Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Đánh giá tiềm năng, đề xuất phát triển du lịch mạo hiểm tại sunworld bà nà hills 222

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 87 trang )

Chun đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long


Trải qua 4 năm học tập và rèn luyện tại Khoa
Du Lòch - Đại Học Huế, ngoài sự cố gắng và nỗ lực
để hoàn thiện bản thân, tôi còn nhận được sự
quan tâm giúp đỡ từ phía gia đình, thầy cô và bạn
bè trong khoảng thời gian này. Họ đã dìu dắt từng
bước đi của tôi, cung cấp kiến thức và chia sẻ kinh
nghiệm để tôi có thể tự tin vững bước ra ngoài
xã hội.
Đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Ban lãnh đạo Khoa Du Lòch cùng tất cả quý
thầy cô trong Khoa, đặc biệt là quý thầy cô đến
từ bộ môn Quản trò dòch vụ du lòch và lữ hành
đã xây dựng một môi trường lành mạnh giúp
chúng tôi có cơ hội được học hỏi và tiếp cận với
những kiến thức bổ ích về ngành du lòch trong
quãng thời gian học tập tại đây.
Trong quá trình thực tập, tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến toàn thể anh, chò trong khu du lòch Sun
World Bà Nà Hills đã tận tình giúp đỡ và hướng
dẫn cho tôi vận dụng các lý thuyết đã học vào
thực tế cũng như đã truyền nhiệt huyết, đam mê
cho tôi hướng đến công việc trong tương lai.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Thầy giáo Th.S. Trần Thanh Long vì đã trực tiếp
hướng dẫn, hỗ trợ tôi trong suốt quá trình làm bài
báo cáo thực tập này. Thầy luôn đưa ra ý kiến và


chia sẻ kinh nghiệm quý báu cho tôi từ những
bước đầu tìm kiếm, xác đònh đề tài đến khi hoàn
thiện nó.
Mặc dù đã cố gắng hết sức của mình để
hoàn thành báo cáo này, nhưng do còn nhiều hạn
1
SVTH: Thân Thị Như Ý

1

Lớp: K50-QLLH1


Chun đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

chế về kiến thức nên không thể tránh khỏi
những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô để bài làm được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành
cảm ơn!
Ngày 15 tháng 06
năm 2020
Sinh viên thực hiện
Thân Thò Như Ý

LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan rằng đề tài này là do chính tơi thực hiện, các số liệu thu thập

và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài khơng trùng với bất kỳ đề
tài nghiên cứu khoa học nào.
Ngày 15 tháng 06 năm 2020
Sinh viên thực hiện

Thân Thị Như Ý

2
SVTH: Thân Thị Như Ý

2

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

MỤC LỤC

3
SVTH: Thân Thị Như Ý

3

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: ThS. Trần Thanh Long

DANH MỤC BẢNG

4
SVTH: Thân Thị Như Ý

4

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

5
SVTH: Thân Thị Như Ý

5

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long


6
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được biết đến như
một sở thích du ngoạn, khám phá nghỉ ngơi, giải trí hết sức thú vị của con người.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, đời sống kinh tế phát triển hơn, hội
nhập quốc tế ngày càng mở rộng thì du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu
của con người trên khắp thế giới. Ở nhiều quốc gia hiện nay, ngành du lịch được
ví như “con gà đẻ trứng vàng” – ngành công nghiệp không khói đem lại lợi ích to
lớn về nhiều mặt: một mũi nhọn trong tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội,
góp phần tăng ngân sách nhà nước, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người
dân, nâng cao đời sống tinh thần của con người, là cầu nối tạo nên tình hữu nghị,
sự hiểu biết, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc và nền văn hóa khác nhau.
Trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam liên tục tăng trưởng với
tốc độ cao. Theo thống kê của Tổng cục du lịch năm năm 2018 tiếp tục là một
năm thành công của ngành du lịch Việt Nam. Với tổng lượng khách quốc tế đến
Việt Nam trong tháng 12/2019 ước đạt 1.710.168 lượt, giảm 5,5% so với 11/2019
và tăng 24,4% so với cùng kỳ năm 2018. Tính chung cả năm 2019 đạt
18.008.591 lượt khách, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2018. Tuy nhiên, sự tăng
trưởng nhanh chóng của du lịch cũng đồng nghĩa với việc môi trường tài nguyên

dần bị hủy hoại nghiêm trọng bởi lượng rác thải và những tác động xấu của con
người gây ra trong các hoạt động du lịch tại các khu du lịch, đặc biệt là tại các
khu du lịch có tính đa dạng sinh học cao như: vườn quốc gia, khu dự trữ sinh
quyển, khu du lịch sinh thái… Điều này đòi hỏi các chuyên gia du lịch cần có
những giải pháp hữu hiệu giữa bảo vệ tài nguyên môi trường và phát triển du lịch
để đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững và dài hạn trong tương lai. Một trong
số đó là tìm hướng đi mới cho sản phẩm du lịch.
Với việc mở rộng quy mô và tìm hướng đi để bảo vệ tốt môi trường sinh thái,
công ty cổ phần dịch vụ cáp treo Bà Nà Hills luôn mong muốn xây dựng được
7
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

