân phối, sử dụng quỹ BHXH chi cho các đối tượng đóng BHXH theo mức
phí quy định hoặc cho phép khi các đối tượng đáp ứng được các yêu cầu mà Nhà nước quy
định.
1.11.2. Đặc điểm của chi bảo hiểm xã hội
Từ phân tích khái niệm ở trên, có thể đưa ra một số đặc điểm của chi BHXH như sau:
- Về chủ thể chi BHXH: Chủ thể của chi BHXH chính là Nhà nước, Nhà nước giao
phó cho cơ quan có thẩm quyền thay mình thực hiện chi BHXH cho các đối tượng tham gia
đóng BHXH khi đáp ứng đủ quy định theo quy định mà Nhà nước đặt ra; chủ thể đó có thể kể
đến là các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao phó, thay mặt Nhà nước để thực hiện chi
BHXH.
- Về đối tượng của chi BHXH: Có nhiều quan điểm cho rằng đối tượng của
BHXH là NLĐ hay chính là đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên, thực tế thì không phải như
vậy, với quan điểm BHXH chính là sự bù đắp hoặc thay thế một phần hoặc toàn bộ thu nhập
của NLĐ thì đối tượng của BHXH chính là thu nhập của NLĐ. BHXH không để “bảo hiểm”
cho bản thân NLĐ mà chính là “bảo hiểm” cho thu nhập của họ. NLĐ trong mối quan hệ này
không phải là đối tượng được “bảo hiểm” mà chính là đối tượng được tác động hay nói cách
khác là đối tượng được thụ hưởng BHXH.
- Việc chi BHXH bắt nguồn từ mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên
cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là NLĐ hoặc cả NLĐ và người sử dụng lao động. Bên
BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra
và bảo trợ. Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết
[1, tr. 19-20-21].
Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH để được hưởng chi BHXH cũng được xuất
phát trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ quản lý xã hội, cụ thể: Bên tham gia BHXH: có
thể bao gồm NLĐ, người sử dụng lao động và nhà nước và có thể chỉ có NLĐ và nhà nước.
Bên BHXH: thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước đứng ra thành lập và bảo trợ,
cơ quan này tổ chức hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật. Bên được bảo hiểm chính là
NLĐ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Việc chi BHXH chính là việc thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ
tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì quy cho cùng, mất khả
năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định
của BHXH. Còn mất việc làm hoặc mất khả năng lao động tạm thời, làm giảm hoặc mất thu
nhập, NLĐ cũng được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào điều kiện cần thiết,
thời điểm và thời hạn hưởng theo đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH nó
quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH [2, tr.18-19].
- Bên cạnh đó, việc chi BHXH chính là phân phối và phân phối lại thu nhập giữa NLĐ
tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có NLĐ mà có cả người sử dụng lao động. Các
bên tham gia phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này được dùng để trợ cấp cho một số NLĐ
tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy theo quy luật số đông bù số ít, BHXH
thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những
người có thu ngập cao và những người có thu nhập thấp... Thực hiện chức năng này có nghĩa
BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Thực hiện việc chi BHXH theo đúng quy định góp phần kích thích NLĐ hăng hái
tham gia lao động sản xuất từ đó nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động
xã hội. Khi khỏe mạnh thì hăng hái sản xuất, lao động thì được chủ sử dụng lao động trả tiền
công, khi ốm đau, thai sản, TNLĐ và khi về già thì được BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu
nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ luôn được đảm bảo giúp họ yên tâm lao động sản xuất.
Giúp tăng năng suất lao động xã hội. Đồng thời, gắn bó lợi ích giữa NLĐ và người sử dụng lao
động, giữa NLĐ và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, NLĐ vốn có những mâu thuẫn nội
tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động. Thông qua BHXH, cụ thể là chi
BHXH những mâu thuẫn đó được điều hòa và giải quyết. Đối với Nhà nước và xã hội thì chi
cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó
khăn về đời sống cho NLĐ và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính
trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
- Tính khách quan phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian: Trong quá
trình lao động sản xuất, NLĐ có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động
cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề
tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn được đặt ra để thay thế.. .Sản xuất càng phát triển thì
rủi ro đối với NLĐ càng nhiều và dẫn đến mối quan hệ chủ thợ ngày càng gay gắt. Để giải
quyết vấn đề này nhà nước đứng ra giải quyết thông qua chi BHXH. BHXH ra đời, trong đó có
hoạt động chi BHXH hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi
nước.
