Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.79 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN PHÚ

TỘI HIẾP DÂM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN PHÚ

TỘI HIẾP DÂM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình


khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, nghiêm túc, tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn

Nguyễn Tiến Phú


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI HIẾP DÂM .................................................................. 8
1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý tội hiếp dâm ................................................. 8
1.2. Lý luận định tội danh và quyết định hình phạt tội hiếp dâm ................... 20
1.3. Khái quát lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội hiếp dâm ................................................................................................ 26
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI HIẾP DÂM Ở TỈNH BẮC NINH ........................................................ 43
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội phạm hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
......................................................................................................................... 43
2.2. Thực tiễn định tội danh tội danh tội hiếp dâm tại Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh .......................................................................................................... 44
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm tại Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Ninh .................................................................................................. 53
Chương 3: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM ...................... 62
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự về tội hiếp dâm ............................ 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm .... 62
3.3. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội
hiếp dâm .......................................................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê số liệu vụ án Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh
thụ lý về tội hiếp dâm từ năm 2015 - 2019 .................................................. 43
Bảng 2.2. Số liệu các vụ án hiếp dâm được đưa ra xét xử tại tỉnh Bắc Ninh
và cả nước từ năm 2015 đến 2019 ............................................................... 45
Bảng 2.3. Số lượng bị cáo được đưa ra xét xử tại tỉnh Bắc Ninh từ năm
2015 đến 2019 phân theo địa bàn ................................................................ 45
Bảng 2.4. Số vụ án tội hiếp dâm được xét xử phúc thẩm trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh giai đoạn 2015 - 2019 .................................................................. 49
Bảng 2.5. Số liệu khung hình phạt đã áp dụng trong các vụ án hiếp dâm từ
năm 2015 đến 2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. ......................................... 54
Bảng 2.6. Số liệu hình phạt bổ sung đã áp dụng trong các vụ án hiếp dâm từ
năm 2015 đến 2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. ......................................... 55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phát huy được vai
trò quan trọng trong phòng, chống tội phạm, là căn cứ quan trọng để định tội
danh cũng như quyết định hình phạt đối với các loại tội phạm. Hơn nữa, trong
tình hình tội phạm có diễn biến khó lượng và phức tạp như hiện nay thì vao trò
đó càng được thể hiện rõ hơn. Cùng với sự bùng nổ về phát triển kinh tế thì
tình hình tội phạm tại Việt Nam cũng như trên thế giới ngày càng phức tạp và
đa dạng với thủ đoạn nguy hiểm. Trong đó, sự diễn biến phức tạp của các tội
phạm về tình dục, đặc biệt là tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em là một điều đáng
lưu tâm. Cùng với sự phát triển xã hội và giao lưu văn hóa, sự phát triển không
ngừng của internet và mạng xã hội đã kéo theo mặt trái là sự xâm thực của

những luồng văn hóa độc hại, làm ảnh hưởng và dẫn đến việc gia tăng các tội
phạm về tình dục, trong đó có tội hiếp dâm. Trong những năm gần đây đã xuất
hiện những vụ án xâm hại tình dục mà nạn nhân là nam giới, đặc biệt là tình
trạng lạm dụng tình dục trẻ em nam. Những hành vi xâm hại tình dục có những
tác động khôn lường đến cả nạn nhân và gia đình nạn nhân mà còn tạo ra những
dư luận xã hội tiêu cực. Hành động đó, làm tổn thương, hủy hoại tinh thần, xâm
hại nghiêm trọng đến sự phát triển theo chiều hướng bình thường, lành mạnh của
người bị xâm hại, tác động mạnh mẽ đến sự ổn định của gia đình họ. Ở khía
cạnh xã hội, những hành vi này còn có tác động xấu đến môi trường xung quanh,
gây phẫn nộ, bức xúc, nhức nhối trong dư luận [25, tr.46-47].
Năm 2009, trước tình hình tội phạm phức tạp, những hạn chế của pháp
luật hình sự hiện hành thì Quốc hội đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự năm 1999 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Tuy nhiên,
quy định của Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
1


