Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn xét xử tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.48 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔN TRỌNG HƯNG

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔN TRỌNG HƯNG

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, trung thực và tin cậy. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Học viện Khoa học
xã hội.
Tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Học viện Khoa học xã hội xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

TÔN TRỌNG HƯNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1............................................................................................................................................. 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH CÁC TÌNH TIẾT GIẢM
NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ.................................................................................................................................................. 7
1.2. Ý NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ................................................................................................................................................ 13
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ NĂM 1945 ĐẾN
TRƯỚC KHI CÓ BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015............................................................... 18
CHƯƠNG 2........................................................................................................................................... 25
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CÁC TÌNH
TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ....................................................................... 25

2.1. CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ QUY ĐỊNH TẠI
KHOẢN 1 ĐIỀU 51 BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015........................................................... 25
2.2. CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ QUY ĐỊNH TẠI
KHOẢN 2 ĐIỀU 51 BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015........................................................... 46
CHƯƠNG 3........................................................................................................................................... 50
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG.............................................................................................................. 50
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH.................................................................. 50
3.2. NHỮNG VI PHẠM, SAI LẦM VÀ NGUYÊN NHÂN................................................... 58


3.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ............................................................................................................. 65
KẾT LUẬN........................................................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................... 78

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1: Bảng tổng hợp kết quả xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ 2015
- 2019 ......................................................................................................... 51
Bảng 3.2. Số liệu thống kê kết quả xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Bắc Ninh
(2015-2019) ........................................................................................................ 53


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS :

Bộ luật Hình sự


HĐXX :

Hội đồng xét xử

PLHS :

Pháp luật hình sự

TAND :

Tòa án nhân dân

TNHS :

Trách nhiệm hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc quan trọng được ghi
nhận trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Nguyên tắc này việc áp dụng hình
phạt đối với người phạm tội chủ yếu nhằm mục đích cải tạo, giáo dục họ trở thành
người có ích cho xã hội. BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi
tắt là BLHS năm 2015) tiếp tục kế thừa tinh thần của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999) khi có nhiều quy định tạo điều
kiện cho người phạm tội tự cải tạo, có cơ hội sớm hòa nhập vào cộng đồng như: quy
định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo và một số hình phạt
không tước quyền tự do của công dân như hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ… Trong số đó, việc quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS chính

là một trong những biểu hiện cụ thể, rõ nét nhất của việc thể chế hóa chính sách
nhân đạo của Nhà nước trong việc xử lý tội phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những căn cứ quan trọng trong việc
đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi và khả năng cải tạo giáo dục của người,
pháp nhân thương mại phạm tội, là một trong những căn cứ quan trọng để cơ quan
tố tụng, người tiến hành tố tụng có cái nhìn toàn diện khi quyết định hình phạt, thể
hiện chính sách nhân đạo, góp phần đảm bảo được mục đích giáo dục, cải tạo người
phạm tội của hình phạt, đáp ứng được các yêu cầu của nguyên tắc cá thể hóa hình
phạt trong áp dụng pháp luật với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội. BLHS
năm 2015 được ban hành, đã có những sửa đổi, bổ sung cần thiết, đáp ứng yêu cầu
từ thực tiễn xử lý người phạm tội như bổ sung thêm các tình tiết như Phạm tội trong
trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (điểm đ); Phạm tội
trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây
ra (điểm l); Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng (điểm p);
Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ, người có công với cách mạng
(điểm x); cũng như tách một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy
định ghép trong cùng một điểm của khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 để khắc phục
những vướng mắc về cách hiểu, để làm rõ và cụ thể hơn. Tuy nhiên, thực tiễn khi
vận dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS vẫn còn nhiều sai sót, thiếu chính xác mà
chưa đi đến thống nhất do nhận thức pháp luật cũng như xuất phát từ những quy
định của pháp luật còn chưa rõ ràng. Đây cũng là nguyên nhân làm giảm tính răn
1


đe, giáo dục và phòng ngừa chung của hình phạt được tuyên, vi phạm nguyên tắc
bình đẳng, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo và đảm bảo quyền con người
mà pháp luật quy định.
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang đẩy mạnh công cuộc cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, trong đó xác định công tác xét xử là trọng tâm; bản án

hình sự của Tòa án phải đảm bảo đúng pháp luật; hình phạt mà Tòa án áp dụng đối
với người phạm tội phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Là một cán bộ trong hệ thống Tòa án, tác giả tự nhận thấy rằng việc nghiên
cứu các quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS cần phải được chú trọng, xem xét
kỹ lưỡng nhằm giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhận
thức rõ và áp dụng đúng các tình tiết này trong việc giải quyết các vụ án hình sự
trên thực tế; phát hiện, chỉ rõ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng
những tình tiết này. Qua đó đề ra những kiến nghị, yêu cầu, giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao hơn nữa việc áp dụng hiệu quả, thống nhất các quy định trên; đáp ứng
được mục tiêu, chiến lược cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đề ra trong giai
đoạn hiện nay.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn xét xử tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài Luận
văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài về các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những vấn đề nhận được
nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu PLHS. Trong
những năm gần đây, có rất nhiều các công trình nghiên cứu, bài biết ở các cấp độ,
khía cạnh khác nhau về các tình tiết giảm nhẹ TNHS; trong đó tiêu biểu là các công
trình nghiên cứu:
(1) Sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình…:
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007, GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên; Chương XVI Quyết định hình phạt của tác giả Trịnh Quốc Toản;
- Định tội danh và quyết định hình phạt, của tác giả Dương Tuyết Miên
(2007), Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội;
2


- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự Việt Nam, của

tác giả Trần Thị Quang Vinh (2005); NXB. Chính trị Quốc gia;
- Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam, của tác giả Đinh Văn Quế (2000), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội; v.v...
(2) Luận án, luận văn thạc sĩ luật học:
- Luận án tiến sĩ luật học: Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam,
của tác giả Dương Tuyết Miên (2004);
- Luận án tiễn sĩ luật học: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam, của tác giả Trần Thị Quang Vinh (2003);
- Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội: Các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh
Đắk Lắk, của tác giả Nguyễn Văn Anh (2015);
- Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội: Các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự theo pháp luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Gò Vấp,
Thành phố Hồ Chí Minh, của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2018), v.v...
(3) Các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành:
- Hồ Sỹ Sơn (2008), Những hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng khắc
phục”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16, tr.2 - 4, 9;
- Trần Văn Hội (2013), Bàn về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Tạp chí kiểm
sát số 12;
- Đinh Văn Quế (2010), Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân số 04;
- Thái Chí Bình (2014), Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc khoản 2
Điều 46 Bộ luật hình sự, thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện, Tạp chí Tòa
án nhân dân số 02;
- Trịnh Tiến Việt (2004), Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 và một số kiến nghị, Tạp chí Tòa án nhân
dân số 13;
- Nguyễn Ngọc Kiện (2017), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy

định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 04;
v.v...
3


Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát nêu trên, có thể thấy, ở nước ta đã có
khá nhiều công trình nghiên cứu về các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Mỗi công trình
nghiên cứu, mỗi bài viết nêu trên đều đề cập đến các tình tiết giảm nhẹ TNHS ở
những phương diện và mức độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu và các bài viết
nói trên đều nêu lên các vấn đề về tình tiết giảm nhẹ TNHS, qua đó đã nêu lên
những vướng mắc và đưa ra những đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện các tình tiết
giảm nhẹ TNHS.
BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với những quy định mới về các
tình tiết giảm nhẹ TNHS nên việc áp dụng vẫn còn gặp vướng mắc, hạn chế và chưa
thống nhất. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, hệ thống về lý luận cũng như chưa làm rõ thực tiễn áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ TNHS tại TAND tỉnh Bắc Ninh. Do đó, việc tác giả lựa chọn đề tài: “Các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn xét xử tỉnh Bắc Ninh” là đòi hỏi
khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. Qua đây tác giả sẽ
có đánh giá toàn diện về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại TAND tỉnh Bắc
Ninh và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện BLHS, nâng cao hiệu quả của việc
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong công tác xét xử của hệ thống Tòa án nói
chung và các TAND ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu làm rõ về lý
luận các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo PLHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại tỉnh
TAND Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và
pháp luật về tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định PLHS Việt Nam, quy định pháp
lý trong BLHS năm 2015 (Điều 51).

Phạm vi về thời gian và không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực
tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS tại TAND tỉnh Bắc Ninh trong phạm vi
05 năm từ năm 2015 đến năm 2019.
Kể từ khi BLHS năm 2015 có hiệu lực, tại TAND tỉnh Bắc Ninh vẫn chưa có
vụ án hình sự nào có chủ thể phạm tội là pháp nhân thương mại. Do vậy, phạm vi
nghiên cứu của Luận văn tác giả sẽ chỉ tập trung vào việc áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ TNHS đối với chủ thể là cá nhân phạm tội.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4