những chương trình du lịch, những nghiên cứu khảo sát nhằm bảo vệ tối đa lợi ích
vùng sinh quyển quanh khu du lịch, tăng tối đa trải nghiệm của khách du lịch đến
đây nên những hướng đi mới cho những sản phẩm du lịch mang tính đột phá sẽ thu
hút du khách hơn. Du lịch mạo hiểm – loại hình du lịch phát triển được đang dần
được các bạn trẻ hiện nay đón nhận để trải nghiệm như trecking, leo núi, chơi trò
chơi mạo hiểm, nhảy dù, xe đạp leo núi…Bà Nà Hills với lợi thế có dãy núi cao và
độ dốc lớn, thiên nhiên và môi trường du lịch khá thuận tiện để tìm kiếm, triển
khai các mô hình du lịch mạo hiểm như một sản phẩm mới nơi đây.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn phát triển du lịch Bà Nà Hill và qua quá
trình thực tập tại Sunworld Bà Nà Hills, tác giả đã chọn đề tài “Đánh giá tiềm
năng, đề xuất phát triển du lịch mạo hiểm tại Sunworld Bà Nà Hills” làm đề

tài chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua đề tài chuyên đề của mình, tác giả muốn tìm hiểu các vấn đề cơ bản
về du lịch mạo hiểm, các phương hướng phát triển của ngành du lịch nói chung và
du lịch mạo hiểm nói riêng hiện nay. Đánh giá các tiềm năng và đề xuất một số giải
pháp xây dựng chương trình du lịch mạo hiểm tại Sun World Bà Nà Hills. Từ đó
đưa ra những định hướng, giải pháp để góp phần đẩy mạnh và phát triển hơn nữa để
khu du lịch này trở thành điểm du lịch hấp dẫn trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu các sản phẩm du lịch mạo hiểm phục vụ cho khách du
lịch tại Sun World Bà Nà Hills
Tìm hiểu và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu du lịch mạo hiểm
đến khách du lịch tại Sun World Bà Nà Hills trường hợp nghiên cứu trải nghiệm
của sinh viên khoa du lịch.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Sun World Bà Nà Hills thuộc công ty CPDV cáp treo
Bà Nà, tập đoàn Sun Group
8
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

Phạm vi thời gian: Do những hạn chế về thời gian và khả năng nên đề tài
tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 02/2020-04/2020.

3.3. Đối tượng điều tra:
Sinh viên du lịch từng trải nghiệm các sản phẩm du lịch mạo hiểm và sử
dụng dịch vụ tại Sun World Bà Nà Hills
4. Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Đà Nẵng?
Thực trạng phát triển du lịch tại Sun World Bà Nà Hills hiện nay như thế nào?
Những tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên của Sun World Bà Nà Hills
trong việc phát triển loại hình du lịch mạo hiểm?
Những định hướng phát triển và giải pháp đề ra để phát triển du lịch mạo
hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu khách du lịch, đồng thời nâng cao chất lượng dịch
vụ tại Sun World Bà Nà Hills?
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả tiến hành nghiên cứu sơ bộ định tính
được thực hiện thông qua kỹ thuật phỏng vấn thử nghiệm khoảng 10 đối tượng là
những người đã tham gia vào hoạt động du lịch tại Khu du lịch sau đó điều
chỉnh, thiết kế lại bộ khung thang đo phù hợp và tiến hành điều tra chính thức
6. Thiết kế nghiên cứu:
6.1. Thiết kế thang đo
Giá trị tinh thần được cho là yếu tố quan trọng dùng để đo lường các yếu tố
tác động đến quyết định tham gia vào hoạt động du lịch của du khách, nó được
đánh giá dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Song, mỗi khía cạnh đều được đo
lường bởi thang đo Likert, gồm 5 mức độ: Mức (1): Rất không đồng ý; Mức (2):
Không đồng ý; Mức (3): Bình thường; Mức (4): Đồng ý; Mức (5): Rất đồng ý.
6.2. Thiết kế bảng câu hỏi:
Bảng câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu định lượng được thiết kế theo
3 phần:
Phần I: Thông tin chuyến đi của du khách.




9
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

Phần II: Đánh giá sự mong muốn trải nghiệm của du khách về đặc điểm



của các loại hình du lịch mạo hiểm tại Bà Nà, trong phần này tác giả sử dụng
thang đo Likert để đánh giá thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm tại khu du lịch
Phần III: Đặc điểm và thông tin cá nhân của du khách.



7. Phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu:
7.1.Xác định cỡ mẫu
Xác định quy mô mẫu:



Kích cỡ mẫu được xác định theo công thức của Cochran (1977):
n= z2*(p*q)e2
Trong đó:



n = là cỡ mẫu



z = giá trị phân phối tương ứng với độ tin cậy lựa chọn (trong trường hợp
này chọn độ tin cậy 95% thì giá trị z là 1,96…)



p = là ước tính tỷ lệ % của tổng thể



q = 1-p (thường tỷ lệ p và q được ước tính 50%/50% đó là khả năng lớn
nhất có thể xảy ra của tổng thể).
e = sai số cho phép ( ±3%, 4%, 5%...). Trong trường hợp này, chọn e = 10%.



n= 1,962*(0,5*0,5)0,12 = 96,04. Như vậy quy mô mẫu là 96 .
Mặc khác, theo Hair và cộng sự, để sử dụng phương pháp phân tích nhân tố
khám phá (EFA) kích thước mẫu tốt khi tỉ lệ quan sát/ biến đo lường là 5 :1 nghĩa
là một biến đo lường cần tối thiểu 5 quan sát. Nghiên cứu sử dụng 26 biến đo
lường, kích thước mẫu tối thiểu là 22*5= 110. Để đảm bảo thu hồi đủ số phiếu tối
thiểu, tác giả phát ra 120 bảng hỏi trong quá trình khảo sát, thu về 110 phiếu hợp
lệ để tiến hành phân tích.
7.2. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
Số liệu được thu thập thông qua việc khảo sát sẽ được tổng hợp, làm
sạch, mã hóa và xử lý trên phần mềm phân tích thống kê SPSS 22.0:

Thống kê mô tả: chủ yếu sử dụng thống kê về tần suất (Frequency), phần



trăm (Percent), giá trị trung bình (Mean).
10
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

Kiểm tra độ tin cậy thang đo



Kiểm định nhằm loại bỏ các biến không phù hợp và hạn chế các biến rác
trong quá trình nghiên cứu và đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số thông
qua hệ số Cronbach Alpha.
Cụ thể là:
- Hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.8: Hệ số tương quan cao.
- Hệ số Cronbach’s Alpha từ 0.7 đến 0.8: Chấp nhận được.
- Hệ số Cronbach’s Alpha từ 0.6 đến 07: Chấp nhận được nếu thang đo mới
Phân tích nhân tố khám phá:




- EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan sát thành một tập F (K<k) các
nhân tố có ý nghĩa hơn. Cơ sở của việc rút gọn này dựa vào mối quan hệ tuyến
tính của các nhân tố với các biến quan sát.
- Các tác giả Mayers, L.S., Gamst, G., Guarino A.J. (2000) đề cập rằng:
Trong phân tích nhân tố, phương pháp trích Principal Components Analysis đi
cùng với phép xoay Varimax là cách thức được sử dụng phổ biến nhất.
Hair & ctg (1998, 111), Factor loading (hệ số tải nhân tố hay trọng số
nhân tố) là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực của EFA.
• Factor loading > 0.3 được xem là đạt mức tối thiểu
• Factor loading > 0.4 được xem là quan trọng
• Factor loading > 0.5 được xem là có ý nghĩa thực tiễn
Điều kiện để phân tích nhân tố khám phá là phải thỏa mãn các yêu cầu:
Tiêu chuẩn rút trích nhân tố gồm chỉ số Eigenvalue (đại diện cho lượng
biến thiên được giải thích bởi các nhân tố) và chỉ số Cumulative (tổng phương sai
trích cho biết phân tích nhân tố giải thích được bao nhiêu % và bao nhiêu % bị
thất thoát). Nhân tố chỉ được rút trích tại Eigenvalue > 1 và được chấp nhận khi
tổng phương sai trích ≥ 50%

11
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

0.5 ≤ KMO ≤ 1: Hệ số KMO (Kaiser-Meyer- Olkin) là chỉ số được dùng để
xem xét sự thích hợp của phân tích nhân tố. Trị số KMO lớn có ý nghĩa phân tích

nhân tố là thích hợp.
Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05): Đây là một đại



lượng thống kê dùng để xem xét giả thuyết các biến không có tương quan trong
tổng thể. Nếu kiểm định này có ý nghĩa thống kê (Sig. < 0.05) thì các biến
quan sát có mối tương quan với nhau trong tổng thể. Phần trăm phương sai toàn
bộ (Percentage of variance) > 50%: Thể hiện phần trăm biến thiên của các
biến quan sát. Nghĩa là xem biến thiên là 100% thì giá trị này cho biết phân tích
nhân tố giải thích được bao nhiêu %.
Phương pháp phân tích hồi quy đa biến



Phân tích hồi quy đa biến nhằm xác định các yếu tố chính ảnh hưỏng mong
muốn trải nghiệm của sinh viên về du lịch mạo hiểm tại Bà Nà Hills.
8. Bố cục nội dung nghiên cứu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về du lịch mạo hiểm.
Chương 2: Đánh giá tiềm năng và một số đề xuất phát triển du lịch mạo
hiểm tại Sun World Bà Nà Hills
Chương 3: Định hướng và giải pháp góp phần phát triển du lịch mạo hiểm
tại Sun World Bà Nà Hills

12
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DU LỊCH VÀ KHÁCH
DU LỊCH, DU LỊCH MẠO HIỂM
1.1.1. Du lịch
1.1.1.1. Định nghĩa du lịch
Mặc dù hoạt động du lịch có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển
với tốc độ rất nhanh, nhưng cho đến nay khái niệm “du lịch” được hiểu rất khác
nhau tại các quốc gia khác nhau và dưới nhiều góc độ khác nhau. Bản thân khái
niệm “du lịch” có ý nghĩa đầu tiên là sự khởi hành và lưu trú tạm thời của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ.
Từ “du lịch” được định nghĩa lần đầu tiên tại Anh vào năm 1811 như sau:
“Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lí thuyết và thực hành của các cuộc
hành trình với mục đích giải trí. Ở đây sự giải trí là động cơ chính”.
- Năm 1963, Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch ở Rome định nghĩa như
sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế
bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể bên ngoài
nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hòa bình”.
- Theo tổ chức Du lịch thế giới – Liên hiệp quốc UNWTO (2008): “Du
lịch (tourism) là hành động rời khỏi nơi cư trú để đi đến một nơi khác, một môi
trường khác trong một thời gian ngắn nhằm mục đích tìm hiểu, khám phá, vui
chơi, giải trí, nghỉ dưỡng. Du lịch bao gồm mọi hoạt động của những người du
hành, tạm trú trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm
hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn cũng như mục đích hành nghề
và những mục đích khác nữa trong thời gian liên tục nhưng không vượt quá một

năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư, ngoại trừ mục đích thu lợi nhuận”.