2009) cùng với những quan điểm hiện hành về tội hiếp dâm sau nhiều năm áp
dụng đã thể hiện một số điểm bất cập so với sự phát triển của xã hội, từ đó
gây vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Vì thế, những vấn đề xoay quanh quy
định của Bộ luật hình sự về tội hiếp dâm luôn là một đề tài tranh luận hết sức
sôi nổi trên các diễn đàn khoa học, trên các báo và tạp chí.
Cùng với đó, sự phát triển, hoàn thiện của Hiến pháp năm 2013 trên cơ
sở Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền công dân thể hiện sự đổi
mới nhận thức, tư duy trong việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền
này của người dân trên thực tế tại Việt Nam.
Cùng với tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
mục tiêu quan trọng được nhà nước ta luôn đặt ra đó là bảo đảm quyền con
người - quyền mà hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận và là một

trong những thước đo sự phát triển của đất nước đó. Tội hiếp dâm với khách
thể bảo vệ là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em và phụ nữ; nhân
phẩm, danh dự, sức khỏe của trẻ em, phụ nữ và trật tự an toàn xã hội. Do đó,
cần phải có những công trình khoa học nghiên cứu, đánh giá và từ đó đưa ra
các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về các tội hiếp dâm
sao cho pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.
Cùng với sự phát triển và giao lưu văn hóa, sự phát triển không ngừng
về internet và mạng xã hội giúp chất lượng cuộc sống của người dân được
nâng cao, dễ dàng hơn trong việc tiếp thu nhiều luồng văn hóa khác nhau trên
thế giới. Tuy nhiên, song song với đó là sự xâm thực của những luồng văn
hóa độc hại, làm ảnh hưởng và suy đồi văn hóa của một bộ phận giới trẻ hiện
nay, dẫn đến việc gia tăng, biến dạng các tội phạm xâm phạm về tình dục hay
các tội phạm hiếp dâm được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Vì
vậy, cần có cái nhìn tổng quát về loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay
để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp với tình hình xã hội hiện nay và góp
2


phần vào việc sửa đổi Bộ luật hình sự trình Quốc hội khóa XIII năm 2015 kịp
thời thông qua, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Đặc biệt là những
thay đổi trong nội dung quy định về tội phạm hiếp dâm tại Bộ luật hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã phù hợp hơn với thực tiễn tình hình
tội phạm này tại Việt Nam. Việc nghiên cứu lý luận, thực tiễn về tội hiếp dâm
sẽ làm sáng tỏ được vai trò, tầm quan trọng và tính thực tiễn của Bộ luật hình
sự năm 2015 của Việt Nam, qua đó rút ra những bài học, hạn chế nhằm đề
xuất xem xét điều chỉnh phù hợp.
Tỉnh Bắc Ninh được đánh giá là địa phương phát triển năng động với
việc thu hút rất nhiều các doanh nghiệp FDI đầu tư và phát triển sản xuất trên
địa bàn. Đi đôi với sự phát triển kinh tế là sự xuất hiện của nhiều loại hình tội
phạm trên địa bàn tỉnh, trong đó có tội phạm hiếp dâm. Việc đi sâu nghiên

cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh sẽ giúp đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật, rút kinh
nghiệm những vấn đề còn thiếu sót trong hoạt động xét xử các vụ án về tội hiếp
dâm của cơ quan xét xử. Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu
đề tài: “Tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm luận văn tốt nghiệp
cao học chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tội hiếp dâm đã nhận được nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, tác giả khác nhau và được phân tích dưới
nhiều góc độ từ tội phạm học đến luật hình sự và tố tụng hình sự, có thể kể
đến một số công trình khoa học tiêu biểu:
Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài: Tác giả Trần
Thạch Xuân (2019), Tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn xét xử tại tỉnh
Vĩnh Phúc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; tác giả Bùi Thị Yến (2019),
Quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh
3


Bình Định, Đại học Huế; Tác giả Nguyễn Ngọc Huyền (2018), Tội hiếp dâm
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ
thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Tác giả Bùi Thị
Hằng Nga (2016), Tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ thực hiện tại Học viện
Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Tác giả Phạm Nữ Quỳnh Trâm (2017), Tội
hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận
văn Thạc sĩ thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Tác giả
Phạm Thái Hùng (2019), Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực
tiễn tỉnh Ninh Thuận, Luận văn Thạc sĩ thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội
Việt Nam, Hà Nội; Tác giả Lại Văn Giang (2019), Định tội danh tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh An Giang, Luận văn Thạc sĩ thực hiện tại

Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Tác giả Nguyễn Thị Quỳnh My
(2019), Tội hiếp dâm theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh, Luận văn Thạc sĩ thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà
Nội…
Ngoài ra, tác giả nghiên cứu và phân tích các công trình nghiên cứu:
Tác giả Phạm Văn Báu (2010), “Những bất cập và phương hướng hoàn thiện
quy định về một số tội xâm phạm nhân phẩm của con người trong Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999”, Tạp chí Luật học (01); Tác giả Đỗ Đức Hồng
Hà (2010), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
(08); Tác giả Bùi Thị Quyên (2012), “Bàn về một số dấu hiệu pháp lý của tội
hiếp dâm”, Tạp chí Tòa án nhân dân (23); Tác giả Dương Tuyết Miên, Bùi
Thị Quyên (2013), “So sánh dấu hiệu phạm tội hiếp dâm trong Bộ luật hình
sự Việt Nam hiện hành với Bộ luật hình sự của một số nước và một số kiến
nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân (07).
4


