ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỮU BIÊN
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỮU BIÊN
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang
Hà nội - 2015
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hữu Biên
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chương 1:
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ
7
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1.1.
Những khái niệm có liên quan
7
1.1.1. Khái niệm định tội danh trong luật hình sự Việt Nam
7
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong luật hình sự
13
1.1.3. Khái niệm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
15
1.1.4. Khái niệm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
16
phạm các quy định về sử dụng đất đai
1.2.
Sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam đối với
19
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1985
19
1.2.2. Giai đoạn từ 1985 đến nay
21
1.3.
Quy định của luật hình sự về định tội danh và quyết định hình
23
phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
1.3.1. Quy định của luật hình sự về định tội danh đối với tội vi phạm
23
các quy định về sử dụng đất đai
1.3.2. Quy định của luật hình sự về quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
4
35
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
38
PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ
DỤNG ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố
Hà Nội
2.1.1. Vài nét về địa chính trị, kinh tế thành phố Hà Nội
2.1.2. Một số kết quả đạt được trong định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
trên địa bàn thành phố Hà Nội
38
2.1.3. Những tồn tại, vướng mắc trong định tội danh và quyết định
49
2.1.
38
41
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.1.4. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại, vướng mắc trong
56
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.
Những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả tội danh và quyết định
60
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
2.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội vi phạm các quy định
60
về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về định tội danh và
65
quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.3. Kiến nghị đề xuất nâng cao trình độ, năng lực của những
67
người tiến hành tố tụng trong định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên
địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.4. Những kiến nghị, đề xuất khác
70
KẾT LUẬN
73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
75
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Thống kê số vụ án, bị can bị khởi tố về tội vi phạm các
41
bảng
2.1
quy định về sử dụng đất đai giai đoạn 2009 - 2014
2.2
Kết quả xét xử bị cáo vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai trên địa bàn Hà Nội
6
44
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của của Bộ Chính
trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: "Hoàn
thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [11], và xác
định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm trong chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Hiện nay, khi nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đất đai là một trong những hướng
quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư, các hoạt động liên quan đến đất đai vô
cùng sôi động, nhất là ở các thành phố lớn, khu vực ven đô… trong đó Thủ đô
Hà Nội là một trong những địa phương có hoạt động đất đai và thị trường bất
động sản sôi động nhất.
Cùng với sự phát triển của những quan hệ xã hội liên quan đến đất đai,
pháp luật về đất đai ngày càng cần phải hoàn thiện để đáp ứng với sự phát
triển chung của xã hội, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến quản lý đất đai
của các cơ quan chức năng và những người có thẩm quyền và các chế tài đối
với những người có thẩm quyền vi phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng
đất đai.
Bộ luật hình sự năm 1999 ngay từ khi mới ra đời đã có quy định về xử lý
hình sự đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai tại Điều 173.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự cho thấy
trong phạm vi cả nước số vụ án được xét xử đối với các tội danh này rất ít, có
nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình xét xử đối với loại tội này. Mặt
7
khác, có thể thấy rằng, định tội danh và quyết định hình phạt có vai trò quan
trọng trong hoạt động xét xử, góp phần đưa Bộ luật hình sự vào đời sống xã hội
và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, đề hoàn
thiện chính sách hình sự đối với các tội phạm về đất đai, nhằm cụ thể đường
lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đất đai thì cần thiết
phải nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đối với các tội phạm về đất đai cũng
như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này.
Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: "Định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tội phạm xâm phạm trật tự nói chung, tội phạm vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai nói riêng luôn mang tính thời sự, cấp thiết xuất phát từ hoạt
động quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, những công trình
nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm xâm phạm trật tự nhiều, có thể
ở góc độ luật hình sự hoặc góc độ tội phạm học. Cụ thể, các công trình nghiên
cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa
học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri thức lý
luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu như: Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình
phạt do TS. Dương Tuyết Miên chủ biên, NXB Lao động xã hội, 2009; Sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự của
PGS.TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), tái bản 2007;
"Giáo trình tội phạm học" do GS.TS. Đỗ Ngọc Quang (chủ biên), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1999; Sách chuyên khảo Định tội danh và quyết định hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam do TS. Lê Văn Đệ chủ biên, Nxb Công an
8
nhân dân, 2004; Sách chuyên khảo Cấu thành tội phạm: lý luận và thực tiễn
của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp, 2004; Trách nhiệm hình sự và
hình phạt của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Công an nhân dân, 2004; Sách
chuyên khảo Tội phạm và trách nhiệm hình sự - TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb
Chính trị quốc gia, 2013; Sách chuyên khảo Chính sách hình sự trong thời kỳ
đổi mới ở Việt Nam, do TS. Phạm Văn Lợi chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2007
v.v... Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết trên
các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo, các
số chuyên đề. Đây là nguồn tài liệu phong phú nhất. Những công trình nghiên
cứu này chủ yếu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành pháp luật có uy tín
như Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Kiểm sát,
Tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật… Nhìn chung đây là những công trình nghiên
cứu tội phạm cụ thể hoặc nghiên cứu về định tội danh, quyết hình phạt đối với
tội phạm nói chung trong đó có tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai;
các bài viết đăng tải trên các website, các trang thông tin điện tử thể hiện quan
điểm đa chiều của các tác giả về thực trạng của tội phạm vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai qua các vụ án cụ thể, điển hình, gây dư luận xã hội.
Nhìn chung, có thể thấy rằng các công trình khoa học nghiên cứu về
chính sách hình sự, về tội phạm nói chung là khá nhiều. Tuy nhiên, quá trình thu
thập, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu tác giả nhận thấy chưa có một công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu, trực tiếp về định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai dưới
9
khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn trong công tác xét xử tại địa phương,
từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng
cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nội
dung cơ bản sau:
- Lý luận cơ bản về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
- Thực tiễn về định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội. Còn có
gì vướng mắc khi áp dụng luật trong quá trình tố tụng không?
- Phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai như
thế nào?
- Giải pháp nào để tăng cường hiệu quả công tác về định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
4. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai mà trong đó
giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai trong luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và
thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng hoàn thiện pháp luật thực định
10
và nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp
luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành
tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn
còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ
thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là vụ án hình sự về tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn được triển khai nghiên cứu trên đối tượng là hành vi phạm
tội và người phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
- Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế
định tội phạm và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh
giá tình hình thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân
dân địa phương và những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế nhằm đưa ra những
kiến nghị, những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả
trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết
định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa
bàn thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2009 đến 2014.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng
11
Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; quan điểm của Đảng
và Nhà nước về đấu tranh chống tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
Các phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn
dịch… Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn
đã phù hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật khi áp dụng
trong thực tiễn đời sống xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội và
những kiến nghị, đề xuất.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH VÀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
1.1.1. Khái niệm định tội danh trong luật hình sự Việt Nam
Định tội danh là xác định tên của tội phạm theo quy định của pháp
luật hình sự qua việc xác định điều luật trực tiếp điều chỉnh tội phạm. Trong
quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án đều phải tiến hành định tội danh. Định tội danh là bước đầu xác định
trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Đây chính là nền tảng, ảnh hưởng tới
toàn bộ các hoạt động xác định trách nhiệm hình sự tiếp theo: định khung và
quyết định hình phạt. Chỉ có thể xác định khung hình phạt và hình phạt khi đã
xác định chính xác tội danh và nếu việc định tội danh sai sẽ kéo theo toàn bộ
các kết quả của quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự trở thành sai lầm và
không có giá trị pháp lý. Hiện nay về định tội danh còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau và chưa có những nghiên cứu chuyên sâu đảm bảo đúng cho
việc định tội.
Các học giả nước ngoài đã đưa ra nhiều nhận định khác nhau về định
tội danh, có thể chỉ ra hai học giả tiêu biểu đó là Viện sĩ Kuđriavtxev VN
(Liên Xô cũ) và Học giả Sliapôtrnhikôv A.C. Trong khi Viện sĩ Kuđriavtxev
VN cho rằng: Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý hình
sự, sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi được thực hiện với
các cấu thành tội phạm do quy phạm pháp luật hình sự quy định. Học giả
Sliapôtrnhikôv A.C thì lại cho rằng: Định tội danh là một giai đoạn của hoạt
động bảo vệ pháp luật do các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử thực hiện trên
13
cơ sở các quy phạm pháp luật hình sự và dựa vào các tình tiết thể hiện sự
nguy hiểm cho xã hội của một hành vi cụ thể để xác định dấu hiệu của cấu
thành tội phạm tương ứng với hành vi đó.