- Chi BHXH vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội, vừa có tính nhân đạo nhân văn:
Tính kinh tế thể hiện ở chỗ, muốn có nguồn chi BHXH thì phải có nguồn thu, phải có quỹ
BHXH được sự đóng góp của các bên tham gia. Mức đóng góp của các bên được tính rất cụ
thể dựa trên xác suất rủi ro, thiệt hại của tập hợp người tham gia BHXH. Đối với người sử
dụng lao động, việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH cho NLĐ mà họ sử dụng. Xét dưới góc
độ kinh tế họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập. Với nhà nước, BHXH làm giảm gánh nặng cho NSNN. Đồng thời quỹ BHXH
nhàn dỗi còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Và tính kinh tế còn được thể
hiện đối với NLĐ tham gia BHXH là có tham gia đóng góp mới được hưởng trợ cấp. Đồng
thời về cơ bản đóng nhiều thì hưởng nhiều, đóng ít thì hưởng ít. Tính xã hội thể hiển ở chỗ:
nhìn chung mọi NLĐ trong xã hội chỉ thuộc diện hưởng chi BHXH đều là những chủ thể có
quyền tham gia BHXH và BHXH có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi NLĐ (tuy nhiên trong thời
kì đầu chỉ áp dụng đối với công nhân viên chức hưởng lương). BHXH bảo hiểm cho mọi đối
tượng lao động trong tất cả các ngành nghề, các vùng miền, thành phần kinh tế, địa phương...
Điều đó thể hiện tính xã hội rất rộng lớn.
- Mục tiêu của BHXH nói chung và chi BHXH nói riêng chính là nhằm thỏa mãn nhu
cầu thiết yếu của NLĐ và gia đình họ trong trường hợp NLĐ bị giảm hoặc mất thu nhập, mất
việc làm. Mục đích này được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hóa như sau: Đền bù cho NLĐ
những khoản thu nhập bị mất đi để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. Chăm sóc sức
khỏe chống lại bệnh tật. Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư, nhu cầu đặc
biệt của người già và trẻ em.
Qua đây có thể thấy, BHXH, trong đó cho chi BHXH góp phần thực hiện mục tiêu
đảm bảo an toàn kinh tế cho NLĐ và gia đình họ.
1.1.2. Các hình thức chi bảo hiểm xã hội
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và
chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với NLĐ. Nói cách khác,
đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức
đóng cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các
văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ. Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các
chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện
chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề
mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ
hệ thống các chế độ BHXH.
Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại
Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất
nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp TNLĐ và BNN; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp sinh đẻ; Trợ cấp
khi tàn phế; Trợ cấp tử tuất [ 13, tr 18-19-20].
Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của từng nước mà hệ thống này có thể thực hiện
được toàn bộ hoặc cũng có thể thực hiện được một số chế độ nào đó. Nhưng một quốc gia
được gọi là có hệ thống chế độ BHXH ít nhất thực hiện được 3 chế độ trong đó ít nhất phải có
một trong năm chế độ sau: Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp TNLĐ và BNN; Trợ
cấp cho người tàn phế; Trợ cấp tử tuất.
Có nhiều yếu tố khoa học tác động đến điều kiện, thời gian và mức hưởng trợ cấp
trong từng chế độ, cũng như khả năng áp dụng bao nhiêu chế độ trong một hệ thống: như tiền
lương, thu nhập của người lao đông, hệ thống tài chính quốc gia... Thời gian hưởng và mức
hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí
BHXH của NLĐ trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời khả năng thanh toán
còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của quỹ tài chính BHXH.
Để hình thành hệ thống chế độ này cần phải dựa trên những cơ sở nhất định như: cơ sở
sinh học, cơ sở môi trường và điều kiện lao động, cơ sở kinh tế xã hội, luật pháp của từng
nước. Sau đây là đặc điểm hệ thống các chế độ:
- Chế độ chăm sóc y tế:
NLĐ là người tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần cho xã hội bởi vậy muốn xã hội
phát triển ổn định, bền vững thì trước hết quan tâm đến sức khỏe cho họ kể cả khi bình thường
hay khi ốm đau, tai nạn. Bởi vậy, tổ chức lao động quốc tế coi đây là chế độ đầu tiên trong chín
chế độ BHXH. Mục đích là để bảo vệ và phục hồi cải thiện sức khỏe cho NLĐ, từ đó tái sản
xuất sức lao động cho họ giúp họ làm việc một cách bình thường. Đồng thời còn giúp bản thân
gia đình họ ứng phó với các nhu cầu phát sinh cá nhân để đảm bảo cuộc sống.