Luận văn có mục đích là làm rõ những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ
TNHS dưới góc độ chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự; đánh giá thực
tiễn áp dụng tại các TAND trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, luận văn đưa ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong
thực tiễn.
Trên cơ sở những mục đích tổng quát kể trên, tác giả xác định một số nhiệm
vụ cụ thể cần phải thực hiện để đạt được mục đích tổng quát như sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc quy định các
tình tiết giảm nhẹ TNHS trong khoa học Luật hình sự Việt Nam; khái quát lịch sử
quy định của luật hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ
năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Phân tích nội dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại Điều 51
BLHS năm 2015.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định về các tình tiết giảm nhẹ
TNHS tại các TAND trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đưa ra đề xuất các giải pháp hoàn
thiện PLHS và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về các tình
tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định của BLHS năm 2015.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, Luận văn sử dụng phương
pháp luận chung nhất và phổ biến nhất hiện nay là dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm,
định hướng của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, bằng việc cải cách các
chính sách pháp luật, tính nhân đạo trong luật hình sự và cải cách Tư pháp được nêu
ra tại các kỳ Đại hội Đảng thực hiện theo Nghị quyết 49/NQ-TU ngày 26/05/2005
về “Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính Trị”.
Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong luận văn là phương pháp
nguyên cứu phân tích, so sánh để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp nghiên cứu điển hình; phương
pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh… để đưa ra cái nhìn toàn diện nhất về
các quy định của PLHS về các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Từ đó, nêu lên những điểm
tiến bộ cũng như những điểm còn hạn chế của chế định các tình tiết giảm nhẹ
TNHS, kiến nghị giải pháp hoàn thiện PLHS Việt Nam và các giải pháp nâng cao
chất lượng áp dụng.
5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Thông qua những vấn đề mà luận văn đề cập, phân tích. Các
chế định “tình tiết giảm nhẹ TNHS” được thể hiện rõ nét hơn, đa chiều hơn. Góp
phần làm phong phú hơn những vấn đề lý luận về các tình tiết giảm nhẹ TNHS từ
thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
Ý nghĩa thực tiễn: Đây là nguồn tư liệu tham khảo cho cán bộ thực thi, áp
dụng pháp luật. Đồng thời là công trình tuyên truyền, phổ biên giáo dục pháp luật
cho người dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục các chữ viết tắt, tài liệu tham khảo,
luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử quy định các tình tiết giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và các giải pháp đảm bảo áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH CÁC TÌNH TIẾT
GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ từ trước đến nay đều không đưa ra
khái niệm về tình tiết giảm nhẹ TNHS. Theo từ điển Luật học thì thuật ngữ “tình tiết
giảm nhẹ TNHS” được hiểu là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp
phạm tội cụ thể của một loại tội giảm đi so với trường hợp bình thường và do đó
được coi là căn cứ để giảm nhẹ TNHS đối với trường hợp phạm tội đó [16, tr116].
Như vậy, tình tiết giảm nhẹ TNHS được hiểu là những tình tiết trong vụ án hình sự
có ý nghĩa làm giảm nhẹ mức độ TNHS của người phạm tội.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLHS năm 2015: “1. Khi quyết định hình
phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự…”. Chính vì vậy, để quyết định hình
phạt đối với người phạm tội được chính xác, Luật hình sự Việt Nam coi các tình tiết
giảm nhẹ TNHS là một trong các căn cứ quyết định hình phạt độc lập bên cạnh các
căn cứ khác: căn cứ vào các quy định của BLHS; căn cứ vào tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội và căn cứ vào nhân thân người phạm tội.

Từ các BLHS thời kỳ trước cho đến nay là BLHS năm 2015 vẫn chưa đưa ra
được khái niệm pháp lý về chế định này. Hiện nay diễn đàn khoa học có nhiều quan
niệm vấn đề này cũng có nhiều ý kiến khác nhau như:
Theo nguyên Thẩm phán, Chánh Tòa Hình sự - Tòa án nhân dân tối cao Đinh
Văn Quế trong cuốn Bình luận khoa học BLHS năm 2015 phần thứ nhất những quy
định chung cho rằng: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là các tình tiết trong một vụ án
cụ thể mà nó sẽ làm giảm TNHS của người phạm tội trong một khung hình phạt”
[29, tr228].
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung của Trường Đại học luật
Thành phố Hồ Chí Minh (2012) thì: “Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình
tiết không có ý nghĩa về mặt định tội, định khung hình phạt mà chỉ có tác dụng làm
giảm mức độ TNHS trong phạm vi một khung hình phạt nhất định. Các tình tiết
giảm nhẹ TNHS không được quy định trong các điều khoản của Phần các tội phạm
7


như các tình tiết định tội, định khung hình phạt mà được quy định riêng tại Điều 46
BLHS” [25, tr.315].
Các quan điểm trên giới hạn các tình tiết giảm nhẹ TNHS là làm giảm mức độ
TNHS trong một khung hình phạt nhất định, đồng thời căn cứ vào cơ sở pháp lý
theo luật định để Tòa án có thể áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Hay theo quan điểm khác của GS.TSKH Lê Văn Cảm và PGS.TS Trịnh Tiến
Việt có quan điểm khá chi tiết về khái niệm này cho rằng: “Tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Phần chung BLHS với tính chất là
tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết do Tòa án tự phán xét, cân nhắc và ghi rõ
trong bản án (nếu trong vụ án hình sự không có tình tiết này), đồng thời là một
trong những căn cứ để cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền và Tòa án tùy thuộc
vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cá thể TNHS và hình phạt của người phạm
tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt” [31, tr.16].
Hay theo quan điểm của PGS.TS Dương Tuyết Miên cho rằng: “Các tình tiết

