Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.09 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN SƠN

TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ
ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội – 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN SƠN

TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ
ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐINH THỊ MAI

Hà Nội – 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và
có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên
cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI
PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI.............................................7
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai..................................................................................................7
1.2. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai với một số tội
phạm có yếu tố chức vụ, quyền hạn................................................................ 15
1.3. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai từ năm 1945 đến khi Bộ luật hình sự năm
2015 có hiệu lực pháp luật.............................................................................. 21
1.4. Khái quát lý luận định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai….................................................................................... 29
Tiểu kết Chương 1.......................................................................................... 39
Chương 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI
TỈNH BẮC NINH.................................................................................................. 40
2.1. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh........................................................ 40
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội về tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh........................................................ 51
Tiểu kết Chương 2.......................................................................................... 58

Chương 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI
DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG TỘI VI PHẠM CÁC
QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI TỈNH BẮC NINH..........................60
3.1. Yêu cầu của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai............................................................. 60
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng
đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh............63
Tiểu kết Chương 3.......................................................................................... 77
KẾT LUẬN............................................................................................................ 79


TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CTTP

Cấu thành tội phạm

ĐTD


Định tội danh

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

QĐHP

Quyết định hình phạt


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê tộivi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đưa ra
xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019.
Bảng 2.2. Thống kê tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử

phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019.
Bảng 2.3. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP cơ bản tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.4. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP tăng nặng tội
vi phạm các quy định về quản lý đất đai từnăm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.5. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử phạm nhiều tội trong đó
có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.6. Thống kênhững hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm
vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.
Bảng 2.7. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác
và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Cụ thể hóa Hiến pháp,
Luật Đất đai năm 2013 đã có các quy định về quyền của Nhà nước với tư cách là đại
diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai và thống nhất quản lý đất.Nhà nước thực
hiện quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định hạn mức giao đất
nông nghiệp, hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở và hạn
mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp; quy định thời hạn sử dụng; trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất, thông qua các hình thức giao đất, cho
thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất; quyết định thu hồi đất để sử dụng vào các
mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng. Nhà nước có trách nhiệm quản lý thống nhất đất đai theo pháp luật. Để thực
hiện trách nhiệm này, Nhà nước phân công, phân cấp trong quản lý đất đai. Theo đó,
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước; Bộ Tài

nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản
lý nhà nước về đất đai; Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước
về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền. Có thể nói, với những chính sách và quy
định của pháp luật về chế độ quản lý đất đai cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này
đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất nước ta nói chung và trong phạm vi
tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Với việc BLHS 2015 được ban hành mới, có hiệu lực toàn bộ kể từ ngày
01/01/2018, đã đáp ứng cơ bản với tình hình thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai, đặc biệt là việc BLHS năm 2015 đã cụ thể
hóa những tình tiết có tính định tịnh như “đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn”
và “gây hậu quả nghiêm trọng”, năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công
chức của tỉnh Bắc Ninh đã được nâng cao hơn...góp phần nâng cao hiệu quả định tội
danh và quyết định hình phạt tội này trong thực tiễn. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết
các tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn cả nước và trong địa

1


bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy những vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực này có xu
hướng phức tạp, có vụ án gây thiệt hại lớn cho kinh tế, trật tự quản lý của Nhà nước
như vụ án “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại Đà Nẵng năm 2019,
với các bị cáo đa phần là những người đứng đầu, giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt của
thành phố Ðà Nẵng, gây hậu quả thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho Nhà nước, gây
thất thoát ngân sách hơn 22.000 tỷ đồng, hay vụ án với 29 bị can bị truy tố về tội
“Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh.Theo thống kế của TAND tỉnh Bắc Ninh cho thấy trong khoảng thời gian từ
năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh xảy ra không nhiều vụ án về tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai nhưng có những vụ án Tòa án phải trả hồ sơ điều tra
02 lần mới giải quyết dứt điểm vụ án; năng lực, trình độ của cán bộ công chức cơ
quan tư pháp trong tỉnh mặc dù đã cải thiện hơn nhưng vẫn còn không đồng đều,