Chế độ này có đối tượng rất rộng bởi vì không chỉ có NLĐ tham gia BHXH mà thậm
chí cả vợ hoặc chồng con cái họ bởi lẽ nếu những người này được chăm sóc y tế có cuốc sống
khỏe mạnh bình thường thì bản thân NLĐ cũng yên tâm, phấn khởi tham gia sản xuất. Góp
phần nâng cao năng suất lao động cá nhân.
Đây là chế độ đặc thù trong 9 chế độ có đối tượng rộng nhưng BHXH sẽ tiến hành chi
trợ cấp theo tất cả những chi phí phát sinh trong suốt thời gian điều trị chăm sóc những người
được bảo vệ. Tuy nhiên để tránh chuộc lợi BHXH người ta quy định người tham gia BHXH
phải có ít thất một thời gian nhất định có đóng BHXH. Đây là chế độ BHXH ngắn hạn vừa
mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Những nước thiết lập quỹ BHYT
thì mức phí phải nộp phụ thuộc chủ yếu ba yếu tố: số người tham gia BHXH; số người được
chăm sóc y tế hàng năm; chi phí BQ một người được chăm sóc y tế hàng năm.
- Chế độ trợ cấp ốm đau:
Ồm đau là loại rủi ro rất phổ biến trong cuộc sống của mỗi con người và hầu như ai
cũng gặp phải. Khi bị ốm đau bản thân người ốm và gia đình gánh chịu những chi phí phát
sinh và nếu tham gia BHXH thì chế độ chăm sóc y tế gánh vác. Nếu ốm đau còn điều trị dài
ngày thì nghỉ ốm sẽ mất thu nhập và thu nhập bị gián đoạn, khoản chế độ này sẽ được bù đắp
hoặc thay thế bởi chế độ ốm đau. Bởi vậy mục đích của chế độ này là nhằm đảm bảo tính liên
tục về thu nhập cho NLĐ và gia đình họ, giúp họ ổn định cuộc sống. Việc quy định mức trợ
cấp và thời gian trợ cấp tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước.
Chế độ này cũng là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính
không hoàn trả.
- Chế độ trợ cấp thất nghiệp:
Thất nghiệp là loại rủi ro nghề nghiệp mà trong cơ chế thị trường NLĐ rất hay gặp
phải đây là loại rủi ro có tác động rất lớn đến tất cả vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi
nước... thất nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau và hậu quả vô cùng nặng nề bởi vậy ngày
nay tất cả các nước, tất cả các nhà kinh tế, nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng thất nghiệp
là vấn đề nan giải khó giải quyết. Thất nghiệp luôn đi đôi với lạm phát. Mục đích của chế độ
này góp phần ổn định thu nhập và tâm lý cho NLĐ cũng như gia đình họ giúp NLĐ bị thất
nghiệp sớm có cơ hội và điều kiện quay trở lại thị trường lao động. Góp phần ổn định kinh tế
xã hội của mỗi nước bởi vì thất nghiệp ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả những lĩnh vực này... [ 14,
tr 32-33].
Nếu quan sát thực trạng triển khai Bảo hiểm thất nghiệp ở tất cả các nước trên thế giới
thì mức trợ cấp thất nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố sau: quỹ BHXH, tình hình
biến động của thị trường lao động; chế độ tiền lương của quốc gia. Điều kiện kinh tế xã hội
của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Mức trợ cấp thất nghiệp luôn luôn nhỏ hơn tiền lương,
tiền công trước khi bị thất nghiệp nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho NLĐ và gia
đình họ trong thời gian NLĐ bị thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp ngắn hay dài
phụ thuộc vào thời gian tham gia BHXH của NLĐ trước đó và tổ chức lao động khuyến cáo
thời gian trợ cấp có thể 13-26 tuần trong 01 năm. Chế độ trợ cấp thất nghiệp cũng được coi là
chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Hiện nay, Bảo
hiểm thất nghiệp được triển khai dưới hai dạng chủ yếu đó là: triển khai độc lập với BHXH
hoặc coi đó là một chế độ của BHXH.
- Chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN:
Đây là một trong những chế độ được triển khai sớm nhất trên thế giới cũng như ở Việt
Nam bởi vì nó đáp ứng nhu cầu thực tế trước mắt của mọi NLĐ, bởi lẽ đây là loại rủi ro có thể
phát sinh bất cứ lúc nào, ở đâu. Hiện nay, trên thế giới có 178 nước triển khai chế độ này. Mục
đích là góp phần đảm bảo thu nhập cho NLĐ, gia đình họ khi không may gặp TNLĐ., phục hồi
khả năng lao động cho NLĐ từ đó giúp họ sớm quay lại thị trường lao động, nâng cao tinh
thần trách nhiệm của cả NLĐ và người sử dụng lao động, trách nhiệm này thực hiện cả khi
NLĐ còn khỏe mạnh lẫn cả khi bị tan nạn lao động và BNN. Đây là chế độ vừa mang tính
ngắn hạn, vừa mang tính dài hạn nên việc quản lý rất khó khăn nó liên quan đến ngành nghề,
giới tính, thời điểm xảy ra tai nạn, nơi sảy ra tai nạn. Bởi vậy khi luật hóa chế độ này phải hết
sức cụ thể và sát với thực tiễn [ 16, tr 31-32].
- Trợ cấp hưu trí:
Trong hệ thống chín chế độ thì chế độ trợ cấp hưu trí là một chế độ quan trọng nhất. Vì
chế độ này liên quan đến tất cả NLĐ trong xã hội từ khi bước vào độ tuổi lao động đến khi
người ta chết. Đặc biệt là mức đóng và mức hưởng của chế độ này luôn luôn chiếm tỷ trọng
cao nhất trong tổng mức phí và trong tổng quỹ BHXH. Ngoài ra hoạt động thu, chi của chế độ
này cũng có liên quan đến tất cả các cơ quan, các hoạt động BHXH. Chính vì vậy, chế độ hưu
trí được đa số các nước áp dụng và cũng là một chế độ được thực hiện sớm nhất.
Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của NLĐ sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối
với xã hội. Thể hiện sự quan tâm của chính phủ, người sử dụng lao động không chỉ khi họ còn
trẻ khỏe mà cả khi họ đã già yếu không thể lao động được nữa. Sự quan tâm này không chỉ
thuần túy là nghĩa vụ và trách nhiệm mà còn là đạo lý của mỗi dân tộc, mỗi một chế độ chính
trị xã hội. Ngoài ra, giúp cho NLĐ tiết kiệm cho bản thân ngay từ trong quá trình lao động để
đảm bảo ổn định cuộc sống khi về già, từ đó giảm bớt gánh nặng cho gia đình và người thân và
cho xã hội.
Đối tượng, mức trợ cấp và khoảng thời gian trợ cấp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã
hội của từng nước.
Chế độ hưu trí là chế độ trợ cấp dài hạn được thực hiện ngoài quá trình lao động. Số
tiền trợ cấp thông thường được cơ quan BHXH chi định kỳ theo tháng cho người về hưu. Chế
độ hưu trí là chế độ mang tính chất hoàn trả và ít nhiều có sự tách biệt quá trình đóng và hưởng
vì NLĐ tham gia đóng phí bảo hiểm trong suốt quá trình lao động và được hưởng trợ cấp khi
về hưu. Điều này thể hiện tính kế thừa liên tục giữa các thế hệ NLĐ để hình thành quỹ hưu trí.
Vì vậy, việc xác định mức đóng, mức hưởng rất phức tạp.
- Trợ cấp gia đình:
Chế độ này nhằm hỗ trợ cho NLĐ đông con có điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để
chăm sóc và nuôi dạy con cái. Khuyến khích NLĐ tham gia BHXH và tạo nguồn lao động
tương lai. Góp phần tạo sự bình đẳng trong xã hội và từ đó tạo sự ASXH, tính đến hết năm
2006 trên thế giới có trên 86 nước thực hiện trợ cấp gia đình.