Có thể nhận thấy, đề tài về tội hiếp dâm đã nhận được sự quan tâm
nghiên cứu của rất nhiều tác giả, trong đó có tác giả làm rõ các dấu hiệu pháp
lý, khái niệm, đặc điểm của tội hiếp dâm. Cũng có tác giả phân tích khía cạnh
định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm. Tuy nhiên, trong bối
cảnh tỉnh hình tội phạm phức tạp như hiện nay thì nghiên cứu thực tiễn định
tội danh, quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
là cần thiết và chưa có tác giả nào nghiên cứu. Chính vì vậy, việc lựa chọn đề
tài “Tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” không bị trùng lặp với các
nghiên cứu đi trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là làm rõ cơ sở khoa học, pháp

lý của tội hiếp dâm, đánh giá thực tiễn định tội danh, quyết định hình phạt đối
với tội hiếp dâm qua đó rút ra được những hạn chế, tìm ra những nguyên nhân
làm cơ sở đề xuất các giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng pháp
luật hình sự về tội hiếp dâm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể để làm rõ các mục
đích nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, phân tích lý luận về tôi hiếp dâm và các quy định cụ thể về
tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự của Việt Nam;
Thứ hai, đánh giá thực tiễn định tội danh, quyết định hình phạt đối với
tội hiếp dâm qua thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh, rút ra những hạn chế, nguyên
nhân của những hạn chế này;
Thứ ba, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng
pháp luật hình sự về tội hiếp dâm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật và thực tiễn
định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đề tài luận văn được nghiên cứu về tội hiếp dâm trong
phạm vi ngành khoa học luật với chuyên ngành Luật hình sự.
Về không gian, luận văn được nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Về thời gian, luận văn thu thập dữ liệu và các vụ án điển hình từ năm
2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách,
chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tội
phạm và hoàn thiện pháp luật đối với các tội phạm nói chung và tội hiếp dâm
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh được nghiên cứu trên cơ sở các
phương pháp của khoa học hình sự, luật học với các phương pháp chủ yếu như
phương pháp hệ thống, lịch sử; phương pháp liệt kê, so sánh; phương pháp
logic và phướng pháp phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở lý luận gắn với thực tiễn đấu tranh, phòng chống các tội
hiếp dâm trong Bộ luật Hình sự hiện hành để làm sáng tỏ những kiến thức cơ
bản nhất cũng như chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong các quy định về
loại tội phạm này, đồng thời đưa ra quan điểm, làm sáng tỏ về những vấn đề
6


gây tranh cãi xoay quanh nội dung của tội phạm hiếp dâm góp phần bổ sung
vào kho tàng lý luận về một tội phạm cụ thể - tội hiếp dâm, qua đó góp phần
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ vững
chắc quyền con người, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học để các cơ quan quản
lý nhà nước, các nhà làm luật tham khảo để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện sách
pháp luật và nâng cao hiệu quả chính sách, pháp luật về tội hiếp dâm ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. Luận văn có thể được
sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy về
pháp luật ở bậc cao đẳng, đại học hoặc sau đại học về tội phạm cụ thể là tội
hiếp dâm.

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn bao gồm 3 chương sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội hiếp dâm;
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm ở
tỉnh Bắc Ninh;
Chương 3. Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng
pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI HIẾP DÂM
1.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý tội hiếp dâm
1.1.1. Khái niệm tội hiếp dâm
Để tìm hiểu nội dung của tội phạm hiếp dâm, trước hết chúng ta cần
tìm hiểu khái niệm tội hiếp dâm.
Theo từ điển tiếng Việt thì “hiếp dâm” được hiểu là “dùng sức mạnh để
cho thỏa mãn sự dâm dục” [19, tr.345], còn theo Từ điển bách khoa thì “hiếp
dâm” được hiểu là “dùng sức mạnh cưỡng bức người khác để thỏa mãn nhu
cầu tình dục của mình” [34, tr.421]. Hai khái niệm nêu trên đều giải thích
“hiếp dâm” theo một hành động có tính chủ đích và cưỡng chế đối với một cá
nhân khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục.
Theo quan điểm của các nhà khoa học tại Trường Đại học Luật Hà Nội
thì khái niệm tội hiếp dâm được định nghĩa trong Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm, quyển 1) (2014) là: hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc

bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái
với ý muốn của nạn nhân [31, tr.116].
Còn theo quan điểm của TANDC thì: “hiếp dâm là hành động bắt buộc
người phụ nữ phải chịu sự giao cấu trái ý muốn hoặc không có ý muốn của
người đó bằng cách dùng bạo lực về thể chất, hay là uy hiếp về tinh thần, hay
là lợi dụng hoặc gây ra tình trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của
người đó” [20].
Đây cũng chính là quan niệm về giao cấu truyền thống, được sử dụng
cho khái niệm “giao cấu” trong quy định tại Điều 111 Bộ luật Hình sự năm
1999 và áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử tội hiếp dâm.
8