giảm nhẹ TNHS là những tình tiết được quy định trong BLHS hoặc do Tòa án xác
định phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải
tạo, giáo dục người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Những tình tiết
này có ý nghĩa làm giảm mức độ TNHS của người phạm tội” [22, tr18].
Quan điểm khác của TS. Trần Thị Quang Vinh thì có khái niệm cho rằng “Các
tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết của vụ án hình sự, liên quan đến việc
giải quyết TNHS, có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo tốt hoặc hoàn cảnh đặc biệt của người
phạm tội đáng được khoan hồng và giá trị giảm nhẹ TNHS của chúng chưa được
ghi nhận trong chế tài” [34, tr.45]. Theo quan điểm này, tất cả những tình tiết nào
có ý nghĩa làm giảm mức độ TNHS đều được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Như
vậy, tình tiết giảm nhẹ theo nghĩa này gồm nhiều loại như: tình tiết định tội, tình tiết
định khung giảm nhẹ, tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 51 BLHS
năm 2015, các tình tiết được quy định ở các điều luật khác thuộc phần chung BLHS
năm 2015 mà sự hiện diện của nó có ý nghĩa làm giảm mức độ TNHS của người
phạm tội như: giảm hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng (khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015); chuyển sang hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn (khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015); giảm thời hạn chấp hành hình phạt
(Điều 63 BLHS năm 2015); miễn chấp hành hình phạt (Điều 62 BLHS năm 2015);
8


miễn hình phạt (Điều 59 BLHS năm 2015); miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện hay án treo (Điều 65 BLHS năm 2015).
Như vậy, trong khoa học luật hình sự vẫn có nhiều quan điểm, cách hiểu khác
nhau về khái niệm các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Mặc dù các quan điểm này không
hoàn toàn trùng nhau nhưng các quan điểm này đều thống nhất với nhau ở nội dung
các tình tiết giảm nhẹ TNHS về bản chất làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội qua đó làm giảm mức độ TNHS cho chủ thể. Điểm khác biệt
chủ yếu là ở việc xác định căn cứ, giới hạn, phạm vi ảnh hưởng, tác động của

chúng. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được xem xét theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các
tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định ở phần chung tại Điều 51 BLHS năm 2015
và các văn bản hướng dẫn liên quan. Trong nghĩa này thì cho rằng các tình tiết định
tội, định khung hình phạt không phải là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Từ những phân tích về khái niệm, bản chất pháp lý và phạm vi của các tình tiết
giảm nhẹ TNHS; trên cơ sở tiếp thu từ các công trình nghiên cứu của những người
đi trước, chúng ta có thể hiểu: Tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết của vụ án
hình sự liên quan đến việc giải quyết TNHS đối với người phạm tội, phản ánh mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo, giáo dục người
phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội. Những tình tiết này
được quy định trong BLHS hoặc do Tòa án xác định trong Bản án có ý nghĩa làm
cho mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội giảm xuống một cách đáng kể và do đó
TNHS của người phạm tội được giảm nhẹ hơn.
1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Nghiên cứu các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 51 BLHS
năm 2015, các văn bản hướng dẫn thi hành và từ khái niệm nêu trên, chúng ta có thể
thấy các tình tiết giảm nhẹ TNHS này có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, các tình tiết giảm nhẹ TNHS là các tình tiết được quy định trong
BLHS hoặc do Tòa án xác định. Chúng được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 51
BLHS năm 2015 gồm 22 tình tiết; các điều luật khác thuộc phần chung BLHS và
trong các văn bản hướng dẫn (Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 và
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND
tối cao) mà sự hiện diện của nó cũng có ý nghĩa làm giảm mức độ TNHS. Ngoài ra
trong quá trình xét xử Tòa án có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi đầu thú hoặc
những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và phải ghi rõ lý do trong bản án
9


(khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015). Qua quy định này chúng ta có thể thấy rằng,
pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu nhưng cũng không thể tiên lượng hết được tất cả

tình huống của cuộc sống; do vậy việc cho phép Tòa án xem xét các tình tiết khác là
tình tiết giảm nhẹ TNHS trong hoạt động xét xử là hoàn toàn hợp lý, đây chính là
quy định mang tính chất mở. Việc quy định phải ghi rõ lý do trong bản án thể thiện
sự đa dạng, phong phú nhưng cũng nhằm tránh sự tùy tiện trong hoạt động xét xử
của Tòa án. Bởi lẽ cũng có không ít trường hợp Tòa án tự đưa ra những tình tiết
giảm nhẹ TNHS mang tính chất tùy nghi, không đảm bảo tính thuyết phục. Tình tiết
giảm nhẹ chỉ được áp dụng trong những trường hợp cụ thể, đối với những người
phạm tội cụ thể và trong vụ án hình sự cụ thể mà Tòa án đang xem xét giải quyết.
Đây là điểm khác biệt của tình tiết giảm nhẹ TNHS so với tình tiết tăng nặng TNHS,
theo đó Tòa án không được áp dụng những tình tiết tăng nặng TNHS ngoài những
tình tiết được pháp luật quy định trong khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Quy định
này phù hợp với thực tiễn cũng như nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự Việt
Nam.
Thứ hai, tình tiết giảm nhẹ TNHS là các tình tiết có lợi cho người phạm tội;
đây chính là căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt theo hướng
nhẹ hơn đối với người phạm tội, nó phản ánh những khía cạnh của tội phạm cho
phép xác định mức độ ít nguy hiểm hơn của tội phạm hoặc người phạm tội so với
các trường hợp phạm tội thông thường. Đó có thể là các yếu tố cấu thành tội phạm
hoặc các tình tiết bổ sung làm rõ mức độ nguy hiểm của tội phạm. Các tình tiết này
có thể phản ánh hành vi, hậu quả của tội phạm, khách thể bị xâm hại, lỗi, động cơ,
mục đích, hoàn cảnh phạm tội… Ngoài ra còn một số tình tiết có thể hiện khả năng
cải tạo tốt của người phạm tội, phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội
đáng được khoan hồng hoặc thể hiện chính sách nhân đạo của PLHS Việt Nam.
Thứ ba, tình tiết giảm nhẹ TNHS được là căn cứ để HĐXX xem xét, cân nhắc
việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội; để đánh giá, nhận định tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, coi đó là một trong những căn cứ để quyết
định hình phạt. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS phản ánh diễn biến tâm lý bên trong
của người phạm tội là mặt chủ quan, các diễn biến sự việc bên ngoài là mặt khách
quan. Tình tiết giảm nhẹ TNHS có thể là tình tiết trực tiếp liên quan đến việc phạm
tội, song cũng có những tình tiết khác mặc dù không trực tiếp liên quan đến việc