Khoa học luật hình sự Việt Nam cũng chưa có sự thống nhất chung về
khái niệm định tội danh. Điển hình là trong "Các nghiên cứu chuyên khảo về
Phần chung luật hình sự", GS.TSKH. Lê Cảm đã đưa ra định nghĩa có tình mô tả,
chỉ dẫn hoạt động cũng như yêu cầu và ý nghĩa của việc định tội danh như sau:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tình
logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến
hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và
các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy
định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá
chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá
thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có
căn cứ và đúng pháp luật [2].
TS. Lê Văn Đệ thông qua việc đưa ra nghiên cứu chế định nhiều tội
phạm lại đưa ra định nghĩa: "Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về
mặt pháp luật sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ
thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật
hình sự quy định" [14]. Ngoài ra, trong các tài liệu tham khảo và sách báo
pháp lý khác, chúng ta còn gặp một số định khác về định tội danh có nội dung
tương tự. Các học giả, nhà nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu định tội danh ở góc
độ áp dụng pháp luật, xác định sự phù hợp giữa hành vi xảy ra trên thực tế và
các quy định của Bộ luật hình sự.
14
Tuy nhiên dù khác nhau về các tiếp cận, phương pháp diễn đạt cũng
như mục đích mà tác giả hướng tới song ở các định nghĩa về định tội danh
đều thống nhất ở điểm: định tội danh là hoạt động đối chiếu, so sánh về mặt
pháp luật nhằm xác định một tội phạm xảy ra trên thực tế có tên gọi là gì theo
quy định của pháp luật hình sự. Bộ luật hình sự là nguồn duy nhất để xác định
một hành vi là tội phạm cũng như các loại tội phạm theo ý chí của Nhà nước.
Bộ luật hình sự được kết cấu thành hai phần, trong đó Phần các tội phạm cụ
thể được phân chia thành các chương có nhiệm vụ bảo vệ các khách thể thuộc
cùng một nhóm. Mỗi chương có các điều luật cụ thể với tên gọi riêng, được
ghi nhận ngay liền sau số thứ tự. Và đó chính là tội danh của tội phạm thỏa
mãn cấu thành mà điều luật mô tả. Luật hình sự Việt Nam đặt tên cho các tội
phạm thường dựa vào các đặc trưng, những điểm khác biệt của tội phạm đó so
với các tội phạm khác thuộc cùng nhóm khách thể. Ví dụ:
- Dựa vào đặc điểm của hành vi, tội danh là tên của hành vi khách quan:
Tội gián điệp (Điều 80), Tội hiếp dâm (Điều 111), Tội bức tử (Điều 100), Tội
vu khống (Điều 122); Tội nhận hối lộ (Điều 203);
- Dựa vào đặc điểm của hành vi khách quan và đối tượng tác động, tội
danh là tên hành vi và đối tượng bị xâm hại: Tội giết người (Điều 93); Tội
giết con mới đẻ (Điều 94); Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112)...
- Dựa vào đặc điểm của hành vi khách quan, ý thức chủ quan và đối
tượng tác động, tội danh là tên của loại lỗi, hành vi và đối tượng tác động: Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác (Điều 104);
Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118); Tội vô ý làm chết người
(Điều 98); Tội quảng cáo gian dối (Điều 168)....
- Dựa vào loại lỗi, đối tượng tác động và hậu quả, tội danh là tên của
loại lỗi và tính chất của thiệt hại: Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản (Điều 145); Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh
tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165)...