Đến nay, trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141. Theo khoản 1, Điều 141 bộ luật này
thì “tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân” [23].
Theo quan điểm cá nhân, tác giả đồng ý với định nghĩa tội hiếp dâm
theo Bộ luật Hình sự năm 2015 vì nó đầy đủ, rõ ràng, đưa cả các hành vi quan
hệ tình dục khác cũng là hiếp dâm là phù hợp với lí luận và thực tiễn tình hình
tội phạm xâm hại tình dục nói chung và tội phạm hiếp dâm nói riêng. Để hiểu
rõ hơn về nhận định này, luận văn sẽ đi sâu vào phân tích những dấu hiệu
pháp lý của tội hiếp dâm theo Bộ luật Hình sự năm 2015 và có sự so sánh với
quy định tương ứng của Bộ luật Hình sự năm 1999.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của của tội hiếp dâm
1.1.2.1. Khách thể của tội hiếp dâm
Khách thể của tội hiếp dâm là quyền bất khả xâm phạm về tình dục mà
đối tượng tác động của tội phạm là phụ nữ từ đủ 16 tuổi trở lên. Tuy nhiên,
trong bối cảnh của giai đoạn hiện nay, khi tình hình kinh tế - xã hội đã có

những thay đổi rất lớn thì không chỉ phụ nữ, trẻ em gái mà cả nam giới và trẻ
em nam cũng là đối tượng có thể bị xâm phạm về tình dục và quyền bất khả
xâm phạm về tình dục của nam giới, trẻ em nam cũng cần được pháp luật bảo
vệ. Chính vì vậy, cần có sự thay đổi trong quan niệm về khách thể của tội
hiếp dâm, để phù hợp với tình hình xã hội và diễn biến ngày càng phức tạp
của tội phạm.
So sánh với khách thể của tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 Bộ
luật Hình sự năm 1999, khách thể của tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 141
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những thay đổi. Theo quy định tại khoản 1,
Điều 141 này thì “tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
9


hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ
đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn
của nạn nhân” [23]. Theo hướng giải thích quy định của Bộ luật Hình sự năm
2015, nhà làm luật đưa thêm vào cấu thành cơ bản trường hợp: cùng giới giao
cấu với nhau, thỏa mãn nhu cầu tình dục. Đồng thời, với những quy định mới
trong pháp luật hình sự hiện hành thì đã mở rộng phạm vi các hành vi bị coi là
phạm tội hiếp dâm, đáp ứng yêu cầu thực tiễn tình hình tội phạm, xét xử đối
với tội hiếp dâm vì hiện nay có rất nhiều hình thức quan hệ tình dục khác
nhau. Như vậy, nam giới cũng có thể là nạn nhân của tội hiếp dâm. Chính vì
vậy mà khách thể của tội hiếp dâm trong Bộ luật Hình sự năm 2015 phải được
hiểu là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con người mà đối tượng tác
động là cả nam và nữ từ đủ 16 tuổi trở lên.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội hiếp dâm
Nghiên cứu về khoa học hình sự, pháp luật hình sự hiện hành thì mặt
khách quan của tội hiếp dâm bao gồm các dấu hiệu sau đây:
Dấu hiệu thứ nhất, người phạm tội có thể có một trong các thủ đoạn
(hành vi) sau: Hành vi dùng vũ lực; Hành vi đe dọa dùng vũ lực; Lợi dụng

tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân; Thủ đoạn khác.
Dấu hiệu thứ hai, người phạm tội hiếp dâm khi có có hành vi giao cấu
với nạn nhân trái ý muốn của họ. Đồng thời, tội phạm hiếp dâm được hoàn
thành khi có hành vi giao cấu với nạn nhân.
Để hiểu rõ mặt khách quan của tội phạm này, cần tìm hiểu từng hành vi
khách quan cụ thể: Hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác
Dùng vũ lực là các hành vi thực hiện để buộc nạn nhân phải cho người
phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác như: Vật lộn, giữ chân
tay, bịt mồm, đánh đấm, trói… Những hành vi này chủ yếu làm tê liệt sự
10


