Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Luận văn biện pháp tạm giam từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.83 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ LỤA

BIỆN PHÁP TẠM GIAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ LỤA

BIỆN PHÁP TẠM GIAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học
xã hội.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM ... 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam ................................... 7
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam về biện
pháp tạm giam ......................................................................................... 11
1.3. Biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự một số quốc
gia trên thế giới ....................................................................................... 14
Tiểu kết Chương 1................................................................................... 17
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH............................................................ 19
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp tạm
giam ......................................................................................................... 19
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh ......................................................................................................... 26
Tiểu kết Chương 2................................................................................... 40
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH . 41

3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam................ 41
3.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam và giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam ............................ 43
Tiểu kết Chương 3................................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
BPNC: Biện pháp ngăn chặn
BPTG: Biện pháp tạm giam
CQĐT: Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
HĐXX: Hội đồng xét xử
TAND: Tòa án nhân dân
TTHS: Tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
CQĐT: Cơ quan điều tra
PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự


BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu thụ lý án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh...................... 26
giai đoạn năm 2015 đến năm 2019 ................................................................. 26
Bảng 2.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh giai đoạn năm 2015 đến năm 2019 .............................................. 27
Bảng 2.3. Số bị can, bị cáo của một số nhóm tội bị áp dụng biện pháp tạm
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn năm 2015 đến năm 2019............ 28



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là là di sản lớn của nhân loại, việc bảo đảm quyền
con người trong các lĩnh vực của đời sống pháp luật là trách nhiệm của từng
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong đó, hoạt động tố tụng hình sự là một
mặt hoạt động của Nhà nước liên quan rất chặt chẽ với quyền con người, đặc
biệt là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giam. Đây là biện pháp
ngăn chặn nghiêm khắc nhất, tác động lớn đến quyền con người như quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, quyền tự do đi lại....của con
người và cũng là biện pháp được áp dụng rất phổ biến trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử các vu án.
Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng và nằm trong Vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ, với 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1
thành phố, 1 thị xã, 6 huyện với 126 đơn vị hành chính cấp xã, là tỉnh đang có
sự phát triển rất mạnh trên các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, xã hội nhưng
theo đó thì tình hình tội phạm hình sự cũng đang diễn biến rất phức tạp. Theo
số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh thì trong khoảng thời gian từ năm
2015 đến năm 2019 thì toàn tỉnh Bắc Ninh đã xử lý 8949 vụ với 12603 bị can,
bị cáo bị khởi tố và đưa ra xét xử, trong đó việc áp dụng biện pháp tạm giam
được sử dụng khá hiệu quả, chiếm số lượng rất lớn, nhiều trường hợp căn cứ
tạm giam chưa được thể hiện cụ thể, còn chung chung như “để đảm bảo cho
công tác điều tra, xử lý”, “thấy rằng cần thiết phải tạm giam bị can, không để
bị can trốn”. Vẫn còn tình trạng lạm dụng tạm giam, sử dụng tạm giam như là
biện pháp nghiệp vụ. Năng lực, trình độ của cán bộ cơ quan tư pháp tỉnh vẫn
còn hạn chế, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nhà tạm giữ giam giữ chung những
người trong cùng một vụ án, không đảm bảo diện tích giam giữ tối thiểu (Trại
tạm giam Công an tỉnh; Nhà tạm giữ thành phố Bắc Ninh, Quế Võ, Tiên Du,
Gia Bình…) đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của việc giải quyết vụ án và

áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

1


BLTTHS năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018), thay thế
BLTTHS năm 2003, đã bổ sung nhiều điểm mới về biện pháp tạm giam, trong
đó có nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ để nhận thức
thống nhất, áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
Trong khi đó, trong số các công trình nghiên cứu khoa học hiện nay vẫn chưa
có công trình nào nghiên cứu về đề tài trên trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh, và
trong khoảng thời gian nghiên cứu là từ năm 2015 đến năm 2019.
Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài:
“Biện pháp tạm giam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có một số công trình khoa học nghiên
cứu, đề cập ở các góc độ và phạm vi khác nhau, mà điển hình như:
(i) Về sách chuyên khảo (Giáo trình, Bình luận khoa học BLTTHS):
Nguyễn Văn Nguyên (1995), Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng
cao hiệu quả của chúng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Mai Bộ
(1997), Những biện pháp ngăn chặn trong TTHS, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội; Lê Cảm (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên)
(2001), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội;
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam , Nxb Hồng Đức Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội; GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2011),
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Học viện
Khoa học Xã hội (2012), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS, Nxb Tư pháp, Hà

Nội; PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (2005), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Trần Văn Biên, TS. Đinh Thế
Hưng (đồng chủ biên, 2017), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb
Thế giới, Hà Nội; v.v....
2


(ii) Luận văn thạc sĩ, tiến sĩ: Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp
ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội; Nguyễn Trọng Phúc (2010), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa luật – Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội; Trương Hùng Thanh (2012), Các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn của thành phố Đà Nẵng, Luận văn
thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội; Quách Đình Lực (2009), Cơ sở lý
luận và thực tiễn kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Hòa Bình, Luận văn
thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh;
Nguyễn Phạm Tố Phong (2013), Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh; Nguyễn Quốc Doanh (2015), Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, Luận văn thạc
sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Bình Dương (2018), Kiểm
sát việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc
sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội; v.v….
(iii) Tạp chí và các tài liệu khác: Phạm Mạnh Hùng (2007), Hoàn thiện
các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật TTHS theo yêu cầu
của cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội; Đoàn Tấn Minh (2009), Áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số

7/2009, Hà Nội; Mai Bộ, Hoàng Ngọc Thành (2003), Về các biện pháp ngăn
chặn trong dự thảo của Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 08, tr.9-12, Hà Nội; Tài liệu tập huấn công tác kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, quản lý và thi hành án hình sự của Viện KSNDTC, năm 2013; Tài
liệu Hội thảo quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự: Hoàn thiện

3


quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp của PGS,TS Trần Văn Độ, năm 2010; v.v…
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở khái quát
chung hoặc được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên
cứu khác về biện pháp ngăn chặn, hoặc nghiên cứu về biện pháp tạm giam
trong bối cảnh BLTTHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật; đồng thời,
chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài trên trong phạm vi một tỉnh là tỉnh
Bắc Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài trên có tính lý luận và tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật TTHS về tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, nhằm đưa ra giải
pháp hoàn thiện pháp luật về tạm giam và nâng cao hiệu quả áp dụng tạm
giam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp tạm giam
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Phân tích những quy định của BLTTHS hiện hành về biện pháp tạm
giam, đánh giá việc áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
- Luận văn đưa ra ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy

định về biện pháp tạm giam, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về biện
pháp tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là biện pháp ngăn chặn tạm giam từ
thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam về biện pháp tạm giam, trọng tâm là quy định của BLTTHS 2015, trong
khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, trong phạm vi không gian là tỉnh
Bắc Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật,
quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước Pháp
quyền, về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể và đặc thù như: phương pháp phân tích và tổng hợp; so sánh, đối
chiếu, diễn dịch, quy nạp, tổng kết thực tiễn...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần nâng cao nhận thức pháp luật về
biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng, cũng như
góp phần hoàn thiện lý luận và pháp luật về biện pháp ngăn chặn tạm giam
trong PLTTHS.
Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để cơ

quan, người có thẩm quyền, đặc biệt là cơ quan, người có thẩm quyền của tỉnh
Bắc Ninh nghiên cứu, vận dụng trong quá trình áp dụng pháp luật về biện
phạm tạm giam. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu
5


tham khảo đối với người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về hình sự và tố
tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Lý luận và pháp luật về biện pháp tạm giam
Chương 2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về biện
pháp tạm giam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