còn hạn chế về nhận thức, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ còn hạn chế, trong khi đó
về mặt lý luận và quy định pháp lý về tội này vẫn còn những điểm chưa phù hợp.
Những điều này cho thấy sự khó khăn, phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai trong bối cảnh hiện nay. Do vây, việc nghiên cứu tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan
trọng, góp phần nâng cao chất lượng công cuộc đấu tranh phòng chống tội vi phạm
các quy định về quản lý đất đai ở tỉnh Bắc Ninh.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm để tài nghiên cứu cho
luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên có thể kể đến như:
(i) Tài liệu là giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:
Trường đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ
biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2017 (Phần các tội phạm) - Quyển 2, Nxb Tư pháp, Hà Nội; TS Nguyễn Đức Mai
(2018), Bình luận khoa học – Bộ luật hình sự (hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm

2


2017, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí; Ths. Đinh
Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, tập VI –
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn
Ngọc Anh, Đỗ Khắc Hưởng (2010), Bình luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.
Nhận xét: Các công trình nghiên cứu trên có đề cập đến tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai. Tuy nhiên, các công trình trên đều nghiên cứu tội danh này

cùng với các tội danh khác của BLHS, chưa phân tích làm rõ một cách sâu sắc,
những tồn tại, hạn chế trong quy định tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai,
cũng như thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
(ii) Luận văn, luận án tiến sĩ luật học:
- Luận văn thạc sĩ: Lương Duy Hinh (2013), Các tội phạm trong lĩnh vực
quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội), Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nhận xét: Đây là luận văn có đề cập trực tiếp đến tội vi phạm các quy định
về quản lý đất đai. Tuy nhiên luận văn nghiên cứu đề tài cùng với tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh xử lý trên địa
bàn thành phố Hà Nội và trong phạm vi từ năm 2008 đến 2012, khi mà BLHS năm
2015 chưa được ban hành
- Luận án tiến sĩ: Nguyễn Chí Công (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nhận xét: Luận án có đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
Tuy nhiên luận án tập trung nghiên cứu những nội dung xung quanh TNHS đối với
tội xâm phạm trật tư quản lý kinh tế, trong đó có tội vi phạm các quy định về quản
lý đất đai, mà chưa đi sâu vào phân tích một khái niệm và các dấu hiệu pháp lý cụ
thể của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS năm 2015.
Ngoài ra còn có một số công trình khác như: Chuyên đề “Hoàn thiện các quy
định của luật hình sự về các tội phạm kinh tế trong điều kiện hiện nay”, của tác giả
Trần Văn Độ, trong Sách tham khảo dành cho bậc sau đại học của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 1997; Sách “Pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb. Tư pháp, năm

3


2006; Bài viết “Cần sửa đổi, bổ sung các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cho
phù hợp với thực tiễn xét xử, Tạp chí TAND, số 02/2009, của tác giả Đinh Văn Quế;

Nguyễn Ngọc Chí (2008), Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trước
yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí khoa học (Chuyên san kinh tế - luật).
Nhận xét chung:Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai ở khía cạnh, góc độ khác nhau, có nhiều đề tài
được nghiên cứu trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Tính đến nay,
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai theo pháp luật hình sự Việt Nam, một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn
một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong phạm vi từ năm 2015 đến năm 2019.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận và
pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng quy định về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019,
luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tội
vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS Việt Nam và đề xuất một số
giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu:

- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai trong pháp luật hình sự Việt Nam, mà trọng tâm là BLHS năm 2015.
- Phân tích, đánh giá một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định
hình phạt, kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Đưa ra một số yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đaitrên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.