kháng cự của người bị hại để người phạm tội thực hiện việc giao cấu hoặc
hành vi tình dục khác.
Đe doạ dùng vũ lực là hành vi dùng lời nói hoặc hành động uy hiếp tinh
thần của người khác, làm cho người bị đe doạ sợ hãi như: doạ giết, doạ bắn,
dọa đánh… làm cho người bị hại sợ hãi phải để cho người phạm tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi tình dục khác trái với ý muốn của mình. Pháp luật hình
sự hiện hành không quy định về đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, nên có thể
hiểu hành vi đe doạ dùng vũ lực được pháp luật quy định ở đây bao gồm cả
trường hợp đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc và trường hợp đe doạ dùng vũ
lực sau đó cách một thời gian nhất định [24, tr.17-18].
Trong trường hợp nạn nhân rơi vào tình trạng bị giao cấu mà không thể
chống cự lại được thì được gọi là hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân. Tình trạng này có thể có sẵn ở nạn nhân (nạn nhân bị bại
liệt, bệnh tâm thần...) hoặc do người phạm tội tạo ra (người phạm tội cho nạn
nhân uống thuốc mê, thuốc ngủ), hoặc do các nguyên nhân khách quan khác
(nạn nhân bị say, bất tỉnh, ốm đau bệnh tật mà sức khoẻ yếu...).
Thủ đoạn khác trong mặt khách quan của tội phạm hiếp dâm là những

thủ đoạn ngoài những hành vi cụ thể đã được quy định trong cấu thành tội
phạm hiếp dâm theo pháp luật hình sự hiện hành (dùng vũ lực, đe doạ dùng
vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân) như cho uống
thuốc kích dục, lợi dụng thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân
khi sự hiểu biết của nạn nhân còn hạn chế.
Căn cứ vào những quy định về tội hiếp dâm trong Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), ta thấy những thay đổi quan trọng về mặt
khách quan của tội hiếp dâm, cụ thể “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
trái ý muốn của nạn nhân”. Chính vì vậy, so với quy định của pháp luật hình
sự trước đây thì mặt khách quan của tội hiếp dâm theo quy định trong Bộ luật
11


Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) gồm hai dấu hiệu: dấu hiệu
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác và dấu hiệu giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân.
Trước đây, chúng ta quan niệm hành vi giao cấu chỉ bó hẹp trong phạm
vi được thực hiện giữa hai người khác giới. Quan niệm này không còn phù
hợp với tình hình hiện nay khi mà hành vi quan hệ tình dục không chỉ thực
hiện tại bộ phận sinh dục của phụ nữ mà còn có thể thực hiện ở các bộ phận
khác của cơ thể như hậu môn, miệng. Mặt khác, quan hệ tình dục không chỉ
giữa những người khác giới mà còn được thực hiện giữa những người đồng
giới. Theo hướng này, các nhà làm luật khi xây dựng Bộ luật Hình sự năm
2015 đã đưa thêm vào cấu thành cơ bản trường hợp cùng giới giao cấu với
nhau, thỏa mãn nhu cầu tình dục đồng mở rộng phạm vi các hành vi bị coi là
phạm tội hiếp dâm, đáp ứng yêu cầu thực tiễn vì hiện nay có rất nhiều hình
thức quan hệ tình dục, đặc biệt là dùng các dụng cụ để quan hệ tình dục và
quan hệ tình dục của những người đồng giới. Vì vậy, dù hiện nay chưa có văn
bản mới giải thích khái niệm “giao cấu”, nội hàm khái niệm này dù không

được mở rộng thì “hành vi quan hệ tình dục khác” cũng có thể bao trùm được
những những hành vi này.
1.1.2.3. Chủ thể của tội hiếp dâm
Theo quy định về tội hiếp dâm tại Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015,
điều luật này đã có một sửa đổi quan trọng trong cấu thành cơ bản, đó là quy
định hành vi khách quan “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý
muốn của nạn nhân” bên cạnh hành vi giao cấu trái ý muốn. Tuy chưa có văn
bản giải thích thế nào là “hành vi quan hệ tình dục khác” [23] nhưng khi giải
trình quy định này trong các văn bản hướng dẫn, các nhà làm luật đã giải
thích theo hướng: Đưa thêm vào cấu thành cơ bản trường hợp: cùng giới giao
12