6


Chương 1
LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM
1.1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam
1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong
các biện pháp ngăn chặn của PLTTHS.
Đối với khái niệm biện pháp tạm giam được nhiều tác giả nghiên cứu
và đưa ra nhiều khái niệm khác nhau:
Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường đại học
Luật Hà Nội: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội rất

nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiệm trọng hay bị can, bị cáo về tội
nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật [50, tr.253].
Giáo trình Luật Việt Nam của Trung tâm Đào tạo từ xa Huế cho rằng:
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự mà theo đó Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng trong những trường hợp nhất
định có thể tước tự do đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc
bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử [52, tr. 244].
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội đưa ra khái niệm: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất,
do việc tước bỏ quyền tự do thân thể trong một thời hạn tương đối dài so với
biện pháp tạm giữ và các biện pháp ngăn chặn không tước quyền tự do thân
thể khác [17, tr. 220].
Theo tác giả, các khái niệm trên đều có nhân tố hợp lý. Tuy nhiên, một
số khái niệm vẫn cho rằng biện pháp tạm giam là tước tự do của bị can, bị cáo
là không chính xác. Bởi vì, việc quyết định tước tự do theo theo PLHS Việt
Nam chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa án và được thể hiện trong Bản án nhân
danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Cơ quan điều tra,

7


VKS đều không có quyền này. Một số khái niệm vẫn nhầm lẫn căn cứ áp
dụng biện pháp tạm giam là để “đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử
được thuận lợi”, đây không phải là mục đích chính của việc áp dụng BPTG
mà chỉ là một “dạng” kết quả có được từ việc áp dụng tạm giam.
Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật và tiếp thu quan điểm
nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm biện pháp tạm giam như sau: Biện pháp tạm
giam là biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS do cơ quan,
người có thẩm quyền TTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo để cách ly họ khỏi
xã hội trong khoảng thời gian nhất định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm,

ngăn chặn việc những người này gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội.
1.1.2. Đặc điểm và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
*Đặc điểm:
- Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong PLTTHS
Việt Nam, ảnh hưởng đến nhiều quyền và lơi ích của cá nhân như quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại, quyền hội họp, tiếp xúc …với
thời gian áp dụng dài hơn nhiều so với các biện pháp ngăn chặn khác.
- Tạm giam mặc dù là BPNC nghiêm khắc nhất nhưng tạm giam không
phải là hình phạt tù bởi vì mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và
hành vi phạm tội …còn hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của
Nhà nước do Tòa án áp dụng nhằm trừng trị và giáo dục người phạm tội đã bị
kết án.
- Tạm giam là biện pháp có tính chất lựa chọn, không phải bắt buộc áp
dụng cho mọi bị can, bị cáo ngay cả khi đã có đủ căn cứ mà căn cứ chỉ là điều
kiện để áp dụng tạm giam.
- Tạm giam là BPNC tạm thời cách ly người bị áp dụng (bị can, bị cáo)
do Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường
hợp do luật định. Thời hạn tạm giam phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng cũng

8


như tính chất phức tạp của vụ án mà bị can, bị cáo thực hiện và cũng theo quy
định của pháp luật.
*Căn cứ áp dụng:
Thứ nhất, đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn
như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng vi phạm
nghĩa vụ theo luật định...thì cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam. Đối
với bị can, bị cáo có biểu hiện tiếp tục phạm tội thì việc áp dụng biện pháp