4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai mà trọng tâm là BLHS năm 2015
hiện hành, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, sử dụng số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh.
Phạm vi không gian: tỉnh Bắc Ninh
Phạm vi thời gian: khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước
về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh
phòng chống tội phạm của nhà nước ta, làm kim chỉ nam xuyên suốt trong toàn bộ
cấu trúc nghiên cứu của luận văn.
Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình
sự như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp
logic, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn dịch – quy nạp, phương pháp so sánh,
đối chiếu các quy định của pháp luật liên quan với tội phạm vi phạm các quy định
về quản lý đất đai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận
và nâng cao nhận thức trong hoạt động áp dụng pháp luật về tội vi phạm các quy
định về quản lý đất đai trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Từ một số giải pháp

đưa ra,luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS hiện hành.
Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham
khảo cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xây dựng hoàn thiện các

5


quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Ngoài ra, kết quả đạt được
trong nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với người
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễngiải quyết các vụ án tội vi
phạm các quy định về quản lý đất đai của các cơ quan có thẩm quyền nói chung và
trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai
Chương 2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các
quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình
phạt đúng tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về
quản lý đất đai
1.1.1. Khái niệm
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương các tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, đây là “những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại
nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ
chức và của công dân qua việc vi phạm quy định của Nhà nước trong quản lý kinh
tế”[38, tr.79]. Trong khoa học pháp lý cũng đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và
đưa ra khái niệm về tội danh này, mà tiêu biểu như:
Có quan điểm cho rằng: “Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là việc
người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ,
quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật mà
còn vi phạm”[10, tr.400].
Quan điểm khác cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành
vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép
chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật [4,
tr.348].
Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp lại cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý
đất đai, được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý
Nhà nước về đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu
hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất trái quy định của pháp luật. [23, tr.239].
Trong cuốn Bình luận khoc học BLHS năm 2015, các tác giả PGS.TS. Trần
Văn Luyện, PGS.TS. Phùng Thế Vác…cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý
đất đai là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý nhà nước về
đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê,

7



cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
pháp luật [25, tr.397].
Nhận xét: Các quan điểm trên đều đã nêu được bản chất của tội danh này
theo quy định của pháp luật hình sự, tuy nhiên các tác giả vẫn chưa thể hiện được
yếu tố lỗi của tội phạm, năng lực TNHS, khách thể mà chỉ mô tả hành vi thuộc mặt
khách quan của tội phạm.
Trong pháp luật hình sự từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 2015 thì khái
niệm tội phạm được nhà làm luật ghi nhận trong Điều 8 BLHS. Theo đó: Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [31, Điều 8].
BLHS năm 2015 hiện hành thì tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc
Chương XVIII, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế “Người nào lợi dụng hoặc
lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật...”,hành vi
này xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, quản lý về đất đai
nói riêng trong giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất. Tội phạm được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt,
ngoài các dấu hiệu về tuổi, năng lực TNHS, đó còn là người có chức vụ, quyền hạn
trong việc quản lý đất đai, được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội biết được
hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, theo quy định của
Luật đất đai, các Nghị định của Chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân hoặc của Ủy ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, là nguy hiểm
cho xã hội, nhận thức được hậu quả có thể xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra những
vẫn thực hiện.

Trên cơ sở tiếp thu các quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học và quy
định hiện hành của BLHS, tác giả đưa ra khái niệm tội vi phạm các quy định về

8


quản lý đất đai như sau: Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự, đạt độ tuổi luật định, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ,
quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử
dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, xâm phạm chế độ quản
lý về đất đai được Nhà nước bảo hộ.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Trong pháp luật hình sự hiện hành thì tội vi phạm các quy định về quản lý
đất đai được quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015.
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại [39, tr. 86]. Trong pháp luật hình sự Việt Nam, phân biệt 03 loại
khách thể là khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
Khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được quy định tại
khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị
xử lý hình sự. Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất
bị tội phạm xâm hại, đây là cơ sở để nhà làm luật xếp vào các chương khác nhau
trong phần các tội phạm của BLHS. Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã
hội bị tội phạm trực tiếp xâm hại tới.
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương XVIII, các tội