Đây là chế độ liên quan đến việc làm vì vậy đối tượng được trợ cấp chỉ bao gồm những
người đang lao động và gia đình họ. Trong đó, chỉ có những lao động đông con mới được
hưởng trợ cấp và trách nhiệm chủ yếu thuộc về người sử dụng lao động.
Những người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với NLĐ đông con gặp hoàn
cảnh khó khăn trong cuộc sống bằng cách bổ xung các quyền lợi cho người được trợ cấp. Cụ
thể là bổ sung vào tiền lương, tiền công thậm trí là bằng hiện vật thiết yếu.
Tuy nhiên phần trợ cấp này là bao nhiêu và hình thức chi như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào
điều kiện cụ thể của từng nước.
- Trợ cấp thai sản: So với nam giới thì lao động nữ mang một số đặc điểm là thể chất
tình trạng sức khỏe và tâm sinh lý có những đặc điểm khác hẳn với nam giới và thông thường
là kém hơn nam giới. Bởi vậy, nó liên quan đến công việc mà nữ giới đảm nhiệm. Những công
việc này ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng làm vợ, làm mẹ của lao động nữ. Nên nó chịu ảnh
hưởng trực tiếp đến chính sách BHXH. Vậy khi thiết kế chính sách BHXH cần phải chú ý đến
chính sách sử dụng lao động nữ và chính sách đãi ngộ đối với họ. Trong hệ thống chính sách
BHXH, lao động nữ không chỉ là đối tượng tham gia BHXH được hưởng trợ cấp mà họ còn là
đối tượng nghiêm cứu để hoàn thành toàn bộ hệ thống BHXH nói chung. Thực hiện tốt chế độ
trợ cấp thai sản sẽ bù đắp thay thế được nguồn thu nhập cho lao động nữ khi họ sinh đẻ và nuôi
con nhỏ. Tái sản xuất cho lao động nữ và những thế hệ lao động kế tiếp, góp phần thực hiện
quyền bình đẳng nam nữ và quyền phụ nữ nói chung.
- Trợ cấp tàn tật: Thực hiện chế độ này nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ
và gia đình họ khi NLĐ không may bị tàn tật, từ đó góp phần đảm bảo ASXH, khuyến khích
NLĐ hăng hái tham gia BHXH. Đây cũng là một chế độ thể hiện tính nhân đạo nhất. Chế độ
này vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tuy nhiên, đây cũng là chế độ rất
dễ bị lạm dụng trong khâu giám định y khoa.
- Trợ cấp tử tuất: Đây là một chế độ bảo hiểm nhân đạo nhất trong tổng số 09 chế độ
BHXH cho nên hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện, thực hiện chế độ này nhằm
góp phần khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống cho gia đình NLĐ không may bị chết.
Khuyến khích những người còn sống tham gia BHXH và góp phần đảm bảo ASXH cho đất
nước. Chế độ này thường được các nước chia làm 02 phần: Một là trợ cấp mai táng, chôn cất
cho NLĐ bị chết. Hai là trợ cấp dài hạn cho vợ hoặc chồng, bố mẹ hai bên theo luật quy định
nhưng mức trợ cấp tối đa cho những người này không vượt quá tiền lương đang làm việc của
NLĐ khi còn sống.
Ở Việt Nam, theo quy định của Luật BHXH năm 2014, BHXH gồm có BXXH bắt
buộc và BHXH tự nguyện, cụ thể: BHXH bắt buộc có các chế độ như ốm đau; thai sản; TNLĐ,
BNN; hưu trí; tử tuất. BHXH tự nguyện gồm có: Hưu trí; Tử tuất (Điều 4 Luật BHXH năm
2014).
1.2. Lý luận pháp luật về chi bảo hiểm xã hội
1.2.1.
Khái niệm và đặc điểm, vai trò của pháp luật về chi bảo hiểm xã hội
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật về chi bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước. Pháp luật chi BHXH
là bộ phận cấu thành của pháp luật BHXH, theo đó: Pháp luật về chi bảo hiểm xã hội được
hiểu là tổng hợp các quy pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực
hiện hoạt động chi bảo hiểm xã hội và quản lý chi bảo hiểm xã hội.
Pháp luật chi BHXH quy định về đối tượng được hưởng BHXH - những chủ thể tham
gia BHXH bắt buộc hoặc được quyền tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện theo từng quy
định của mỗi quốc gia; quy định tỷ lệ hưởng BHXH, căn cứ hưởng BHXH, phương thức
hưởng BHXH, trách nhiệm tổ chức thực hiện chi BHXH cũng như quản lý quỹ BHXH.