15
Mỗi tội danh, mỗi loại tội phạm đều có giới hạn hình phạt xác định
tương đối (mức thấp nhất và cao nhất) để áp dụng cho các chủ thể đã thực
hiện và chỉ những chủ thể đã thực hiện tội danh này mới có thể bị áp dụng các
chế tài đã được quy định trong điều luật. Hệ thống các quy định của pháp luật
hình sự có các nguyên tắc đảm bảo mỗi tội phạm cụ thể có một và chỉ một tội
danh; không thể có một hành vi nguy hiểm cấu thành đồng thời cả hai chế tài
áp dụng với chúng. Không có áp dụng tương tự trong luật hình sự, do đó việc
định tội phải tuân thủ tuyết đối các quy định về nội dung của Bộ luật hình sự
và chỉ Bộ luật hình sự mới là căn cứ pháp lý cho định tội danh. Tuy nhiên với
tư cách là vấn đề cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động định tội
danh còn phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
trình tự, thủ tục, thẩm quyền...
Xét ở góc độ chung nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức
phức tạp. Bộ luật hình sự Việt Nam phân chia tội phạm nói chung thành các
tội riêng lẻ với những đặc trưng nhất định và có tên gọi khác nhau. Tương
ứng với mỗi tội phạm đều có một điều luật riêng để điều chỉnh về loại tội
phạm đó, tên của điều luật này chính là tội danh. Tại các điều luật đều thường
có phần mô tả các hành động hoặc không hành động của chủ thể, các thiệt hại,
đối tượng bị tác động, lỗi của người phạm tội. Đây chính là các yếu tố của cấu
thành tội phạm, cho phép xác định những hành vi thỏa mãn các dấu hiệu này
và một số các dấu hiệu được ghi nhận trong các điều luật thuộc Phần chung
của Bộ luật hình sự (về năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi, lỗi, thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự...) là tội phạm với tội danh là tên của điều luật.
Hoạt động định tội danh phải nhận thức về tội phạm cụ thể và pháp
luật hình sự để có kết luận về loại tội phạm thông qua việc xác định điều luật
thuộc Phần các tội phạm cụ thể trực tiếp điều chỉnh tội phạm nên định tội
danh là một quá trình nhận thức trải qua các giai đoạn khác nhau như xác định
16
một hành vi là tội phạm: căn cứ vào định nghĩa về tội phạm tại Điều 8 của Bộ
luật hình sự, từ việc xem xét khái quát các sự kiện xảy ra để khẳng định hành
vi có nguy hiểm cho xã hội là tội phạm theo định nghĩa này; xác định nhóm
các quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh tội phạm, tức là xác định tội phạm
được quy định tại chương nào của Bộ luật hình sự thông qua việc xác định
nhóm khách thể bị tội phạm xâm hại. Xác định điều luật trực tiếp điều chỉnh
tội phạm: mỗi tội phạm bao giờ cũng có những đặc trưng nhất định và được
luật hình sự ghi nhận là dấu hiệu bắt buộc, sự tổng hợp của các dấu hiệu này
trong khoa học luật hình sự gọi là cấu thành tội phạm (cơ bản). Để khẳng định
một hành vi phạm tội người định tội danh phải chứng minh được hành vi thực
tế đã có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản và sự thể hiện này
phải là sát hợp nhất, trừ một số trường hợp đặc biệt: chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt, đồng phạm.
Việc phân chia các giai đoạn trong định tội danh chỉ có tính ước lệ,
bởi thực tế các hoạt động này có diễn ra đồng thời, đan xen, bổ trợ cho nhau
khó có thể phân tách chính xác. Người tiến hành định tội danh luôn phải nhận
thức các tình tiết của vụ việc trong sự đối chiếu, so sánh với tất cả các quy
định của pháp luật hình sự có liên quan đến tội phạm đó: quy định về thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự,
hành vi, hậu quả, lỗi... Toàn bộ các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm
cũng như các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự tạo thành hệ quy chiếu,
khuôn mẫu, làm căn cứ xem xét hành vi thực tế có là tội phạm hay không phải
được người tiến hành định tội danh nắm rõ.
Định tội danh là sự nhận thức về một vụ việc trong hệ quy chiếu là
pháp luật hình sự. Bất kỳ ai cũng có thể tiến hành định tội danh, gọi tên của
hành vi theo tên Bộ luật hình sự đã quy định. Việc định tội danh này không có
ý nghĩa pháp lý đe dọa gây ra những hậu quả bất lợi cho chủ thể đã thực hiện
17
tội phạm, nó còn được gọi là định tội danh không chính thức. Bộ luật hình sự
là căn cứ pháp lý duy nhất của việc định tội danh.