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tội này có khách thể loại là trật tự quản lý nhà
nước về kinh tế. “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là các hành vi vi phạm
các quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế, xâm phạm cơ chế Nhà nước quản
lý, vận hành nền kinh tế, gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế, lợi ích của Nhà
nước, các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng” [27, tr.18]. Còn khách thể trực tiếp
của tội phạm là trật tự quản lý nhà nước về đất đai, trong đó:Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước.Bộ Tài nguyên và Môi trường
9


chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về đất
đai.Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại địa
phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này.Đối với tội này thì việc xâm phạm
trật tự quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện trong việc giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc
tác động vào đối tượng tác động của tội phạm, đây là bộ phận cấu thành của khách
thể tội phạm, bị tội phạm tác động đến, gây thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã
hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai thì đối tượng tác động chính là đất đai, thông qua sự tác động trái phép vào đối
tượng này, hành vi phạm tội đã xâm hại đến các quy định của Nhà nước trong lĩnh
vực quản lý đất đai, gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức và công dân.
Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm:
- Dấu hiệu hành vi khách quan: Có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ,
quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật.
- Lợi dụng chức vụ quyền hạn. Được hiểu là việc sử dụng chức vụ, quyền
hạn được giao như là một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, giao đất, thu
hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất đai trái pháp luật [36].

- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Được hiểu là việc người phạm tội thực hiện
những công việc vượt quá quyền hạn, trách nhiệm của họ để giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyên mục đích sử dung đất đai
trái pháp luật(Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra quyết định thu hồi đất, trong
khi việc thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện).
Trong đó:Nhà nước giao đất là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để
trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.[32, khoản 7, Điều 3].

+ Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất
cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng cho thuê quyền sử dụng
đất.[32, khoản 8, Điều 3].

10


+ Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng
đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử
dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai. [32, khoản 9, Điều 3].
+ Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là Nhà nước quyết định
cho phép đối tượng có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng từ loại đất này sang sử
dụng vào mục đích khác.
+ Nhà nước cho phép chuyển quyền sử dụng đất là Nhà nước quyết định cho
phép đối tượng có nhu cầu thực hiện các quyền như chuyển nhượng, tặng cho, cho
thuê sang cho đối tượng khác có nhu cầu.
- Giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
pháp luật. Được hiểu là hành vi thực hiện các nội dung này không đúng quy định
của pháp luật về đất đai.Cụ thể: [14, Điều 97 ].
+ Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không đúng vị trí và diện tích đất trên
thực địa.
+ Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất

không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không phù hợp với kế hoạch sử
dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Ví dụ: Không đúng thẩm quyền là không đúng quy định tại Điều 59 Luật đất
đai năm 2013:“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức;
b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo;
c) Giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 55 của Luật này;
d) Cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 56 của
Luật này;
đ) Cho thuê đất đối với tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

11


a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ
gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ
với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh trước khi quyết định;
b) Giao đất đối với cộng đồng dân cư.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng
vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép

chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được
ủy quyền”.
+ Giao lại đất, cho thuê đất trong khu công nghệ cao, khu kinh tế, cảng hàng
không, sân bay dân dụng không phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Thu hồi đất bị coi là trái pháp luật nếu thuộc trường hợp[14, Điều 97 ]
+Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều
67 của Luật Đất đai.
+ Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng
với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt.
Ví dụ:Thu hồi đất không đúng thẩm quyền là không đúng quy định tại Điều 66:
“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:

a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;
b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp
sau đây:
a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà
ở tại Việt Nam.

12


3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy
quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất”.