1.2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về chi BHXH
Từ những tìm hiểu về khái niệm của pháp luật về chi BHXH chúng ta thấy pháp luật
về chi BHXH có những đặc điểm sau [46]:
Một là, Pháp luật chi BHXH quy định đối tượng hưởng BHXH chính là các đối tượng
tham gia BHXH. Theo đó, các đối tượng được hưởng BHXH là cán bộ, công chức, công nhân,
viên chức và người lao động; quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang
hưởng lương hưu hàng tháng; Cán bộ xã, phường, thị trấn.
Hai là, pháp luật về chi BHXH rất đặc biệt ở chỗ là quy định về những ưu tiên nhất
định về lợi ích. Pháp luật về chi BHXH đặt ra những điều kiện nhất định để chủ thể tham gia
BHXH được hưởng những lợi ích nhất định, tạo sự kích thích cho chủ thể tham gia BHXH tập
trung vào những điều kiện đó để đạt được những lợi ích đó.
Ba là, mục đích của pháp luật về chi BHXH là thu hút tham gia đóng BHXH của
người sử dụng lao động, người lao động.... mang lại nguồn ngân sách cho nhà nước và “chia
sẻ” rủi ro giữa những người tham gia BHXH. Bởi chi BHXH là khâu hết sức quan trọng trong
quy trình thực hiện chế độ, chính sách về BHXH, đặc biệt quan trọng, kích thích các đối tượng
tham gia đóng BHXH, tạo nguồn quỹ BHXH. Bên cạnh đó, việc chi BHXH cũng dễ dẫn đến
chi sai mục đích từ cán bộ tại cơ quan bảo hiểm nên việc điều chỉnh chi BHXH thông qua hệ
thống pháp luật để thu hút các đối tượng tham gia đóng BHXH là việc hết sức quan trọng.
1.2.1.3. Vai trò của pháp luật về chi bảo hiểm xã hội
Pháp luật về chi BHXH có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia, vai trò đó được thể hiện qua các mặt sau:
- Đối với NLĐ: Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá
trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì những “rủi ro” như ốm đau, TNLĐ - BNN, thai sản, mất
việc làm... lại diễn ra một cách thường xuyên và ngày càng phổ biến hơn và phức tạp hơn. Khi
những rủi ro này xảy ra sẽ gây ra những khó khăn cho NLĐ cả về vật chất lẫn tinh thần, ảnh
hưởng không tốt cho cả xã hội. Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của
Nhà nước, pháp luật chi BHXH sẽ góp phần giúp cho cá nhân NLĐ nắm bắt, vận dụng, áp
dụng các quy định của chi BHXH nhằm tránh gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ
những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi. giúp họ ổn định cuộc sống, yên
tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc tăng
năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho doanh nghiệp nói riêng và cho toàn xã
hội nói chung [ 18, tr 7-8-9-10].
- Đối với người sử dụng lao động: Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của
con người và sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá
trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết vận
dụng sức lao động của công nhân để tạo ra sản phẩm cho xã hội đó chính là người sử dụng lao
động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ sử dụng lao động
phải tạo được mối quan hệ tốt với NLĐ, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm
của người sử dụng lao động thật tốt để NLĐ yên tâm tham gia lao động sản xuất và có niềm tin
vào cuộc sống, từ đó lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho
quá trình sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động đạt kết quả cao. Muốn vậy, chủ sử
dụng lao động phải thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về BHXH nói chung và
chi BHXH nói riêng và tham gia đóng BHXH cho NLĐ của mình để BHXH đảm bảo những
khoản chi cần thiết, kịp thời đến NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro bất chắc như ốm đau, thai
sản, TNLĐ-BNN... Việc tham gia đóng BHXH cho NLĐ của chủ sử dụng lao động dựa trên
nguyên tắc, quy định của pháp luật về vấn đề này là góp phần vào quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất của doanh
nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho NLĐ và góp phần vào phát triển kinh tế.