thực hiện tội phạm nhưng cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc lựa chọn biện pháp
10


xử lý đối với người phạm tội. Pháp luật không quy định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ
TNHS sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định hình phạt đối với người phạm
tội mà trao quyền đánh giá, phán quyết này cho Tòa án. Nói cách khác là giá trị
giảm nhẹ TNHS trong chế tài, mức độ ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ đến
đâu, mỗi tình tiết sẽ được giảm nhẹ thế nào đều không được quy định cụ thể theo
một tiêu chuẩn cụ thể nào. Điều này đảm bảo tính linh hoạt, sáng tạo trong hoạt
động xét xử của Tòa án, giúp Tòa án, HĐXX có thể chủ động hơn trong việc tính
toán sự tương xứng giữa mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội với chế tài hình
sự được áp dụng đối với người phạm tội.
Thứ tư, một tình tiết giảm nhẹ cho dù biểu hiện dưới hình thức nào thì cũng
không thể được áp dụng hai lần cho một trường hợp phạm tội cụ thể. Do đó, việc áp
dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS phải bảo đảm nguyên tắc: Các tình tiết giảm nhẹ
đã được quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình
tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt (khoản 3 Điều 51 BLHS năm 2015).
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thì trước hết chúng ta phải
xác định được hành vi đó có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội gì, nghĩa là
phải xác định tội danh (định tội danh) đối với hành vi mà người phạm tội thực hiện.
Sau đó, chúng ta cần phải xác định xem hành vi phạm tội đó thực hiện thuộc trường
hợp được quy định ở khoản nào của điều luật (khung hình phạt cụ thể theo quy định
BLHS), nghĩa là phải xác định khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.
Sau khi đã xác định được tội danh, khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội
thì mới cân nhắc xem mức hình phạt cụ thể cần áp dụng đối với người phạm tội ở
mức nào trong khung hình phạt cho phù hợp.
Ví dụ như: Thấy C có hành vi hãm hiếp vợ mình, vì quá tức giận nên A đã cầm
gậy đánh vào đầu C gây ra hậu quả C chết. A được xác định là phạm tội trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân nên

xử lý theo quy định tại Điều 125 chứ không phải xử lý theo tội Giết người quy định tại
Điều 123 BLHS năm 2015 và áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm e khoản 1
Điều 51 BLHS năm 2015. Trong trường hợp này, tình tiết giảm nhẹ TNHS được luật
quy định với tính chất là yếu tố định tội đối với một tội phạm tương ứng cụ thể; do đó
trong việc quyết định hình phạt, Tòa án không thể xem xét nó là tình tiết giảm nhẹ được
quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

11


Như vậy có thể thấy tình tiết giảm nhẹ TNHS chỉ có giá trị sau khi đã xác định
người phạm tội phạm tội nào và khung hình phạt là bao nhiêu để tuyên mức phạt
dưới mức trung bình của khung. Do đó khi tình tiết giảm nhẹ nào đó đã được dùng
để định tội và dùng để định khung thì sẽ không áp dụng để xem xét định lượng hình
phạt nữa vì như vậy 1 tình tiết giảm nhẹ lại áp dụng đến 02 lần.
Thứ năm, ảnh hưởng của từng tình tiết giảm nhẹ TNHS đến mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội là khác nhau, mức độ ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt
cũng là không giống nhau. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định khá phong
phú về mặt số lượng và ảnh hưởng của chúng đối với mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội cũng là khác nhau. Do đó, mức độ ảnh hưởng của chúng đến quyết định
hình phạt là không giống nhau; có tình tiết thì ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định
hình phạt và đối với mọi tội phạm nhưng có tình tiết thì ảnh hưởng ít hơn. Nhưng
cũng có tình tiết giảm nhẹ TNHS thì chỉ có ý nghĩa đáng kể với một số tội phạm cụ
thể, còn đối với những tội phạm khác thì chỉ có ý nghĩa hạn chế hơn. Ví dụ: cùng là
phạm tội Giết người nhưng có người phạm tội thứ nhất có tình tiết giảm nhẹ là
phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015) còn người phạm tội thứ hai có tình tiết
giảm nhẹ là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ (quy định tại điểm x khoản 1 Điều
Điều 51 BLHS năm 2015). Khi quyết định hình phạt, tình tiết giảm nhẹ của người
phạm tội trong trường hợp thứ nhất (tình tiết giảm nhẹ là điểm c khoản 1 Điều 51)