-Cho phép chuyển quyền sử dụng đất được coi là trái pháp luật khi: cho phép
chuyển quyền sử dụng đất không đúng thủ tục, đối tượng và căn cứ cho phép
chuyển quyền sử dụng đất.
-Ngoài ra còn có một số dạng vi phạm như: [14, Điều 97 ].
a) Không nhận hồ sơ đã hợp lệ, đầy đủ, không hướng dẫn cụ thể khi tiếp
nhận hồ sơ, gây phiền hà đối với người nộp hồ sơ, nhận hồ sơ mà không ghi vào sổ
theo dõi;
b) Tự đặt ra các thủ tục hành chính ngoài quy định chung, gây phiền hà đối
với người xin làm các thủ tục hành chính;
c) Giải quyết thủ tục hành chính không đúng trình tự quy định, trì hoãn việc
giao các loại giấy tờ đã được cơ quan có thẩm quyền ký cho người xin làm thủ tục
hành chính;
d) Giải quyết thủ tục hành chính chậm so với thời hạn quy định;
đ) Từ chối thực hiện hoặc không thực hiện thủ tục hành chính mà theo quy
định của pháp luật về đất đai đã đủ điều kiện để thực hiện;
e) Thực hiện thủ tục hành chính không đúng thẩm quyền;
g) Quyết định, ghi ý kiến hoặc xác nhận vào hồ sơ không đúng quy định gây
thiệt hại hoặc tạo điều kiện cho người xin làm thủ tục hành chính gây thiệt hại cho
h) Làm mất, làm hư hại, làm sai lệch nội dung hồ sơ.
- Hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai được coi là hệ quả của
hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Hành vi lợi dụng hoặc lạm
dụng chức vụ, quyền hạn được coi là tiền đề, là thủ đoạn mà người phạm tội sử
dụng để làm trái với quy định của Nhà nước về quản lý đất đai. Nếu trường hợp
cũng lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn nhưng không làm trái với quy
định của Nhà nước về quản lý đất đai, mà trái với các quy định khác về quản lý kinh
tế, quản lýhành chính, quản lý cán bộ…thì không thuộc trường hợp quy định tại
Điều 229 BLHS mà tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu

13



TNHS về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế hoặc tội Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ hoặc các tội phạm tương ứng có quy định lợi dụng
hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố tăng nặng định khung hình phạt…
* Hậu quả: Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì hậu quả
không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.
* Các dấu hiệu khách quan khác:
Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của
Nhà nước về sử dụng đất đai, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan
khác, nếu hành vi thõa mãn một trong các dấu hiệu sau thì mới CTTP (khoản 1,
Điều 229):
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét
vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000
mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi
nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2).

+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng
đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng
đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp.
+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
Được hiểu là người đó đã bị xử lý kỷ luật bằng một trong hình thức kỷ luật theo
quy định pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức như khiển trách; cảnh
cáo; hạ bậc lượng; giáng chức...về vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai như thu hồi
đất trái pháp luật, cho thuê trái pháp luật...với diện tích đất, giá trị quyền sử dụng đất
thấp hơn quy định ở trường hợp a hoặc b, khoản 1 Điều 229, nhưng chưa hết thời hạn
để được coi là chưa bị xử lý kỷ luậtlại thực hiện một trong các hành vi đó.

Thứ ba, chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ,
quyền hạn liên quan đến việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử

dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất mới có thể là chủ thể của tội phạm
này. Đối với người khác chỉ có thể là đồng phạm với vai trò người giúp sức, xúi
giục hoặc chủ mưu của tội phạm.

14


Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ,
nhiệm vụ [31]. Đối với tội danh này chủ thể thường là những cán bộ, công chức
trong lĩnh vực quản lý đất đai của cơ quan quản lý đất đai: Cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai ở trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi trường.Cơ quan quản lý đất
đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức dịch vụ công về đất đai được
thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ.Trong đó, ở xã, phường, thị
trấn thì có công chức làm công tác địa chính theo quy định của Luật cán bộ, công
chức. Công chức địa chính ở xã, phường, thị trấn có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân
dân cấp xã trong việc quản lý đất đai tại địa phương.
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thực hiện hành vi
của mình là do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của
Nhà nước về quản lý đất đai, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong
muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ của người phạm tội không phải là
dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
1.2. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai với một số
tội phạm có yếu tố chức vụ, quyền hạn
1.2.1. Phân biệt với tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ
Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ được quy định

tại Điều 356 BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng. Cả hai tội đều
có điểm giống nhau ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng
chức vụ, quyền hạn vào việc thực hiện tội phạm, và đều thực hiện với lỗi cố ý. Mặc
dù vậy, hai tội có điểm khác nhau:
- Về khách thể của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc

15


giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất trái pháp luật.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ:Xâm phạm
đồng thời hai khách thể trực tiếp: Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, xâm
hại đến uy tín của Nhà nước. Đồng thời gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Về hành vi khách quan của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Hành vi phạm tội thường
được thể hiện thông qua lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai: giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái
quy định của pháp luật.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Hành vi đặc
trưng trong tội phạm này là hành vi “làm trái” với công vụ (chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, mục đích công tác được phân công) của người có chức vụ, quyền hạn để
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

- Thủ đoạn phạm tội:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Lợi dụng hoặc lạm dụng chức
vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật.