- Đối với nền kinh tế: Góp phần gắn bó giữa giới chủ và giới thợ từ đó làm cho thị
trường lao động phát triển lành mạnh, bền vững. Đặc biệt là mâu thuẫn vốn có của giới chủ và
giới thợ về cơ bản được giải quyết và đây là tiền đề rất quan trọng giúp cho NLĐ nâng cao
năng suất lao động, phát huy sáng tạo, góp phần làm cho sản xuất ngày càng phát triển. Nhờ có
chính sách, quy định của pháp luật về chi BHXH mà quỹ BHXH được hình thành và tồn tích
lại theo thời gian và bắt đầu những năm 60 của thế kỷ 20 quỹ BHXH ở các nước, đặc biệt là
các nước phát triển đã trở thành một khâu tài chính trung gian vô cùng quan trọng góp phần
đầu tư, phát triển, tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
- Đối với xã hội: Hoạt động chi BHXH là một hoạt động dịch vụ, cơ quan BHXH là
một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm” cho NLĐ, một loại dịch vụ mà bất
kỳ ai cũng cần đến. Tuy nhiên, việc chi BHXH phải thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp
luật. Với tư cách là một trong những chính sách xã hội của Nhà nước, pháp luật chi BHXH sẽ
là cơ sở cung cấp bảo hiểm cho NLĐ, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc”, “rủi
ro” xảy ra đối với NLĐ góp phần phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao
động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng
thời góp phần tích cực vào nâng cao năng suất lao động xã hội. Với tư cách là quỹ tiền tệ tập
trung, nhằm tác động mạnh đến hệ thống tài chính NSNN, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân
hàng.
1.2.2.
Những nội dung cơ bản của pháp luật chi bảo hiểm xã hội
Nhằm điều chỉnh, mang lại hiệu quả trong quá trình quản lý, áp dụng công tác BHXH
nói chung và chi BHXH nói riêng, pháp luật về chi BHXH quy định nhiều lĩnh vực khác nhau
như nguồn chi BHXH, nguyên tắc chi BHXH, đối tượng chi BHXH, phương thức chi BHXH,
nội dung chi BHXH, công tác thanh tra, kiểm tra chi BHXH; cụ thể:
1.2.2.1. Quy định nguồn chi bảo hiểm xã hội
Nguồn chi BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang
tính kinh tế, vừa mang tính xã hội và là cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn hệ thống
BHXH tồn tại và phát triển. Nguồn chi BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải
quyết những sự kiện, những “rủi ro xã hội” của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít
nhất, giúp cho việc dàn trải “rủi ro” được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian,
đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi phí cho
cả NSNN và ngân sách gia đình.
Nguồn chi BHXH được hình thành bởi nhiều nguồn như đóng góp của người sử dụng
lao động, NLĐ và Nhà nước, phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ
chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời, phần nộp phật của những cá nhân, tổ
chức kinh tế vi phạm pháp luật về BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác.
Pháp luật BHXH Việt Nam quy định việc hình thành quỹ BHXH (bắt buộc và tự
nguyện) như sau:
Nguồn hình thành nguồn chi BHXH là do người sử dụng lao động đóng; NLĐ đóng;
tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ; hỗ trợ của nhà nước và các thu nhập hợp pháp khác.
Các quỹ thành phần của nguồn chi BHXH gồm quỹ ốm đau và thai sản; quỹ TNLĐ,
BNN; quỹ hưu trí và tử tuất.
Mức đóng góp BHXH được cấu thành từ 3 bộ phận và được xác định theo công thức: P
= f1 + f2 + f3. Trong đó:
P - Mức đóng góp BHXH
f1- Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH
f2- Đóng góp dự phòng
f3- Đóng góp quản lý
Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các
chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn (thường là 1
năm) như: ốm đau, thai sản, TNLĐ nhẹ... Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh
chi trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí mất người nuôi dưỡng, TNLĐ
hoặc BNN nặng... quá trình đóng góp và quá trình hưởng tương đối độc lập với nhau và diễn ra
trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự công băng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải
được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài đóng góp thuần tuý phải có đóng góp dự
phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Như vậy, để xác định được mức đóng góp và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều
yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo tuổi, giới
tính, ngành nghề... ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ BQ của quốc gia; xác
suất ốm đau, tai nạn, tử vong của NLĐ...