cách li họ với xã hội hoặc hạn chế các điều kiện để họ không thể tiếp tục
phạm tội là rất cần thiết.
Thứ hai, khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Hành vi gây khó khăn cho hoạt động này được thể hiện qua việc sau
khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có hành vi mua
chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai
sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản
liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này hoặc bỏ trốn
và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn, đã bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác nhưng vẫn vi phạm… dẫn đến việc xác định sự thật của
vụ án sẽ gặp nhiều khó khăn, có trường hợp làm thay đổi hoàn toàn bản chất
của vụ án từ có tội thành vô tội.
Thứ ba, để đảm bảo thi hành án
Công tác thi hành án hình sự nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của tòa án. Đây là việc vô cùng quan trọng, nhằm đảm
bảo tính hiệu quả, nghiêm minh của pháp luật. Khi cần đảm bảo thi hành án,
tùy theo tính chất cụ thể của từng vụ án, tùy theo nhân thân của người bị kết
án để áp dụng BPNC phù hợp, nếu có căn cứ chứng tỏ rằng bị cáo có thể trốn thì
để bảo đảm công tác thi hành án cần áp dụng biện pháp tạm giam ngay, vì đây là
biện pháp hữu hiệu nhất.
9


1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
1.1.3.1. Mục đích của biện pháp tạm giam
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam nhằm mục đích chung
gồm: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo
sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố và xét xử; Căn cứ chứng tỏ bị

can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội; Để bảo đảm thi hành án.
Tạm giam còn có mục đích riêng tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng,
nhưng tựu trung lại đó là: nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của
Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án.
Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra tiến hành nhiều biện pháp
nghiệp vụ nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào
thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, giúp cho việc
quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ. Đây cũng chính là biện pháp đánh
mạnh vào tư tưởng chống đối, ngoan cố của bị can, tạo thuận lợi cho Cơ quan
điều tra, VKS có thể triển khai được nhiều biện pháp nghiệp vụ khác để làm
sang tỏ vụ án. Có thể nói đây kết quả có được từ việc áp dụng tạm giam.
- Việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm báo cho việc thi
hành án có hiệu lực pháp luật được hiệu quả, thuận lợi.
1.1.3.2. Ý nghĩa của biện pháp tạm giam
Có thể nói với đặc trưng và tầm quan trọng của mình, tạm giam có một
ý nghĩa rất lớn trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt
trong gia đoạn hiện nay, nhiều vụ án phức tạp, nếu không áp dụng biện pháp
tạm giam rất khó khăn trong việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
- Tạm giam thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, góp phần đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định.
- Tạm giam bảo đảm quyền con người, quyền công dân được tôn trọng
và bảo vệ. Thể hiện tính ưu việt của nhà nước XHCN.

10


- Tạm giam bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
như Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án được thuận lợi, góp phần quan trọng nâng
cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.

- Tạm giam chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường
hợp nhất định khi có căn cứ pháp luật nên đã đảm bảo sự dân chủ, tôn trọng
quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp quy định như quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú… Đảm bảo không một công
dân nào bị tạm giam trái pháp luật, khi áp dụng biện pháp tạm giam không
đúng pháp luật quy định, công dân có quyền khiếu nại đến các chủ thể có
thẩm quyền.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam về biện
pháp tạm giam
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực pháp luật
Tạm giam giai đoạn này được quy định không tập trung, thể hiện trong
nhiều văn bản khác nhau:
Điều 11 Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta, quy định:
“Tư pháp chưa quyết định, thì không bắt bớ và giam cầm người công dân”
[20]. Theo quy định này thì quyền bắt bớ và giam cầm người công dân sẽ
thuộc về cơ quan tư pháp, tức là Tòa án các cấp. Theo Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/01/1946 về Tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán thì thẩm quyền tạm giam
thuộc về các Thẩm phán.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc bước vào công
cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau hiệp định Gionevơ. Đáp ứng
yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản quy định về tạm giam như: Sắc luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 quy
định: “Bắt người phạm đến pháp luật phải có lệnh viết của cơ quan tư pháp
cấp tỉnh hoặc cấp thành phố trở lên nếu là thường dân hoặc Viện kiểm sát
quân sự, Tòa án quân sự nếu là quân nhân phạm pháp; Viện trưởng, Phó Viện
11


trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung

ương trở lên. [55, tr. 111].
Tiếp đó, Hiến pháp 1959 và Hiến pháp năm 1980 đều xác định nếu
không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát nhân dân thì không ai có thể bị bắt. So với Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980 mở rộng thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân không
chỉ phê chuẩn mà còn tự quyết định việc bắt và giam người.
Tóm lại, trong giai đoạn này, mặc dù chưa có BLTTHS để áp dụng
thống nhất trong cả nước nhưng biện pháp tạm giam đã được quy định từ rất
sớm trong các văn bản của nhà nước ta. Tuy nhiên, quy định về tạm giam
không tập trung, nằm trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chưa phản ánh
đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong pháp luật TTHS, hiện
tượng oan sai và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân xảy ra
nhiều, đặt ra yêu cầu cần phải khắc phục và sớm ban hành văn bản quy định
về tạm giam thống nhất trong cả nước.
1.2.2. Biện pháp tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Trong BLTTHS năm 1988 thì biện pháp tạm giam được quy đinh tại
chương 5, Điều 70 BLTTHS
Có thể nói trong BLTTHS năm 1988, biện pháp tạm giam đã được quy
định khá cụ thể, rõ ràng, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm trong gian đoạn này, giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên qua 15 năm (từ năm 1988 đến 2003) với tình hình đổi mới
trên mọi mặt của đất nước thì “Bộ luật này có những hạn chế, như: người bị
giam, giữ một cách oan hoàn toàn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
không được đền bù thiệt hại một cách thỏa đáng; các Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát đều có vi phạm pháp luật tố tụng hình sự về thời hạn giải quyết ở
nhiều khâu” [16, tr.11].

12



1.2.3. Biện pháp tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Ngày 26/11/2003, Quốc hội đã thông qua Bộ luật TTHS năm 2003 có
hiệu lực từ ngày 01/07/2004. Biện pháp tạm giam được quy định tại Điều 88
BLTTHS năm 2003.
Có thể thấy, BLTTHS năm 2003 đã khắc phục những thiếu sót của
BLTTHS năm 1988 như đã thu hẹp phạm vi người có thẩm quyền ra lệnh bắt
bị can, bị cáo để tạm giam, bảo vệ quyền con người theo hướng tăng cường
dân chủ…
Tuy nhiên, đến nay Bộ luật TTHS 2003 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế
không còn phù hợp với tình hình mới, với những căn cứ mang tính chất chung
chung, khó xác định cụ thể như “cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử”, “cố ý
gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử” gây ra sự tùy tiện,
lạm dụng áp dụng biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án…Do
vậy, ngày 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua BLTTHS năm 2015 nhằm khắc
phục những điểm hạn chế của BLTTHS năm 2003.
1.2.4. Điểm mới của biện pháp tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015
So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 có nhiều quy định
mới được thể hiện:
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 đã quy định thêm căn cứ tạm giam “có
dấu hiệu bỏ trốn” hoặc “hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội”. Trong quy định
của BLTTHS năm 2015, nhà làm luật cũng đã bỏ những căn cứ mang tính
chất chung chung, khó xác định cụ thể như “cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử” mà đã định lượng cụ thể là đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
nhưng vi phạm, không có nơi cư trú rõ ràng, có hành vi mua chuộc, cưỡng ép,
xúi giục người khác khai báo gian dối, ...
Thứ hai, nhằm khắc phục vướng mắc trên thực tế áp dụng BLTTHS
năm 2003 khi xảy ra tình trạng, những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng
có mức phạt tù quy định trong Bộ luật hình sự dưới 2 năm thì không thể áp