sẽ có giá trị cao hơn so với người phạm tội trong trường hợp thứ hai (tình tiết giảm
nhẹ là điểm x khoản 1 Điều 51).
Hơn thế nữa, BLHS cũng có quy định: Tòa án có thể quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này (khoản 1 Điều 54 BLHS
năm 2015). Theo đó, khả năng để Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định khi mà phải có ít nhất 02
tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51. Như vậy, các quy định giảm
nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 đã được nhà làm luật xác định là giá trị
giảm nhẹ cao hơn, mức độ ảnh hưởng nhiều hơn so với tình tiết giảm nhẹ đầu thú và
những tình tiết khác mà Tòa án có thể coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại
khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.
12


1.2. Ý nghĩa và phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1.2.1. Ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong PLHS có một ý nghĩa quan
trọng về phương diện xã hội. Nó là một bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc
công bằng xã hội trong PLHS; là biểu hiện của nguyên tắc nhân đạo của chính sách
hình sự của Nhà nước về tội phạm và TNHS. Giá trị của các tình tiết giảm nhẹ
TNHS giúp cho việc quyết định hình phạt được công bằng hơn, phù hợp với tính
chất và mức độ nguy hiểm của từng tội phạm khác khau. Quy định các tình giết
giảm nhẹ TNHS trong PLHS là cơ sở pháp lý cho việc phân hóa TNHS và nguyên
tắc công bằng xã hội của PLHS. Chính các tình tiết giảm nhẹ được quy định giúp
Nhà nước xác định một cách khách quan, công bằng hơn hành vi phạm tội, nhân
thân, hoàn cảnh và thái độ của người phạm tội, kiểm chứng việc thực hiện nguyên
tắc nhân đạo trong PLHS, để thực hiện đúng đắn mục đích của hình phạt là “nghiêm
trị với khoan hồng”, “trừng trị với giáo dục” và có tác dụng phòng ngừa tội phạm

trong cộng đồng dân cư. Từ đó cũng hướng đến những giá trị tích cực hơn, giúp
những người phạm tội đã lầm đường lạc lối được nhận sự khoan hồng, nhân đạo của
pháp luật.
Khi quyết định hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ TNHS được sử dụng là điều
kiện bắt buộc khi thực hiện tính khoan hồng đối với người phạm tội. Ví dụ như theo
quy định của BLHS thì người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự thì
phải căn cứ sau: Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú,
khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố
gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có
cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận (điểm c khoản 2 Điều 29
BLHS năm 2015).
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng PLHS
là một trong những căn cứ để giải quyết đúng TNHS; là một trong những căn cứ để
quyết định hình phạt bảo đảm sự khách quan, toàn diện, mềm dẻo trong quyết định
hình phạt. Tình tiết giảm nhẹ còn là một trong những vấn đề do cơ quan tiến hành tố
tụng phải chứng minh trong từng vụ án cụ thể.
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội
mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn
ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp
13


luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm (Điều 31 BLHS 2015). Các tình tiết
giảm nhẹ TNHS cũng là một trong những cách thức để đạt được mục đích hình phạt
đó là giáo dục, cải tạo người phạm tội. Mục đích của hình phạt chỉ đạt được khi đảm
bảo người phạm tội chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất, mức độ tội phạm gây
ra chứ không đơn thuần là trừng trị người phạm tội. Đồng thời qua các tình tiết giảm
nhẹ TNHS cũng cho thấy cơ sở để cân nhắc khả năng cải tạo, tái hòa nhập cộng
đồng của người phạm tội.
Bên cạnh việc quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS cụ thể trong PLHS, sự cho

phép công nhận những tình tiết khác luật định tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật,
góp phần hạn chế sự bất cập trong trường hợp pháp luật chưa tiên liệu được, qua đó
góp phần vào công cuộc xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong tương lai.

Tóm lại, việc quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong PLHS Việt Nam đã
tạo cơ sở pháp lý để thực hiện phân hóa và cá thể hóa TNHS, áp dụng các biện pháp
xử lý khoan hồng về hình sự, bảo đảm một phán quyết công bằng và nhân đạo, đảm
bảo sự thống nhất việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong phạm vi cả nước,
góp phần hạn chế tình trạng tùy tiện trong áp dụng pháp luật.
1.2.2. Phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Hiện nay, trong các tài liệu nghiên cứu có nhiều cách phân loại khác nhau, mỗi
cách phân loại đề có yếu tố hợp lý và có ý nghĩa trong thực tiễn áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ TNHS.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS mặc dù đặc điểm chung là những tình tiết phản
ánh tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; phản ánh khả năng cải tạo
của người phạm tội hoặc phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ cần được xem xét để
hình phạt đã tuyên có tình khả thi hoặc đảm bảo thực hiện các cách sách nhân đạo
của Đảng và Nhà nước. Thế nhưng các tình tiết giảm nhẹ TNHS lại rất khác nhau
trong nội dung phản ánh, tính chất, mức độ ảnh hưởng đến tội phạm và TNHS của
người phạm tội.
Hiện nay, trong một số tài liệu có ghi nhận một số cách phân loại các tình tiết
giảm nhẹ TNHS như việc phân loại theo các nhóm:
- Các tình tiết giảm nhẹ thuộc mặt khách quan của tội phạm.
- Các tình tiết giảm nhẹ thuộc mặt chủ quan của tội phạm.
- Các tình tiết giảm nhẹ thuộc về nhân thân của người phạm tội.