Trong giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của chủ thể trước Nhà
nước, định tội danh là hoạt động bắt buộc của tất cả các cơ quan tiến hành tố
tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án qua các giai đoạn: Khởi tố,
điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Để có thể khởi tố bị can, áp dụng bất
kỳ hậu quả bất lợi nào do việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đối với
chủ thể, các cơ quan có thẩm quyền phải nêu được tội danh mà kẻ phạm tội đã
phạm phải, tức là chứng minh được rằng chủ thể đã thực hiện một tội phạm cụ
thể mà Bộ luật hình sự quy định. Các cơ quan tiến hành tố tụng, trực tiếp giải
quyết vụ án hình sự đều tiến hành định tội danh và thể hiện rõ trong: Quyết
định khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng, bản án...kết quả định tội này
đều có ảnh hưởng tới các quyền và nghĩa vụ của người thực hiện tội phạm, có
thể dẫn đến việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, định chỉ vụ án... Tội danh có thể được xác định
thống nhất trong suốt quá trình giải quyết vụ án song cũng có thể thay đổi qua
các giai đoạn. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền định tội danh pháp lý
khẳng định trách nhiệm hình sự, thể hiện chính thức quan điểm của Nhà nước
về hành vi phạm tội bằng một bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Nội dung
này được quy định rõ trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự: "Không ai
có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án".
Định tội danh là xác định tên gọi cho tội phạm, về nội dung chỉ căn cứ
vào tình tiết vụ án và quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi định tội
danh chính thức, việc định tội danh phải tuân thủ các quy định về thẩm quyền:
thẩm quyền theo cấp, theo lãnh thổ, về thủ tục đặc biệt trong một số trường
hợp theo quy định tại Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, việc khởi tố vụ án (thủ
tục bắt buộc trước khi định tội danh) chỉ được đặt ra khi có yêu cầu của người
18
bị hại, trường hợp người bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên toàn thì vụ án
được đình chỉ...
Định tội danh được thực hiện ở tất cả các giai đoạn tố tụng và các cơ
quan tiến hành tố tụng. Tội danh là sự thể hiện có tình nền tảng và quan trong
về trách nhiệm hình sự của người thực hiện tội phạm. Trên cơ sở tội danh đã
xác định, các cơ quan có thẩm quyền mới tiến hành định khung và quyết định
hình phạt. Tội danh được xác định đúng là tiền đề cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt ở các bước tiếp theo (định khung hình
phạt và quyết định hình phạt), nhờ đó vụ án được giải quyết chính xác, công
bằng cũng như đạt được mục đích của hình phạt.
Như vậy, có thể hiểu, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật,
trên cơ sở phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết thể hiện tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể với các quy định của pháp luật
hình sự, các yếu tố cấu thành tội phạm, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng
hình sự mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xác định được tên gọi của
tội phạm, đặt nền tảng cho quá trình giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm
hình sự.
1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt trong luật hình sự
Quyết định hình phạt là một công việc quan trọng trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự của Tòa án [20, tr. 59]. Ở nước ta hiện nay, chưa có văn bản
pháp lý hình sự nào xác định khái niệm về quyết định hình phạt. Khi nghiên
cứu khoa học luật hình sự có thể nhận ra hai quan điểm khác nhau về khái
niệm quyết định hình phạt, đa số các tác giả, khi nghiên cứu khoa học luật
hình sự đều cho rằng: Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình
phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức
độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội. Tuy nhiên,
cũng có những tác giả cho rằng cần hiểu quyết định hình phạt theo nghĩa rộng
19
hơn, nghĩa là quyết định hình phạt bao gồm các hoạt động: xác định người
phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không,
xác định khung hình phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm
vi khung hình phạt hoặc dưới khung đó [44, tr. 201-202].