13
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

- Theo quan điểm của Mill và Morrison (1982):“Du lịch là một hoạt động
xảy ra khi con người vượt qua biên giới một nước, hay ranh giới một vùng, một
khu vực nhằm mục đích giải trí hoặc công vụ và lưu trú tại đó ít nhất 24 giờ
nhưng không quá một năm”
- Theo khoản 1, điều 4, Luật Du lịch Việt Nam 2017 định nghĩa: “Du lịch
là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa
mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định”.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc định nghĩa
về khái niệm du lịch, song có thể hiểu một cách khái quát về du lịch như sau:
“Du lịch là sự di chuyển của con người ra khỏi nơi cư trú của mình nhằm đáp
ứng những nhu cầu của bản thân (trừ mục đích làm việc kiếm tiền) tại điểm
đến trong khoảng thời gian nhất định và quay trở về nơi cư trú ban đầu”.
1.1.1.2. Phân loại
Việc phân loại các loại hình du lịch có ý nghĩa to lớn, cho phép xác định
được ý nghĩa cơ cấu khách hàng, mục tiêu của điểm du lịch. Có một số loại hình
du lịch phổ biến như sau:
a. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ hay phân loại theo vị trí địa lý
Du lịch được phân ra thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa.

Du lịch quốc tế: Là loại hình du lịch mà điểm đi và điểm đến của du



khách nằm ở các quốc gia khác nhau. Trong quá trình thực hiện loại hình này sẽ
nảy sinh sự giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ.
Du lịch nội địa: Điểm đi và điểm đến thuộc trong phạm vi một quốc gia.



Du lịch nội địa là các hoạt động tổ chức, phục vụ người bản địa, người nước
ngoài cư trú tại nước mình đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
b. Căn cứ vào thời gian du lịch
Dựa vào thời gian thì du lịch được phân thành 2 loại như sau:
Du lịch ngắn ngày: Là chuyến đi được thực hiện trong thời gian dưới một



tuần và du lịch cuối tuần là một dạng của du lịch ngắn ngày. Loại hình này khá
phát triển ở một số nước như: Mỹ, Anh, Pháp, …
14
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long


Du lịch dài ngày: Là loại hình du lịch thường được tổ chức vào các kỳ nghỉ



phép trong năm hoặc nghỉ đông, nghỉ hè. Loại hình này thường kéo dài vài tuần.
i. Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi

Dựa vào hình thức tổ chức chuyến đi, du lịch được chia ra 2 loại như sau:
Du lịch theo đoàn: Là hình thức các thành viên tham dự theo đoàn và



thường có sự chuẩn bị chương trình từ trước. Du lịch theo đoàn có thể tổ chức
theo hai hình thức:


Du lịch theo đoàn có thông qua tổ chức du lịch.



Du lịch theo đoàn không thông qua tổ chức du lịch.



Du lịch cá nhân: Là những người đi du lịch một mình, có thể thông qua
các tổ chức du lịch hoặc đi theo hình thức tự do.
1.1.1.3. Đặc điểm của du lịch
Theo báo cáo của tổ chức du lịch thế giới UNWTO (2008) thì du lịch có
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, du lịch có tính nhạy cảm, gồm nhiều bộ phận tạo thành nên trong

quá trình cung cấp dịch vụ đối với du khách, nhà cung ứng cần bố trí chính xác
về thời gian, có kế hoạch chi tiết chu đáo về nội dung các hoạt động, cần phải kết
hợp một cách hữu cơ chặt chẽ giữa các khâu. Mặc khác, các yếu tố như thiên
nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội đều có ảnh hưởng đến du lịch. Thảm họa chiến
tranh, động đất, khủng bố, sa sút kinh tế đều gây ảnh hưởng lớn đối với sự phát
triển du lịch.
Thứ hai, du lịch mang tính đa ngành cao. Tính đa ngành được thể hiện qua
đối tượng khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch như sự hấp dẫn về cảnh quan
tự nhiên, các giá trị lịch sử, văn hóa, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ kèm theo. Du
lịch sẽ không phát triển nếu không có sự trợ giúp của các ngành kinh tế - xã hội
khác như bảo hiểm, y tế, giao thông vận tải. Ngược lại, du lịch cũng mang lại
nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác nhau thông qua các sản phẩm, dịch vụ
cung cấp cho khách du lịch.

15
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

Thứ ba, du lịch mang tính đa thành phần. Thành phần tham gia trong hoạt
động kinh doanh du lịch gồm: khách du lịch, những người quản lí và phục vụ du
lịch, cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội. Do đặc tính đa thành phần trên đây
mà có nhiều loại hình du lịch dịch vụ ra đời, đáp ứng nhu cầu phong phú đa dạng
của du khách.
Thứ tư, do ảnh hưởng của yếu tố địa lý tự nhiên, thời tiết khí hậu nên du

lịch hầu hết các nước đều mang tính thời vụ đặc trưng. Tại điểm du lịch, điều
kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành tính thời vụ du lịch.
Ngoài ra, tính thời vụ của du lịch có liên quan mật thiết tới việc sắp xếp ngày
nghỉ của nhân viên, các kì nghỉ của học sinh sinh viên, sự bố trí này có ảnh
hưởng đáng kể đến hoạt động của du lịch.
Thứ năm, du lịch mang tính liên vùng, biểu hiện thông qua các tuyến du
lịch với một quần thể các điểm du lịch trong một khu vực, trong một quốc gia
hay giữa các quốc gia với nhau. Mỗi một điểm du lịch đều có những điểm hấp
dẫn, độc đáo riêng, song nó không thể tách khỏi xu thế thời đại và sự phát triển
chung của khu vực và quốc gia. Hoạt động du lịch ở một vùng, một quốc gia khó
có thể phát triển nếu không có sự liên kết các tuyến, điểm du lịch trong phạm vi
quốc gia và toàn thế giới.
Thứ sáu, du lịch mang tính chi phí và tổng hợp cao. Mục đích của khách du
lịch là hưởng thụ các sản phẩm du lịch, do vậy họ sẵn sàng trả những khoản chi
phí trong chuyến đi của mình về các khoản dịch vụ như: ăn uống, ngủ nghỉ, đi lại
và nhiều chi phí khác nhằm thực hiện mục đích vui chơi, giải trí, tham quan. Về
tính tổng hợp, sản phẩm du lịch là sản phẩm tổng hợp được biểu hiện bằng nhiều
loại hình dịch vụ. Phạm vi hoạt động của ngành kinh tế du lịch bao gồm các
khách sạn, giao thông, nhà hàng, dịch vụ bán đồ lưu niệm. Ngoài ra còn có bộ
phận sản xuất tư liệu phi vật chất như văn hóa, giáo dục, tôn giáo, hải quan, tài
chính, bưu điện.
1.1.2. Khách du lịch
1.1.2.1. Khái niệm
16
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: ThS. Trần Thanh Long