14


Hay theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội

năm 2017 thì các tình tiết giảm nhẹ TNHS được chia theo ba nhóm gồm:
- Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, theo
nhóm này thì bao gồm cả các tình tiết thuộc mặt khách quan, mặt chủ quan và cả
nhân thân người phạm tội.
+ Tình tiết liên quan đến mức độ hậu quả như: Phạm tội nhưng chưa gây thiệt
hại hoặc gây thiệt hại không lớn; Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường
thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt
tác hại của tội phạm.
+ Tình tiết ảnh hưởng đến mức độ lỗi như: Phạm tội do lạc hậu; Phạm tội
trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; Phạm tội trong trường hợp
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức
cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng
bức; Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật
của nạn nhân gây ra.
+ Tình tiết phản ánh đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của
hành vi và người phạm tội như: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

- Các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội như: Người
phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội là người có công với
cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ; Người phạm tội tự thú; Người
phạm tội đã lập công chuộc tội; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có
trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;;
Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập
hoặc công tác;.
- Các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội như: Người
phạm tội là người từ 70 tuổi trở lên; Người phạm tội là phụ nữ có thai…
Cách phân loại này đã chia các tình tiết giảm nhẹ TNHS dựa vào các căn cứ
giảm nhẹ TNHS, có ý nghĩa định hướng cho hoạt động thu thập chứng cứ trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự và vận dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong việc
áp dụng chế tài xử lý đối với tội phạm.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả theo quan điểm phân loại các tình
tiết giảm nhẹ TNHS được chia thành 03 nhóm là:

15


- Những tình tiết liên quan đến đặc tính khách quan và chủ quan của hành vi
phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS của nhóm này đều có điểm chung là ảnh hưởng
trực tiếp đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Cụ thể bao gồm:

+ Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm
(được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 51)
+ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục
hậu quả (được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 51)
+ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn (được quy
định tại điểm h khoản 1 Điều 51)
+ Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải
do lỗi của mình gây ra (được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51)
- Những tình tiết liên quan đến nhân thân người phạm tội. Các tình tiết giảm

nhẹ TNHS của nhóm này thể hiện trong trường hợp người phạm tội có các đặc tính
thể hiện bản chất xã hội của con người mang ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm
cho xã hội cũng như khả năng cải tạo của người phạm tội. Cụ thể bao gồm:
+ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (được quy định tại
điểm i khoản 1 Điều 51)
+ Người phạm tội là phụ nữ có thai (được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51)
+ Người phạm tội là người từ 70 tuổi trở lên (được quy định tại điểm o khoản

1 Điều 51)
+ Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng

(được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 51)
+ Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình (được quy định tại điểm q khoản 1 Điều 51)
+ Người phạm tội tự thú (được quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51)
+ Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (được quy định tại
điểm s khoản 1 Điều 51)
+ Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát
hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (được quy định tại điểm t,
khoản 1, Điều 51)
+ Người phạm tội đã lập công chuộc tội (được quy định tại điểm u khoản 1
Điều 51).

16


+ Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu,
học tập hoặc công tác (được quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51)
+ Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ,
chồng, con của liệt sĩ (được quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51).
- Những tình tiết liên quan đến điều kiện, hoàn cảnh thực hiện tội phạm. Các
tình tiết giảm nhẹ TNHS của nhóm này không những phản ánh hoàn đến điều kiện,
hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội mà con gắn liền với chính sách nhân đạo của
Nhà nước ta trong chính sách xử lý tội phạm. Cụ thể bao gồm:
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (được
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51).
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (được
quy định tại điểm d khoản 1 Điều 51)
+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội (được quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 53)
+ Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp

luật của nạn nhân gây ra (được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51)
+ Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra
(được quy định tại điểm g khoản 1 điều 51)
+ Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức (được quy định tại điểm k
khoản 1 Điều 51)
+ Phạm tội do lạc hậu (được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 51).
Việc chia nhóm các tình tiết giảm nhẹ TNHS này chỉ có tính chất tương đối.
Bởi lẽ, trong số các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS
năm 2015, có tình tiết vừa phản ánh tính ít nguy hiểm của tội phạm (phản ánh đặc
tính khách quan) nhưng cũng vừa phản ánh điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt của tội
phạm như tình tiết Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức (điểm k khoản
1 Điều 51 BLHS năm 2015). Hoặc có tình tiết vừa thể hiện tính ít nguy hiểm của
hành vi phạm tội (phản ánh đặc tính chủ quan) nhưng lại vừa thể hiện phản ánh khả
năng, cải tạo, giáo dục của người phạm tội như tình tiết Người phạm tội đã ngăn
chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS năm
2015).