Khi tìm hiểu, tham khảo các tài liệu nước ngoài cũng có thể thấy
những quan điểm khác nhau về khái niệm quyết định hình phạt, có thể lấy ví
dụ cụ thể như trong cuốn "Justice, crime and ethics" xuất bản năm 1991, tác
giả đã nhận định: Quyết định hình phạt là quyết định biện pháp xử lý đối với
người bị coi là tội phạm. Thông thường, hình phạt sẽ được áp dụng cho người
phạm tội. Còn trong cuốn "Princippled Sentencing" xuất bản năm 2000, tác
giả của cuốn sách lại chỉ rõ: Quyết định hình phạt là việc xác định chế tài đối
với người phạm tội về tội phạm họ đã gây ra bao hàm cả việc tước tụ do của
họ. Khi các dấu hiệu của tội phạm được xác định thì thông thường, việc quyết
định hình phạt sẽ được thực hiện.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa có văn bản pháp
lý nào xác định cụ thể khái niệm quyết định hình phạt, bản thân tác giả của
luận văn đồng ý với quan điểm mà TS. Dương Tuyết Miên đưa ra:
Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội
đồng xét xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để
định ra biện pháp xử lý tương xứng với tình chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện. Nội dung của hoạt
động quyết định hình phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự hoặc
có thể là miễn hình phạt (trường hợp này, hoạt động quyết định
hình phạt chấm dứt tại đây) hoặc nếu Tòa án quyết định áp dụng
hình phạt thì hoạt động quyết định hình phát là việc xác định hình
phạt cụ thể trong phạm vi luật định đối với bị cáo [20, tr. 63].
Vì những lý do sau:
20
- Khái niệm quyết định hình phạt trên được hiểu theo nghĩa bao hàm
nhất, nghĩa là quyết định hình phạt bao gồm cả hoạt động xác định người
phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt không, xác
định khung hình phạt và xác định hình phạt cụ thể.
- Khái niệm trên thể hiện rõ các đặc trưng cơ bản của hoạt động quyết
định hình phạt đó là: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án
mà cụ thể là Hội đồng xét xử được thực hiện sau khi đã xác định xong tội
danh (nghĩa là sau khi đã định tội danh); Quyết định hình phạt do Tòa án thực
hiện trên cơ sở quy định của Bộ luật hình sự. Nội dung của quyết định hình
phạt có thể là miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc là việc Tòa án
lựa chọn hình phạt cụ thể; Quyết định hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân
người có hành vi phạm tội.
Như vậy, quyết định hình phạt là việc Tòa án, căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội về tội danh của người phạm tội được
đưa ra xét xử; căn cứ vào những đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của họ để đưa ra loại và mức
hình phạt tương xứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
1.1.3. Khái niệm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
Tội phạm là hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, hiện tượng này
mang thuộc tính xã hội - pháp lý, tính lịch sử - xã hội. Tội phạm luôn chứa
đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược
lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền và các
lợi ích hợp pháp khác của con người... Khái niệm tội phạm được định nghĩa
rất rõ ràng tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
21
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [28].
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được quy định tại Điều 173
Bộ luật hình sự 1999, với nội dung:
Người nào lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử
dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng
đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt [28].
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai quy định tại Điều 173 Bộ
luật hình sự 1999 được xây dựng và kế thừa trên cơ sở Điều 180 của Bộ luật
hình sự 1985. Từ khái niệm tội phạm nói chung được quy định tại Điều 8 Bộ
luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì khái niệm "Tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai" có thể được hiểu là: hành vi nguy hiểm
cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện việc lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất,
sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc
đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
1.1.4. Khái niệm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
Theo tác giả của luận văn, định tội danh đối với tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai là quá trình mà các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ
22
quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án) thông qua các giai đoạn tiến hành tố
tụng, trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế
của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được luật hình sự quy định nhằm
đạt được sự thật khách quan và đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt
pháp lý hình sự rằng "hành vi đó có phải là hành vi phạm tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai" hay không.
Như vậy, quá trình định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về
sử dụng đất đai theo tác giả của luận văn cần thỏa mãn được những vấn đề sau:
- Việc định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất
đai có chủ thể định tội danh là các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong đó, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền
định tội danh pháp lý khẳng định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm
tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và thể hiện chính thức quan
điểm của Nhà nước về hành vi phạm tội bằng một bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật.
- Định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
phải dựa trên những quy định của Bộ luật hình sự về tội danh này, đây là căn cứ
duy nhất để so sánh đối chiếu nhằm xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội có
phải là hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai hay không?