13


dụng biện pháp tạm giam được. BLTTHS năm 2015 đã quy định thêm một
trường hợp tạm giam, đó là: “Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo
về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm
nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”.
Thứ ba, BLTTHS năm 2015 đã có sửa đổi về thời hạn tạm giam theo
hướng hạn chế số lần gia hạn và thời hạn tạm giam được gia hạn.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung trường hợp đặc biệt khi
không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can thì Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc
việc điều tra.
1.3. Biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự một số
quốc gia trên thế giới
- Về căn cứ áp dụng [58]: Pháp luật TTHS các nước quy định rõ ràng,
chặt chẽ căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam. Theo đó, tạm giam được áp
dụng đối với loại tội phạm nghiêm trọng trở lên mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt tù. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng mà BLHS có quy định hình
phạt tù, việc áp dụng biện pháp tạm giam được quyết định trên cơ sở cân
nhắc, xem xét về sự cần thiết áp dụng biện pháp này để bảo đảm chứng cứ,
bảo đảm quá trình giải quyết vụ án, ngăn chặn người phạm tội trốn, tiếp tục
phạm tội… Hầu hết các nước đều quy định căn cứ để xem xét áp dụng biện
pháp tạm giam gồm: không có chỗ ở cố định; che giấu chứng cứ; bỏ trốn hoặc
có lý do chính đáng nghi ngờ bị can bỏ trốn (Nga, Pháp, Đức, Trung Quốc,
Nhật Bản). Ngoài ra, một số nước quy định các căn cứ cụ thể khác như:
không xác định được nhân thân bị can; bị can vi phạm biện pháp ngăn chặn
khác đã được áp dụng trước đó; đã trốn tránh Cơ quan điều tra hoặc Tòa án
(Nga); không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ liên quan đến biện giám sát tư pháp
đã được áp dụng (Pháp); để bảo vệ chứng cứ, ngăn chặn làm giả, tiêu hủy

chứng cứ, bảo vệ đương sự, ngăn chặn việc gây áp lực đối với người bị hại,
người làm chứng hoặc thông đồng với người đồng phạm; ngăn ngừa việc tiếp
tục phạm tội, đảm bảo giữ gìn trật tự xã hội (Pháp, Trung Quốc); khi bị can
14


không thể khai báo danh tính của mình (Đức); Có nguy hại rõ ràng đối với an
ninh quốc gia, an ninh công cộng hoặc trật tự xã hội; Có ý định tự sát hoặc bỏ
trốn (Trung Quốc).
Điều 108 BLTTHS Nga quy định: tạm giam được áp dụng theo quyết
định của Tòa án về tội mà luật hình sự quy định hình phạt tước tự do trên 2
năm trong trường hợp không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm
khắc hơn. Trong trường hợp đặc biệt, tạm giam có thể được áp dụng với tội
có mức hình phạt tước tự do đến 2 năm nếu có một trong những căn cứ:
không có nơi cư trú thường xuyên trên lãnh thổ Nga; không xác định được
nhân thân; đã vi phạm biện pháp ngăn chặn khác được áp dụng trước đó; đã
trốn tránh Cơ quan điều tra hoặc Tòa án.
Điều 137, 144 BLTTHS Pháp, quy định: tạm giam áp dụng đối với
trọng tội và khinh tội, nếu hình phạt quy định từ 1 năm tù trở lên trong trường
hợp phạm tội quả tang hoặc từ 2 năm tù trở lên trong những trường hợp khác
và nếu đương sự không tôn trọng đầy đủ nghĩa vụ giám sát tư pháp theo quy
định tại Điều 137 thì có thể ra lệnh tạm giam hoặc gia hạn tạm giam khi: việc
tạm giam là biện pháp duy nhất để bảo vệ chứng cứ, dấu hiệu phạm tội; để
ngăn chặn việc gây áp lực đối với người bị hại, người làm chứng hoặc để
ngăn chặn sự thông đồng giữa bị can với những người đồng phạm; việc tạm
giam là cần thiết để bảo vệ đương sự, chấm dứt phạm tội, ngăn ngừa tái phạm,
bảo đảm sự giám sát của Tòa án đối với đương sự hoặc để giữ gìn trật tự xã hội.
Cũng có thể ra lệnh tạm giam theo quy định tại Điều 141-2 khi bị can cố ý trốn
tránh những nghĩa vụ liên quan đến biện pháp giám sát tư pháp.
Điều 112a, 113 BLTTHS Đức, quy định, tạm giam áp dụng khi có căn