cấu với nhau, thỏa mãn nhu cầu tình dục; mở rộng phạm vi các hành vi bị coi
là phạm tội hiếp dâm, đáp ứng yêu cầu thực tiễn vì hiện nay có rất nhiều hình
thức quan hệ tình dục, đặc biệt là dùng các dụng cụ để quan hệ tình dục và
quan hệ tình dục của những người đồng giới. Như vậy, với việc mở rộng
phạm vi các hành vi bị coi là phạm tội hiếp dâm thì nữ giới có thể là chủ thể
của tội phạm hiếp dâm trong trường hợp quan hệ khác giới và cùng giới.
Đồng thời, như đã phân tích ở trên, nữ giới cũng có thể là chủ thể của tội
phạm hiếp dâm trong cả trường hợp giao cấu trái ý muốn với nam giới. Vậy
nên, phải hiểu chủ thể của tội hiếp dâm, theo quy định của Bộ luật Hình sự
năm 2015 là chủ thể thường.
Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi về độ tuổi
của chủ thể của tội hiếp dâm. Nếu theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự
năm 1999, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
hiếp dâm theo tất cả các khung; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội hiếp dâm theo các khung tăng nặng thứ nhất,
thứ hai và thứ ba (không phải chịu TNHS về tội hiếp dâm theo khung cơ bản
vì đây là tội nghiêm trọng). Tuy nhiên, sang Bộ luật Hình sự năm 2015, khoản

2 Điều 12 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đã có sự thay đổi: “2.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:...”. Theo quy định này
thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
hiếp dâm cho dù đó là tội nghiêm trọng, tức là phải chịu cả TNHS về tội hiếp
dâm theo quy định của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 141 Bộ luật Hình sự năm
13


2015.Như vậy, chủ thể của tội hiếp dâm (nói chung) theo quy định của Bộ
luật Hình sự năm 2015 là người từ đủ 14 tuổi trở lên [23].
Tuy nhiên, quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về vấn đề người từ
đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội hiếp dâm có
phần không hợp lý. Bởi tội hiếp dâm theo Điều 141 khoản 1 Bộ luật Hình sự
năm 2015 là tội nghiêm trọng. Việc quy định như vậy đã làm mở rộng phạm
vi xử lý đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, mâu thuẫn với chính
quy định ở phần tiếp theo của Điều 12 về việc người trong độ tuổi này chỉ
phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại một số điều. Bên cạnh đó, việc Điều 12 quy định người từ
đủ 14 tuổi, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội hiếp dâm ở khoản 1
Điều 141 cũng không phù hợp với nguyên tắc “những lợi ích tốt nhất của trẻ
em phải là mối quan tâm hàng đầu” quy định tại Điều 3 Công ước Liên hợp
Quốc về quyền của trẻ em năm 1989, đồng thời không đáp ứng được một
trong những lý do sửa đổi, bổ sung chương “tội phạm” của Bộ luật Hình sự
năm 1999 là thu hẹp phạm vi tội phạm mà người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quan điểm của tác

giả, không nên quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS
về tội hiếp dâm theo khoản 1 mà vẫn giữ nguyên như quy định của Bộ luật
Hình sự năm 1999, tức là chỉ phải chịu TNHS về tội hiếp dâm theo các khoản
2, 3, 4 Điều 141 Bộ luật Hình sự năm 2015 [23].
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội hiếp dâm
Theo quy định về tội hiếp dâm trong Bộ luật Hình sự năm 1999, “lỗi
của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp” [21]. Người phạm tội biết hành vi
giao cấu của mình là trái ý muốn của nạn nhân nhưng vẫn mong muốn thực
hiện hành vi đó bằng một trong những thủ đoạn được phân tích trong phần
mặt khách quan của tội phạm theo tôi là “bị hại”.
14


Khi xác định lỗi của người phạm tội hiếp dâm cần xác định người phạm
tội hiếp dâm có biết rõ hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác và hành vi
giao cấu của mình là nguy hiểm cho xã hội và trái ý muốn của nạn nhân
nhưng vẫn thực hiện vì mong muốn hành vi đó bởi vì Tội hiếp dâm là tội có
cấu thành tội phạm hình thức. Có thể thấy rằng Điều 111 Bộ luật Hình sự năm
1999 mô tả thái độ của nạn nhân đối với hành vi giao cấu là trái ý muốn
nhưng không mô tả thái độ biết rõ của người phạm tội. Có thể mô tả thái độ
biết rõ sự trái ý muốn của nạn nhân trong cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm
nhằm thể hiện rõ dấu hiệu lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, cùng với việc miêu tả
thái độ trái ý muốn của nạn nhân, nhà làm luật Việt Nam cũng có thể mô tả
thái độ biết rõ của người phạm tội [21].
Bên cạnh đó, khi thực hiện việc so sánh với quy định tương ứng của Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), có thể thấy, về mặt chủ
quan của tội phạm hiếp dâm không có gì thay đổi nhiều so với các quy định
tại các bộ luật hình sự trước đây. Tội hiếp dâm vẫn được thực hiện với lỗi cố
ý trực tiếp thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân và người phạm tội hiếp

dâm biết rõ hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác và hành vi giao cấu
hoặc hành vi quan hệ tình dục khác là nguy hiểm cho xã hội và trái ý muốn
của nạn nhân những vẫn thực hiện vì mong muốn hành vi đó.
1.1.3. Phân biệt tội hiếp dâm với các tội danh khác
Nghiên cứu về tội hiếp dâm, tác giả thực hiện so sánh tội hiếp dâm với
các tội danh khác theo tổng hợp tại Bảng 1.1 dưới đây.