- Việc xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phạm tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai hay không? Ngoài việc dựa trên các
quy định của Bộ luật hình sự đối với tội này, còn phải căn cứ vào tình tiết, hồ
sơ, chứng cứ của vụ án để xác định.
Theo tác giả luận văn, quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội đồng xét
23
xử) được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh cụ thể là tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai đối với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Căn cứ
vào các quy định của Bộ luật hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai, tình tiết cụ thể của vụ án và nhân thân của bị cáo mà Tòa án quyết
định hình phạt cụ thể theo luật định đối với bị cáo.
Như vậy, quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai đã thỏa mãn:
- Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai cũng là hoạt động thực tiễn của Tòa án mà cụ thể là Hội đồng xét xử
được thực hiện sau khi đã xác định xong tội danh là tội vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai.
- Quyết định hình phạt do Tòa án thực hiện trên cơ sở quy định của Bộ
luật hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai và tình tiết cụ thể
của vụ án, nhân thân người phạm tội mà Tòa án quyết định hình phạt cụ thể
của bị cáo đối với hành vi phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
mà bị cáo đã thực hiện.
- Quyết định hình phạt chỉ áp dụng đối với cá nhân người có hành vi
phạm tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
Như vậy, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm
các quy định về sử dụng đất đai là hoạt động áp dụng pháp luật, trên cơ sở
phân tích, đối chiếu, so sánh các tình tiết thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội cụ thể với các quy định của pháp luật hình sự, các
yếu tố cấu thành tội phạm, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng hình sự mà
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xác định được tên gọi của tội phạm,
căn cứ vào những đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng trách nhiệm hình sự của họ để Tòa án đưa ra loại và mức hình
phạt tương xứng được quy định trong Bộ luật hình sự.
24
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1985
Nhận thức được tầm quan trọng của đất đai ở nước ta, ngay sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước đã ban hành nhiều sắc lệnh, đạo
luật để quản lý đất đai, hạn chế sự bóc lột của thực dân, đế quốc đối với nhân
dân. Để thực hiện tốt chính sách đất đai, bên cạnh chính sách khuyến khích lợi
ích kinh tế và các biện pháp tuyên truyền giáo dục pháp luật, các chế tài để xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật đất đai cũng được Nhà nước sử dụng, góp phần
làm cho mọi người nghiêm chình chấp hành các quy định của pháp luật, tiêu
biểu là Sắc lệnh số 149SL ngày 12/4/1953 quy định đất đai và rừng núi hoang
của tư nhân, đoàn thể, tôn giáo chưa khai khẩn, ruộng đất trồng trọt nếu bỏ
hoang không có lý do chính đáng qua 2 năm sẽ sung vào quốc gia công thổ; Sắc
lệnh số 97SL ngày 19/12/1953 quy định trưng thu ruộng đất không phải của
địa chủ bỏ hoang bất kỳ lý do gì, trưng thu ruộng đất không phải của địa chủ
mà bỏ hoang quá 2 năm không có lý do chính đáng. Chỉ thị số 231TTg ngày
24/9/1974 quy định đối với ruộng đất đã giao cho đơn vị quản lý sử dụng còn
bỏ hoang hóa phải có kế hoạch, biện pháp đưa hết vào sản xuất. Thông tư liên
bộ số 01/TTLB ngày 28/01/1975 của Bộ Nông nghiệp và Xây dựng, thẩm
quyền xử lý các vi phạm của các cơ quan, xí nghiệp, xã viên, cán bộ, tư nhân,
nông trường, trạm trại sử dụng đất đai đã được hướng dẫn rất cụ thể.
Đến ngày 01/7/1980, Quyết định số 201/CP do Hội đồng Chính phủ
ban hành về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý
ruộng đất trong cả nước, tại mục VIII có quy định: Các tổ chức và cá nhân có
thành tích xuất sắc trong việc bảo vệ đất, bồi bổ chất đất, mở rộng diện tích
đất nông nghiệp (tăng vụ, khai hoang, phục hóa) hoặc sử dụng đất có hiệu quả
cao thì được khen thưởng theo chế độ Nhà nước). Người sử dụng ruộng đất vi
phạm, tùy theo mức độ vi phạm, bị xử phạt như sau: Cảnh cáo hoặc phạt tiền
25