+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để làm trái công vụ, trong quá trình thực hiện công vụ của mình.
- Hậu quả và thời điểm hoàn thành tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hậu quả không phải là dấu
hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực
hiện hành vi quy định tại điểm a, b hoặc c khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Hậu quả là
dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Tội có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành
khi hành vi gây thiệt hại hiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại
khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Về yếu tố lỗi:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Được thực hiện bởi một trong hai
hình thức lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (trong đó cố ý trực tiếp là chủ yếu).

16


+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Luôn được
thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp.
- Về động cơ phạm tội:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Không vì vụ lợi hoặc động cơ
cá nhân khác.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Động cơ vụ
lợi hay động cơ cá nhân khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Có tính nguy hiểm cho xã hội
thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07
năm; Khoản 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
+ Tội lợi dụng chức, vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: Có tính nguy
hiểm cho xã hội cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; Khoản 2: phạt tù từ 05
năm đến 10 năm; Khoản 3: phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. Hình phạt bổ sung:
Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có
thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
1.2.2. Phân biệt với tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ được quy định tại Điều 357 BLHS
năm 2015, thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng. Cả hai tội đều có điểm giống nhau
ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng chức vụ, quyền hạn
vào việc thực hiện tội phạm, và đều thực hiện với lỗi cố ý. Mặc dù vậy, hai tội có
điểm khác nhau cơ bản sau:
- Về khách thể của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về việc
giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất trái pháp luật.

17


+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ:Xâm phạm đồng thời hai khách
thể:Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, xâm hại đến uy tín của Nhà nước,
đồng thời gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
- Về hành vi khách quan của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai:Hành vi phạm tội thường
được thể hiện thông qua lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai: giao đất, thu hồi, cho
thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái

quy định của pháp luật.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ:Hành vi đặc trưng trong tội
phạm này là hành vi lạm quyền (vượt quá quyền hạn được giao) “làm trái” với công
vụ của người có chức vụ, quyền hạn để gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Thủ đoạn phạm tội:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Lợi dụng hoặc lạm dụng chức
vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
mà vượt quá quyền hạn làm trái công vụ mà mình được giao thực hiện.
- Hậu quả và thời điểm hoàn thành tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Hậu quả không phải là dấu
hiệu bắt buộc của CTTP. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực
hiện hành vi quy định tại điểm a, b hoặc c khoản 1 Điều 229 BLHS năm 2015.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc
của CTTP. Tội có cấu thành vật chất chỉ được coi là hoàn thành khi hành vi gây
thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng trở lên; gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà
nước,quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhâncủa xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
- Về yếu tố lỗi:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Được thực hiện bởi một trong hai
hình thức lỗi cố ý: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (trong đó cố ý trực tiếp là chủ yếu).

18


+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Luôn được thực hiện bởi hình
thức lỗi cố ý trực tiếp.
- Về động cơ phạm tội:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Không vì vụ lợi hoặc động cơ

cá nhân khác.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Động cơ vụ lợi hay động cơ cá
nhân khác là dấu hiệu bắt buộc của Cấu thành tội phạm.
- Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Có tính nguy hiểm cho xã hội
thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; Khoản 2: phạt tù từ 02 năm đến 07
năm; Khoản 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Hình phạt bổ sung: Người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Có tính nguy hiểm cho xã hội
cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Khoản 1: phạt tù từ 01 năm đến 07 năm;
Khoản 2: phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; Khoản 3: phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01
năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
1.2.3. Phân biệt với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 360
BLHS năm 2015, thuộc nhóm tội phạm khác về chức vụ. Cả hai tội đều có điểm
giống nhau ở chủ thể đặc biệt đều là người có chức vụ, quyền hạn. Mặc dù vậy, hai
tội có điểm khác nhau cơ bản sau:
- Về khách thể của tội phạm:
+ Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai: Xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai về
việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất trái pháp luật.
+ Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: Xâm phạm hoạt động
đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.

19



×