Theo Luật du lịch Việt Nam (2017): “Khách du lịch là người đi du lịch
hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận
thu nhập ở nơi đến”.
Theo tổ chức du lịch thế giới UNWTO (2008)du khách có những đặc
trưng sau:


Là người đi khỏi nơi cư trú của mình.



Không đi du lịch với mục đích làm kinh tế.



Đi khỏi nơi cư trú từ 24 giờ trở lên.



Khoảng cách tối thiểu từ nhà đến điểm du lịch khoảng 30, 40, 50,...dặm
tùy theo quan niệm hay quy định của từng nước.
1.1.2.2. Phân loại
Khách du lịch quốc tế



Theo Ủy ban thống kê của Liên Hợp Quốc về du lịch tại Rome (1963) thì

khách du lịch quốc tế được định nghĩa như sau:“Khách du lịch quốc tế là người
thăm viếng một số nước khác ngoài nước cư trú của mình với bất kỳ lý do nào
ngoài mục đích hành nghề để nhận thu nhập từ nước được viếng thăm”.
Ngoài ra Luật du lịch Việt Nam 2017 đã đưa ra định nghĩa như sau: “Khách
du lịch quốc tế đến Việt Nam là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài vào Việt Nam du lịch”.
Khách du lịch nội địa



Theo tổ chức UNWTO (2008) đã đưa ra nhận định về khách nội địa như
sau: “Khách du lịch nội địa là những người cư trú trong nước, không kể quốc
tịch, thăm viếng một nơi khác nơi cư trú thường xuyên của mình trong thời gian
ít nhất 24 giờ cho một mục đích nào đó ngoài mục đích hành nghề kiếm tiền tại
nơi viếng thăm”.
Đối với nước Mỹ: Khách du lịch nội địa là những người đi đến một nơi



cách nơi ở thường xuyên của họ ít nhất là 50 dặm với những mục đích khác nhau
ngoài việc đi làm hằng ngày.

17
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: ThS. Trần Thanh Long

Đối với nước Pháp: Du khách nội địa là những người rời khỏi nơi cư trú



của mình tối thiểu là 24 giờ và nhiều nhất là 4 tháng với một hoặc một số mục
đích: giải trí, sức khoẻ, công tác và hội họp dưới mọi hình thức.
Đối với nước Canada: Khách du lịch nội địa là những người đi đến một



nơi xa 25 dặm và có nghỉ lại đêm hoặc rời khỏi thành phố và có nghỉ lại đêm.
Đối với Việt Nam: “Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam đi du lịch
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”. (điều 20, chương IV, Luật du lịch Việt Nam).
1.1.3. Khái niệm về du lịch mạo hiểm
1.1.3.1. Du lịch mạo hiểm
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt
động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và
tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn cũng như
mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng
không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các
chuyến du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Còn “lữ hành” là việc thực
hiện chuyến đi từ nơi cư trú và làm việc thường xuyên của con người đến một
nơi khác nhằm những mục đích nhất định và những hoạt động phục vụ cho
chuyến đi ấy (Trần Đức Thanh, 2005). Như vậy, những chuyến đi không nhất
thiết nhằm mục đích du lịch cũng được coi là chuyến lữ hành. Khái niệm “lữ
hành” mở rộng hơn khái niệm “du lịch” cả về nội hàm và ngoại diện của nó. Du
lịch mạo hiểm là một trong những loại hình du lịch đang thu hút sự quan tâm của
nhiều du khách, đặc biệt là những người ưa khám phá, hoạt động mạo hiểm, gần

gũi với thiên nhiên, xu hướng hiểu và hòa mình với tự nhiên. Tuy nhiên, đây là
một loại hình du lịch còn mới, đang tiếp tục phát triển do đó thuật ngữ du lịch
mạo hiểm vẫn chưa thực sự thống nhất và được hiểu theo nhiều cách với nhiều
khái niệm.
Theo John Swarbrooke và cộng sự (2003), du lịch mạo hiểm là một hoạt
động giải trí, vì vậy có nhiều tên để chỉ loại hình du lịch này: sự mạo hiểm thú vị,