17


1.3. Khái quát lịch sử quy định của luật hình sự Việt Nam về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật Hình sự
năm 2015
Nhà nước ta đã trải qua các thời kỳ Phong kiến, Pháp thuộc, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quá trình
hình thành và phát triển của Luật Hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ TNHS
đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau
này thì quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS lại có sự khác nhau, nó phụ thuộc
và ý chí của giai cấp thống trị thời kỳ đó.
Trước khi BLHS năm 2015 được Quốc hội thông qua thì PLHS Việt Nam

trước đây đã có những quy định liên quan đến các tình tiết giảm nhẹ TNHS như:
1.3.1. Thời kỳ 40 năm trước pháp điển hóa luật hình sự Việt Nam lần thứ
nhất (1945-1985)
Cách mạng Tháng tám chiến thắng thành công đã chấm dứt sự đô hộ của thực
dân Pháp tại Việt Nam, từ đó mà hệ thống pháp luật của thực dân phong kiến đã bị
xóa bỏ hoàn toàn. Cùng với sự ra đời của Hiến pháp năm 1946 là hệ thống pháp luật
mới được hình thành, trong đó có PLHS. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong thời kỳ
này không được quy định rõ, vị trí pháp lý của các tình tiết giảm nhẹ TNHS lúc này
chủ yếu được ghi nhận trong các Sắc lệnh như:
- Điều 2 Sắc lệnh 223 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 27/11/1946 đã
khuyến khích công dân tố giác tội phạm hoặc thành khẩn khai báo nếu trót đưa hối
lộ. Đây được xem như đạo luật chống tham nhũng đầu tiên ở Việt nam đã ghi nhận
nội dung: “người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo giác cho nhà
chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh rằng đã đưa hối lộ là vì bị công chức
cưỡng bách. Trong trường hợp này, tang vật hối lộ được hoàn lại”.
- Điều 6 Sắc lệnh số 151 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 12/04/1953 có nêu
“những kẻ bị cưỡng bức hay bị lừa gạt mà phạm tội thì tuỳ tội nặng nhẹ và thái độ
hối lỗi của họ mà sẽ bị phạt tù từ 1 năm trở xuống”.
- Điều 17 Sắc lệnh số 133 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 20/01/1953 các
tình tiết giảm nhẹ TNHS được tách ra thành một Điều luật riêng biệt, cụ thể: “kẻ
nào phạm các tội kể trên, mà ở vào một trong những trường hợp sau đây có thể xét
xử một cách khoan hồng (giảm nhẹ tội, hoặc tha bổng): trước khi bị truy tố, thành
thực hối cải, lập công chuộc tội, tự mình thành thực tự thú, khai rõ ràng những âm
18


mưu và hành động của mình và của đồng bọn, bị ép buộc, lừa dối mà chưa làm hại
nhiều cho nhân dân”.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân năm 1970 quy
định tại Điều 2 quy định: “Xử nhẹ hoặc miễn hình phạt cho những kẻ tự thú, thật

thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra”.
Pháp lệnh số 149- LCT ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản
xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 3 quy định: “Xử nhẹ hoặc miễn hình phạt cho
những kẻ tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thường thiệt
hại”.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong giai đoạn này đều có đặc điểm là chưa được
PLHS đặt tên cụ thể ngoài việc chỉ ra một số trường hợp đáng được xử lý khoan hồng
được ghi nhận cho loại tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, các quy định tại cá sắc lệnh, pháp
lệnh này cũng chính là nền tảng quan trọng để Nhà nước ta xây dựng các hệ thống văn
bản quy phạm về pháp luật hình sự nói cung và các quy định về tình tiết giảm nhẹ
TNHS nói riêng đã được quy định cụ thể tại Điều 38 BLHS năm 1985.

1.3.2. Quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985
BLHS năm 1985 ra đời thể hiện một sự tiến triển vượt bậc trong lĩnh vực lập
pháp của Nhà nước ta. Đây là lần đầu tiên các tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được quy
định cụ thể trong BLHS và các tình tiết giảm nhẹ TNHS đã được áp dụng chung cho
tất cả các hành vi tội phạm khác nhau. Cụ thể các tình tiết giảm nhẹ được quy định
tại Điều 38 BLHS năm 1985 gồm 08 tình tiết như sau:
1. Những tình tiết sau đây được coi là tình tiết giảm nhẹ:
Điểm a: Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm
hoặc tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại.
Điểm b: Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết hoặc bị kích động về tinh thần do hành vi
trái pháp luật của người khác gây ra.
Điểm c: Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình gây ra;
Điểm d: Phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; phạm tội
lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
Điểm đ: Phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức hoặc bị chi phối về
mặt vật chất, công tác hay các mặt khác.
Điểm e: Người phạm tội là phụ nữ đang có thai, là người già hoặc là người

19


×