15


Bảng 1.1. So sánh tội hiếp dâm với các tội danh khác
Khái niệm

Hiếp dâm

Cưỡng dâm

Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
hoặc lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ
đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện
HV QH tình dục khác trái với ý
muốn của nạn nhân

Dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ
thuộc mình hoặc người đang ở
trong tình trạng quẫn bách phải
miễn cưỡng giaocấu hoặc miễn
cưỡng thực hiện HV QH tình dục

khác.

Độ tuổi người Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 Độ tuổi người phạm tội
phạm tội
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng

Dâm ô

Giao cấu

BLHS 2015 vẫn chưa làm Giao cấu hoặc thực
rõ khái niệm dâm ô so với hiện HV QH tình dục
BLHS 1999. Theo đó, HV khác, nếukhông
dâm ô này phải “Không
nhằm mục đích giao cấu
hoặc không nhằm thực
hiện HVQH tình dục khác"
Người từ đủ 14 tuổi đến Độ tuổi người phạm
dưới 16 tuổi phải chịu tội
trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm
trọng

Độ tuổi bị hại

Chia làm các mức với trách nhiệm Chia làm các mức với trách nhiệm Dưới 16 tuổi
khác nhau:

khác nhau:
- Dưới 16 tuổi
- Dưới 16 tuổi
- Từ đủ 16 tuổi
- Từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi
đến dưới 18 tuổi
- Từ đủ 18 tuổi
- Từ đủ 18 tuổi
trở lên
trở lên

Hành vi

- Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực Dùng mọi thủ đoạn khiến nạn - Dùng thủ đoạn có tính Giao cấu hoặc thực

18

- Từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi


hoặc lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ
đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện
HV QH tình dục khác
- Trái với ý muốn nạn nhân.

nhân miễn cưỡng giao cấu hoặc
miễn cưỡng thực hiện HV quan hệ

tình dục khác.
(không là vũ lực,
VD: lợi dụng hoàn cảnh đang nợ

chất loạn dâm dục.
hiện hành vi quan hệ
- Không nhằm mục đích tình dục khác
giao cấu hoặc không nhằm
thực hiện các HV quan hệ
tình dục khác.

tiền của nạn nhân, ép buộc nạn
nhân giao cấu để trừ nợ)
Hình phạt

- Phạt tù từ 02 năm đến chung thân,
tử hình, tùy theo mức độ vi phạm.
- Phạm tội đối với người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù
từ 05 năm đến 10 năm
- Hiếp dâm người dưới 16
tuổi phạt tù từ 7 năm đến chung
thân, hay tử hình tùy theo mức độ
vi phạm.

- phạt tù từ 1 năm đến 20 năm
hoặc chung thân
- Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm

- Cưỡng dâm người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi phạt tù từ
05 năm đến 20 năm hoặc tù chung
thân tùy vào mức độ vi phạm mà
có khung hình phạt cụ thể

Căn cứ

Điều 141, 142 BLHS sửa đổi, bổ Điều 143, 144 BLHS sửa đổi, bổ Điều 146 BLHS sửa đổi, Điều 145 BLHS sửa
sung 2017
sung 2017
bổ sung 2017
đổi,bổ sung 2017

19

Dâm ô với người dưới 16
tuổi thì bị phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm,
Tùy theo mức độ vi phạm
mà khung hình phạt từ 3
năm đến 12 năm

Giao
cấu
với
người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi thì
phạt tù từ 1 năm đến
15 năm