18
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

hoạt động giải trí mạo hiểm tự nhiên, sự theo đuổi những hoạt động ngoài trời,
hoạt động giải trí mạo hiểm, v.v.
Trong nghiên cứu của Millington (2001), ông cho rằng du lịch mạo hiểm là
một hoạt động giải trí được tổ chức tại một nơi xa nơi cư trú thường xuyên, mới
lạ và hoang sơ, kết hợp với các hoạt động có mức độ vận động cao, chủ yếu là
các hoạt động ngoài trời. Người tham gia loại hình du lịch mạo hiểm mong muốn
được trải nghiệm sự mạo hiểm ở nhiều mức độ mạo hiểm khác nhau, cảm nhận
sự thú vị, tận hưởng sự mới lạ và rèn luyện bản thân.
Muller & Cleaver (2000) đã đưa ra một định nghĩa dưới góc độ của những
người cung cấp dịch vụ rằng du lịch mạo hiểm được đặc trưng bằng khả năng
cung cấp cho du khách các mức độ cảm nhận hào hứng thường có được nhờ đưa
các thành tố thực nghiệm có tính chất thách thức về mặt thể chất vào trải nghiệm
của du khách (thường là ngắn). Trong định nghĩa này, các tác giả nhấn mạnh cảm

nhận của du khách thông qua việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động đòi hỏi
nỗ lực về mặt thể chất để vượt qua một thách thức.
Theo Trương Quang Hải (2006) thì “Du lịch mạo hiểm là một hoạt động
ngoài trời diễn ra ở nơi chúng ta không thường xuyên tới hay ở một nơi đặc biệt
nào đó. Hoạt động này có thể dẫn đến một số rủi ro, song qua đó chúng ta có thể
học được những kinh nghiệm mới để chế ngự chúng và vượt qua những thử thách
đối với bản thân”.
Tác giả Phạm Trung Lương (2008) trong báo cáo “Cơ sở khoa học để phát
triển các sản phẩm du lịch thể thao mạo hiểm vùng núi phía bắc” cho rằng “Du
lịch mạo hiểm là loại hình du lịch tại những khu vực tự nhiên còn tương đối hoang
sơ, nơi du khách sẽ được thỏa mãn nhu cầu khám phá những điều không ngờ tới
cùng với những cảm xúc bị “đe dọa” bởi những hoạt động “mạo hiểm” mà trước
đó họ chưa thể hình dung được song đã tự nguyện chấp nhận tham gia. Ngoài ra,
để làm rõ hơn nội hàm của khái niệm này, tác giả cũng đồng thời đưa ra khái niệm
về du lịch thể thao – mạo hiểm: “Du lịch thể thao – mạo hiểm là loại hình du lịch
mang tính chất thể thao dựa vào việc khai thác các giá trị tự nhiên có thể kết hợp
19
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

với văn hóa địa phương những khu vực còn tương đối hoang sơ, nhằm thỏa mãn
nhu cầu tăng cường sức khỏe và khám phá những điều không ngờ tới với những
cảm giác mạo hiểm”. Như vậy, du lịch mạo hiểm thực chất là một phần nằm trong
du lịch thể thao – mạo hiểm và cùng bao gồm những yếu tố nỗ lực cao về mặt thể

chất, tinh thần. Tuy nhiên du lịch mạo hiểm chú trọng vào mục đích khám phá,
vượt qua những khó khăn, thử thách, điều kiện khắc nghiệt để đạt được cảm giác
“mạo hiểm” còn du lịch thể thao – mạo hiểm, ngoài mục đích trên còn hướng vào
các hoạt động mang tính thể thao để tăng cường sức khỏe. Đây chính là dấu hiệu
quan trọng để nhận biết sản phẩm của 2 loại hình này.
Từ các định nghĩa, khái niệm, cách hiểu trên, có thể thấy rằng du lịch mạo
hiểm là loại hình du lịch trong đó cần có những đặc trưng cụ thể sau đây: Tác động
linh hoạt, sự mạo hiểm, sự thách thức, tính mục đích, tính mới lạ, sự kích thích, sự
độc lập, sự thám hiểm và khám phá, sự say mê, sự trải nghiệm cảm xúc.
1.1.3.2. Đặc điểm của loại hình du lịch mạo hiểm
- Du lịch mạo hiểm là một hình thức giải trí tạo cảm giác mạnh.
- Có thể hoặc không kết hợp việc di chuyển từ vùng nay sang vùng khác
theo lịch trình, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kĩ lưỡng lịch trình chuyến đi và khu
chọn làm địa điểm để thực hiện chuyến đi, bởi trên nguyên tắc địa điểm được
chọn phải đáp ứng đầy đủ các tính chất phục vụ cho du lịch mạo hiểm (như tạo
được thử thách cho du khách, cảm giác gần gũi với thiên nhiên, gắn liền với văn
hóa và phong tục địa phương).
- Không nhất thiết tất cả các chuyến mạo hiểm đều dựa vào thiên nhiên
(trong một vài trường hợp có thể được tổ chức ở trong các thành phố lớn theo ý
đồ của các nhà tổ chức), đó có thể là sự kết hợp giữa các yếu tố mạo hiểm và giải
trí ở các công viên, cầu vượt trong thành phố hoặc là các trò chơi mang tính xếp
hạng giữa các đội chơi kết hợp với các yếu tố mạo hiểm.
- Du lịch mạo hiểm rất an toàn khi có sự hỗ trợ của các trang thiết bị hiện đại,
và tùy theo mức độ hoạt động mà sự cần thiết của các trang thiết bị là khác nhau.