I.2.2.2. Nguyên tắc chi bảo hiểm xã hội
Chi BHXH là quá trình phân phối sử dụng các nguồn tài chính đã được tập chung vào
quỹ BHXH nhằm mục đích chi cho các chế độ BHXH. NLĐ tham gia BHXH được hưởng
nhằm mục đích ổn định cuộc sống của họ và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro hoặc sự kiện
bảo hiểm.. .Việc chi các chế độ BHXH được xây dựng riêng cho từng chế độ và mỗi quốc gia
có những cơ sở khác nhau nhưng cơ bản đều theo một khung nhất định. Các hoạt động chi các
chế độ BHXH họ đều dựa vào luật, các văn bản, các quy định của nhà nước, các văn bản do cơ
quan BHXH trung ương hướng dẫn. Đồng thời căn cứ vào đặc điểm kinh tế, nguồn chi và tiền
lương đóng BHXH, điều kiện làm việc, mức độ rủi ro. để xây dựng một hệ thống pháp luật
phù hợp với từng quốc gia.
BHXH là trụ cột chính trong hệ thống ASXH của mỗi quốc gia, là chỗ dựa cho NLĐ
lúc gặp khó khăn. Vậy để thực hiện chi BHXH một cách có hiệu quả cần đạt được mục tiêu chi
đúng, chi đủ, chi an toàn và chi kịp thời đến tận tay đối tượng hưởng. Cần có hoạt động chi
một cách có tổ chức theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, chi BHXH phải theo nguyên tắc
sau:
+ Chi đúng là chi đúng đối tượng, đúng chế độ, đúng thời hạn. đảm bảo lợi ích cho
NLĐ.
+ Chi đủ: là chi đủ khoản tiền trợ cấp mà đối tượng đáng được hưởng.
+ Chi an toàn: là đảm bảo khoản tiền từ cơ quan BHXH đến tay NLĐ không bị thất
thoát.
+ Chi kịp thời: là chi đúng thời điểm NLĐ cần sự trợ giúp của BHXH. Nó giúp NLĐ
yên tâm hơn vào cơ quan BHXH nói riêng và pháp luật của nhà nước nói chung.
I.2.2.3. Đối tượng chi bảo hiểm xã hội
Đối tượng chi BHXH gồm có nhiều đối tượng khác nhau, những đối tượng tham gia
bảo hiểm, khi đủ điều kiện nhất định họ cũng chính là các đối tượng của chi BHXH. Hay nói
cách khác, NLĐ trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối tượng được bảo
hiểm và họ cũng là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH (chiếm phần lớn trong các trường
hợp phát sinh trách nhiệm BHXH). Cụ thể:
* Đối với BHXH bắt buộc (Khoản 1 Điều 2 Luật BHXH năm 2014):
NLĐ là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm:
- Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn,
HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12
tháng, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa đơn vị với người đại diện theo pháp luật của người dưới
15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
- Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng (thực hiện
từ 01/01/2018);
- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và
viên chức;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức
cơ yếu (trường hợp BHXH Bộ Quốc phòng, BHXH Công an nhân dân bàn giao cho BHXH
các tỉnh);
- Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền
lương;
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia BHXH bắt
buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất (thực hiện từ 01/01/2016);
- Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật NLĐ Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài quy định tại Khoản 4 Điều 123 Luật BHXH.
- NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc
chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp
(thực hiện từ 01/01/2018).
- Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ quan nhà nước, đơn
vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ
chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã,
hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo
HĐLĐ.
* Đối với BHXH tự nguyện thì người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam
từ đủ 15 tuổi trở lên, không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc (Khoản 2 Điều 2 Luật
BHXH năm 2014).
I.2.2.4. Nội dung chi BHXH
Công tác chi các chế độ BHXH được tổ chức theo ngành dọc, từ Trung ương đến địa
phương. Tránh tình trạng chống chéo, đảm bảo hiệu quả cao trong công tác chi.
Cơ quan BHXH Trung ương chịu trách nhiệm quản lý chung, cấp và ứng tiền cho đơn
vị cấp dưới để chi cho các đối tượng hưởng. Ban hành các Luật, các thông tư, quyết định giúp
cho công tác chi được thuận tiện hơn.
Cơ quan BHXH tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trong việc chi, quyết toán các chế độ
BHXH trên địa bàn tỉnh quản lý. Trực tiếp chi và quyết toán các chế độ ốm đau, thai sản, chi
các chế độ BHXH nhận trợ cấp một lần cho NLĐ do BHXH tỉnh quản lý thu BHXH.