1.2. Lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt tội hiếp dâm
1.2.1. Định tội danh tội hiếp dâm
Tội hiếp dâm là tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, nghĩa là
pháp luật chỉ quy định hành vi phạm tội mà không quy định hậu quả xảy ra.
Vì vậy đối tội danh này sẽ căn cứ vào những hành vi gây nguy hiểm cho
người bị hại. Căn cứ để định danh và truy cứu trách nhiệm hình sự ngay cả
khi hậu quả chưa xảy ra.
Định tội danh đối với tội hiếp dâm cũng giống như đối với loại tội
phạm khác theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành là sự xác nhận về
mặt pháp lý sự phù hợp (sự đồng nhất trong các quy định của pháp luật hình
sự) giữa hành vi hiếp dâm đã thực hiện trong thực tế khách quan với các dấu
hiệu trong cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong Điều 141 Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hay nói cách khác
chúng ta cũng có thể hiểu, việc định tội danh đối với tội hiếp dâm là xác định
một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm của tội hiếp dâm đã được quy định trong Điều 141 Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bên cạnh đó, định tội danh đối với tội
hiếp dâm là hoạt động thực tiễn quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng
và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hình sự
hiện hành.
Căn cứ các quy định pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017), các cơ quan có thẩm quyền định tội danh đối với tội
hiếp dâm sẽ xem xét, đánh giá một hành vi cụ thể đã thực hiện trên thực tế có
thỏa mãn các dấu hiệu của tội tội hiếp dâm được quy định trong Bộ luật Hình
sự hiện hành rồi trên cơ sở đó mới xác định vấn đề trách nhiệm hình sự của
người phạm tội hiếp dâm.

20



Định tội danh đối với các loại tội phạm là hoạt động có tính tư duy,
logic chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền, đòi hỏi một số yêu cầu đối với
người tiến hành định tội danh đối với tội hiếp dâm khi xem xét, đánh giá các
tình tiết của vụ án nói chung và vụ án hiếp dâm nói riêng [38, tr.47].
1.1.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm
Theo pháp luật hình sự hiện hành thì quyết định hình phạt đối với tội
hiếp dâm được thực hiện theo đúng quy định của tố tụng hình sự và là hoạt
động thực tiễn của cơ quan xét xử do Hội đồng xét xử thực hiện căn cứ vào
các quy định pháp luật hình sự hiện hành, trên cơ sở kết quả của hoạt động
định tội danh đối với tội hiếp dâm trước đó để xác định biện pháp xử lý tương
ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hiếp
dâm của người phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ,
tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội hiếp dâm trong pháp luật
hình sự hiện hành. Trong khi thực hiện hoạt động quyết định hình phạt đối
với tội hiếp dâm, Tòa án có thẩm quyền quyết định miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại và mức hình
phạt hay biện pháp tư pháp thay thế hình phạt cụ thể được quy định trong luật
hình sự hiện hành để áp dụng đối với người phạm tội hiếp dâm thể hiện trong
bản án kết tội đối với họ [37].
* Nguyên tắc quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm
(1) Nguyên tắc pháp chế XHCN
Trong pháp luật hình sự Việt Nam, nội dung nguyên tắc pháp chế
XHCN khi thực hiện việc quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm của Tòa
án được thể hiện trong các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành không chỉ
của Phần chung mà còn cả các quy định của Phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự. Nội dung của nguyên tắc pháp chế XHCN còn biểu hiện ở chỗ, khi
quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm, Tòa án các cấp phải tuân theo trình
21



tự tố tụng hình sự nhất định, các điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt cụ
thể (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) và đặc biệt Tòa án các cấp chỉ có
thể tuyên những hình phạt được quy định trong BLHS hiện hành về tội hiếp
dâm. Mặt khác, khi áp dụng dụng các nội dung của nguyên tắc pháp chế
XHCN khi quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm trong thực tiễn đòi hỏi
các quy định về mục đích hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt phải được
Tòa án triệt để tuân thủ khi quyết định phạt đối với loại tội phạm này.
(2) Nguyên tắc nhân đạo XHCN
Nguyên tắc nhân đạo trong việc thực hiện quyết định hình phạt đối với
tội phạm hiếp dâm được thể hiện trong các quy định Phần chung và Phần các
tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam. Thực hiện nguyên tắc
nhân đạo XHCN khi quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm đòi hỏi khi
quyết định hình phạt, Tòa án nhân dân các cấp phải xuất phát từ tư tưởng
nhân đạo để áp dụng và tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật hình sự về
hình phạt cũng như quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm. Đồng thời,
thực hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN đòi hỏi hình phạt, các biện pháp tư
pháp và các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác được áp dụng đối với người
phạm tội nói chung và người phạm tội hiếp dâm nói riêng không nhằm mục
đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con người.
(3) Nguyên tắc cá thể hóa TNHS
Nội dung của nguyên tắc cá thể hóa khi quyết định hình phạt đối với tội
hiếp dâm được thể hiện trong luật hình sự cũng như trong thực tiễn áp dụng
luật hình sự khi xét xử đối với tội phạm hiếp dâm hiện nay. Trong luật hình sự
hiện hành, nguyên tắc cá thể hóa TNHS trong quyết định hình phạt đối với tội
hiếp dâm được thể hiện trong các quy phạm Phần chung và các quy phạm
Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự quy định về tội hiếp dâm. Trong áp
dụng pháp luật hình sự trong xét xử, quyết định hình phạt, nguyên tắc cá thể
22



×