20
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

- Nguồn nhân lực phục vụ loại hình du lịch mạo hiểm cần là những người có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ liên quan đến các loại hình du lịch này. Thông
thường các hướng dẫn viên trong các tuyến, điểm du lịch mạo hiểm là các huấn
luyện viên cho các trò chơi, trải nghiệm, khám phá thử thách sẽ diễn ra trên tuyến.
- Cũng như những loại hình khác, du lịch mạo hiểm cần có các sản phẩm và
dịch vụ đặc biệt dành riêng cho nó. Các sản phẩm dành cho du lịch mạo hiểm là
các trang thiết bị giúp du khách trải nghiệm được các hoạt động du lịch và công
cụ để đảm bảo an toàn cho du khách. -Cơ sở nghỉ ngơi, lưu trú dành cho loại hình
du lịch mạo hiểm cũng rất phong phú, có thể là các khách sạn đạt tiêu chuẩn, nhà
dân hoặc chỉ là điểm cắm trại ngoài trời để phù hợp với nhu cầu và ý thích của du
khách. Các dịch vụ đi kèm như hướng dẫn kỹ thuật, khuân vác, dẫn đường, bán
và cho thuê trang thiết bị, cứu hộ, v.v. luôn là các gói dịch vụ cần có trong bất cứ
loại hình nào của du lịch mạo hiểm.
1.1.3.3. Phân loại du lịch mạo hiểm
Bảng 1.1: Các loại hình du lịch mạo hiểm, xếp loại theo ATTA
Hoạt động
Thám hiểm khảo cổ
Tham gia vào lễ hội/hội chợ địa phương

Loại hình
Dễ
Khác

Backpacking


Dễ

Quan sát chim muông

Dễ

Cắm trại

Dễ

Chèo thuyền ca nô

Dễ

Thám hiểm hang động

Khó

Leo núi (đá/băng)

Khó

Đi thuyền (cruise)

Khác

Các hoạt động văn hóa

Khác


Du lịch sinh thái

Dễ

Chương trình giáo dục

Dễ

Các hoạt động bền vững với môi trường

Dễ

Câu cá

Dễ

21
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp
Làm quen với người dân địa phương

GVHD: ThS. Trần Thanh Long
Khác

Đi bộ leo núi


Dễ

Cưỡi ngựa

Dễ

Săn bắn

Dễ

Chèo thuyền kayak

Dễ

Học ngôn ngữ mới

Khác

Lặn biển

Dễ

Trekking

Khó

Tour đi bộ

Khác


Thăm bạn bè/gia đình

Khác

Thăm các di tích lịch sử

Khác

Du lịch hoạt động tình nguyện

Dễ
(Nguồn: UNWTO, 2014)

Trên thế giới, du lịch mạo hiểm được phân loại theo một số nhóm, mục
tiêu, đặc điểm chính như sau:
Phân loại theo mục đích chuyến đi
Phân loại theo mục đích chuyến đi có 2 loại: Du lịch với mục đích khám
phá, trải nghiệm; Du lịch với mục đích và khám phá, nghiên cứu của các nhà
khoa học qua việc thực hiện các chuyến khảo sát, phân tích, tìm hiểu các loài
động, thực vật, các hiện tượng trong tự nhiên.
Phân loại theo tính chất và đặc điểm
Phân loại theo tính chất và đặc điểm có 3 loại: Du lịch mạo hiểm trên cạn
(leo núi, khám phá hang động, đi bộ băng rừng); Du lịch mạo hiểm dưới nước
(chèo thuyền, vượt thác, lặn biển khám phá đại dương); Du lịch mạo hiểm trên
không (nhảy dù, tàu bay, tàu lượn).
Phân loại theo mức độ mạo hiểm
Phân loại theo mức độ nguy hiểm có 3 loại: Loại hình có mức độ mạo hiểm
thấp (đi xe đạp địa hình, chèo thuyền, đi bộ băng rừng); Loại hình có mức độ
mạo hiểm trung bình (leo núi, chèo thuyền vượt thác); Loại hình có mức độ mạo
hiểm cao – đây là các hoạt động mang tính chất rủi ro cao hay địa điểm tổ chức

là những nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (trượt tuyết trên miệng núi lửa ở
22
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

Nhật Bản, bay lượn trên không trung ở Brazil, nhảy xuống hồ cá mập ở Mexico,
nhảy từ cao ốc ở Dubai, leo núi băng ở Nepal).
Như vậy, sự phân loại du lịch mạo hiểm có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác
nhau tùy theo mục đích, tính chất hay mức độ mạo hiểm.
1.1.3.4.Một số loại sản phẩm du lịch mạo hiểm được yêu thích
- Leo núi: Là một hoạt động không mới, quan trọng là chọn hình thức leo
như thế nào và ở đâu để mang đến cảm giác mới lạ hơn. Và hiện nay, leo núi
thiên nhiên ở các vách đá dốc ngay sát biển, hay các vùng núi hoang trở thành sự
lựa chọn số một cho những ai thích leo núi để lên trên đỉnh núi, đung đưa ngắm
nhìn khung cảnh xung quanh từ trên cao, đón gió và nắng biển và thật sự không
còn gì bằng.
- Dù bay: Là một trong những môn thể thao mạo hiểm hấp dẫn nhất trên
biển, được vận hành bằng sức gió, ca nô kéo dù bay trên không. Khi tham gia trò
chơi này, bạn chú ý chạy đều theo vận tốc ca nô cho đến khi chân chạm nước.
Nếu không sẽ rất dễ ngã úp trước khi chiếc dù nhấc bổng bạn lên cao. Vì được
trang bị áo phao nên bạn có thể hoàn toàn yên tâm khi tiếp nước hạ dù. Chi phí
cho mỗi lần “bay” 10 phút từ 500.000 - 600.000 VND, tùy thuộc số người chơi.
- Nhảy bungee (bungee jump): Là một trò chơi mạo hiểm với cú nhảy của
cảm giác cực mạnh, của sự khát khao chinh phục độ cao. Người chơi sẽ leo lên