cứ xác đáng cho thấy bị can đã phạm tội; có căn cứ bắt theo Điều 112; có căn
cứ xác đáng để nghi ngờ bị can đã thực hiện tội phạm theo khoản 1 Điều
129a, Điều 211, Điều 212, khoản 1 Điều 220a, Điều 226, Điều 306b và Điều
306c của BLHS, hoặc trong trường hợp tính mạng, sức khỏe của người khác
đã bị nguy hiểm bởi tội phạm theo khoản 1, 2 và 3 Điều 308 thì có thể áp
dụng biện pháp tạm giam đối với bị can ngay cả khi không có căn cứ để bắt.
15


Nếu có căn cứ cho thấy khả năng trước khi có bản án kết tội, bị can sẽ tiếp tục
thực hiện những hành vi phạm tội; đồng thời xét thấy việc tạm giam là cần
thiết để ngăn ngừa nguy hiểm sắp xảy ra người phạm tội phạm ít nghiêm
trọng cũng có khả năng bị tạm giam nếu có căn cứ cho thấy: (i) trước đó bị
can đã trốn tránh pháp luật hoặc đã chuẩn bị cho việc bỏ trốn; (ii) bị can
không có nơi ở cố định hoặc nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ; (iii) bị can
không thể khai báo danh tính của mình.
BLTTHS Trung Quốc quy định: bắt giam được áp dụng trong trường
hợp có chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo có thể bị
phạt tù trở lên và xét thấy áp dụng bảo lĩnh hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú không
đủ để ngăn ngừa những nguy hiểm dưới đây đối với xã hội: Có thể thực hiện
hành vi phạm tội mới; Có nguy hại rõ ràng đối với an ninh quốc gia, an ninh
công cộng hoặc trật tự xã hội; Có thể tiêu hủy, làm giả chứng cứ, cản trở nhân
chứng hoặc thông cung; Có thể trả thù người bị hại, người tố cáo, tố giác; Có
ý định tự sát hoặc bỏ trốn. Đối với trường hợp có chứng cứ chứng minh hành
vi phạm tội của bị can có thể bị phạt tù 10 năm trở lên; hoặc có chứng cứ
chứng minh hành vi phạm tội mà có thể bị phạt tù trở nên, đã từng cố ý phạm
tội hoặc có lai lịch không rõ ràng thì phải bắt giam. Có nước quy định cụ thể
căn cứ bắt người cũng là căn cứ tạm giam (Đức); quy định căn cứ tạm giam
theo tội phạm cụ thể mà Bộ luật hình sự quy định (Đức, LB Nga). Liên Bang
Nga quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam đối với đối tượng người chưa thành

niên. Như vậy, có thể thấy, pháp luật TTHS các nước quy định khá cụ thể và
chặt chẽ căn cứ tạm giam.
- Thẩm quyền áp dụng: Theo pháp luật TTHS các nước thì người có thẩm
quyền áp dụng biện pháp tạm giam có cả Thẩm phán (Nga, Đức, Pháp, Nhật
Bản) [58].
- Thời hạn áp dụng: Nghiên cứu pháp luật TTHS các nước cho thấy, có
6/7 nước quy định cụ thể thời hạn tạm giam để điều tra, Đức không xác định
cụ thể thời hạn tạm giam mà quy định mức tối đa của thời hạn (thời hạn tạm
giam tối đa không kéo dài hơn một năm). Nga, Nhật Bản, Trung Quốc đều
16


quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá 2 tháng. Tuy nhiên, các
nước này lại quy định việc gia hạn thời hạn tạm giam khác nhau. Theo quy
định của BLTTHS Nga, có thể gia hạn tạm giam đến 6 tháng đối với những
vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thì có thể
gia hạn thêm nhưng không quá 12 tháng sau khi có sự đồng ý của Thủ trưởng
Cơ quan điều tra dự thẩm hoặc Kiểm sát viên thuộc các chủ thể của Nga,
Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cấp tương đương. Việc gia hạn trên 12
tháng nhưng không được quá 18 tháng có thể được tiến hành sau khi có sự
đồng ý của Chủ tịch Ủy ban điều tra Nga hoặc Thủ trưởng Cơ quan điều tra
dự thẩm cấp cơ quan liên bang thuộc chính quyền hành pháp. BLTTHS Nhật
Bản quy định trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn từng tháng một với
những lý do cụ thể tương ứng với các trường hợp sau: Bị cáo phạm tội tử
hình, chung thân hoặc có thể bị phạt tù từ 1 năm trở lên; bị cáo liên tục phạm
tội bị phạt tù trên 3 năm; khi có lý do chính đáng nghi ngờ bị cáo che giấu
chứng cứ; không biết họ tên, chỗ ở của bị cáo.
Theo pháp luật TTHS Trung Quốc, đối với những vụ án phức tạp, không
thể kết thúc điều tra trong thời hạn quy định, có thể gia hạn thêm một tháng
nếu có phê chuẩn của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Tuy nhiên, Điều 96

BLTTHS Trung Quốc cũng có quy định: “Đối với vụ án có bị can, bị cáo bị
tạm giam, không thể kết thúc trong thời hạn điều tra, thẩm tra truy tố, xét xử
sơ thẩm hoặc phúc thẩm theo quy định của BLTTHS thì phải trả tự do cho bị
can, bị cáo. Nếu cần tiếp tục thẩm tra, xem xét thì có thể áp dụng bảo lĩnh
hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, bị cáo” [58].
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương 1, tác giả luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận và
pháp luật về biện pháp tạm giam như: khái niệm; mục đích, đặc điểm, ý nghĩa
và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam; lược sử quá trình hình thành và phát
triển của chế định tạm giam cũng như những quy định về tạm giam trong
pháp luật TTHS một số nước trên thế giới.

17


Kết quả nghiên cứu nêu trong Chương 1 của luận văn là cơ sở để tác
giả phân tích, đánh giá những nội dung, quy định cụ thể của pháp luật hiện
hành về biện pháp tạm giam, cũng như thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh tại Chương 2 của luận văn.

18


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC NINH
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về biện pháp tạm
giam
Biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định tại chương VII, tại Điều

Điều 119 (Tạm giam), và một số quy định liên quan như: Điều 109 (Các biện
pháp ngăn chặn), Điều 113 (Bắt bị can, bị cáo để tạm giam), Điều 419 (Áp
dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế)…của BLTTHS năm 2015.
2.1.1. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam
Theo quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2015, đối tượng có thể áp
dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo.
* Bị can, bị cáo thuộc vào trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc
biệt nghiêm trọng. Chiếu theo quy định này thì chủ thể có thẩm quyền ra lệnh
tạm giam có thể tạm giam ngay mà không cần thêm các căn cứ khác.
* Bị can, bị cáo thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm
trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác
định người đó thuộc một trong các trường hợp:
+ Bị can, bị cao đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác như bảo lĩnh,
cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng đã vi phạm nghĩa vụ đã cam kết như tiếp tục
phạm tội, không có mặt khi được triệu tập…thì sẽ bị áp dụng tạm giam.
+ Bị can, bị cáo được xác định là người không có nơi cư trú rõ ràng
hoặc không xác định được lý lịch. Để xác định được nội dung này, Cơ quan
có thẩm quyền cần phải xác minh nơi cư trú, lý lịch của bị can thông qua
chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú, Sở tư pháp...để xác định.
Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Để xác định
được nội dung này cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào những vi phạm
19


×