một nơi có địa thế cao như cây cầu, tòa nhà cao tầng, khinh khí cầu, trực thăng
hoặc cáp treo và được buộc dây đai quanh người rồi quăng mình xuống phía dưới
mặt đất (hoặc mặt nước). Lúc này người chơi sẽ được trải nghiệm cảm giác huyết
áp tăng đột ngột, tim đập ít nhất 150 lần/phút và cả thế giới dường như đang đảo
ngược. Khi chỉ còn cách bề mặt tiếp xúc không xa, người chơi sẽ được kéo lên.
Trải nghiệm mạo hiểm này được phát triển thành hoạt động du lịch hấp dẫn ở
nhiều nơi trên thế giới.
- Chèo xuồng kayak: Đây không chỉ là môn thể thao thử thách lòng can
đảm, sự bình tĩnh, tính kiên trì mà còn là bài học về khả năng xử lý tình huống
linh hoạt cùng kỹ thuật của người chơi. chuyển trên mặt nước bằng cách chèo
23
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

xuồng kayak. Chèo xuồng kayak có một vài điểm khác với chèo xuồng thông
thường. Bởi vì xuồng kayak có một cái buồng lái đóng, còn xuồng bình thường
thì có một buồng lái mở. Tuy nhiên, cả hai loại đều sử dụng loại mái chèo hai đầu
để hoạt động. Có năm sự phân loại chính: vượt thác, vượt sóng, đi thám hiểm,
những chuyến đi nhanh và nhẹ nhàng, cuối cùng là đi giải trí thông thường. Từ
những hình thức chính đó, người ta phân ra thành nhiều loại nhỏ nữa. Ví dụ, đi
câu cá bằng xuồng kayak là một hình thức đơn giản của đi giải trí đơn thuần.
Chiếc xuồng sẽ được trang bị thêm những đồ phụ tùng và sửa lại cho phù hợp với
việc câu cá.
- Đạp xe: Du lịch bằng xe đạp là một hoạt động du lịch đi theo đoàn,

thường là để đi thám hiểm hoặc ngắm cảnh bằng xe đạp. Du lịch bằng xe đạp
giống như một cuộc đi du lịch ba lô trên xe đạp vậy. Khoảng cách của các chuyến
đi hoàn toàn không giống nhau, tùy thuộc vào sự phù hợp của mỗi người. Tốc độ
đi, số điểm dừng và người lái đi được khoảng từ 50 - 150 km/ngày. Một chuyến
đi ngắn cỡ vài ngày có thể đi được khoảng 200km, xa hơn thì có thể đi trong một
nước hay vòng quanh thế giới. Những chuyến đi du lịch xa cần phải được chuẩn
bị tốt, đặc biệt là xe đạp phải có khả năng chở được những hành lý nặng. Mặc dù
có rất nhiều loại xe đạp khác nhau để sử dụng, những loại xe thích hợp nhất phải
là loại chở được vật nặng và làm cho ta cảm thấy thoải mái khi di chuyển trong
một thời gian dài.
- Lặn biển: một hoạt động bơi lặn diễn ra dưới lòng nước và sử dụng các
dụng cụ thở cá nhân chuyên dụng. Bằng cách mang theo một bình khí gas
(thường là khí nén), người lặn có thể ở dưới nước một thời gian dài với kỹ thuật
duy trì sự hô hấp với ống thở và tự do bơi lặn dưới nước mà không bị gây cản trở
vì đã được cung cấp đủ nguồn khí. Người lặn di chuyển dưới nước thường là sử
dụng đuôi cá gắn ở bàn chân, đôi khi cũng có sự trợ giúp của bộ truyền động
(thường được gọi là scooter).
1.1.3.5. Các sản phẩm, dịch vụ liên quan

24
SVTH: Thân Thị Như Ý

Lớp: K50-QLLH1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Thanh Long

Cũng như các loại hình khác, du lịch mạo hiểm cần có các sản phẩm và

dịch vụ đặc biệt dành riêng cho nó. Các sản phẩm dành cho du lịch mạo hiểm là
các trang thiết bị đảm bảo an toàn cho du lịch mạo hiểm: như mũ bảo hiểm, áo
phao cứu sinh, túi ngủ, túi khô mái chèo, quần áo chuyên dụng cho các loại hình
du lịch dưới nước. Các hoạt động trên cạn như leo núi, băng rừng, leo vách núi…
cho 1 người núi cần có dây leo, móc khoá, lều bạt, mũ bảo hiểm các dụng cụ bảo
vệ đầu gối, khuỷu tay, máy bộ đàm… Các hoạt động trên không như nhảy dù, tàu
lượn cần mũ bảo hiểm, các dụng cụ bảo vệ đầu gối và khuỷu tay, dù nhảy…
Tuỳ theo các hoạt động mà các thiết bị giống nhau được thiết kế khác nhau
ví dụ như nón bảo hiểm của leo núi khác với nón bảo hiểm các hoạt động dưới
nước. Bất kỳ loại hình nào của du lịch mạo hiểm cũng đều trang bị hộp y tế và
thiết bị thông tin liên lạc đơn giản nhất là bộ đàm. Bên cạnh đó là các trang thiết
bị dùng để di chuyển như: xe đạp địa hình, xe mô tô phân khối lớn như Minsk, xe
cào cào. Ở bộ môn dưới nước có thuyền kayak, bè cao su cho hai người, sáu
người, tàu lượn…
Dịch vụ cơ sở lưu trú cho loại hình du lịch mạo hiểm cũng rất phong phú
khi tham gia này ngoài thiên nhiên ngoài các cơ sở lưu trú là các khách sạn đạt
tiêu chuẩn, tuỳ theo nội dung, và địa điểm có các dịch vụ lưu trú như nhà dân,
nhà tổ chim, cắm trại ngoài trời để phù hợp với các hình thức lưu trú của du
khách. Các dịch vụ bổ trợ đi kèm trong các tour mạo hiểm như khuân vác, dẫn
đường dành cho các loại hình như đi bộ trong rừng, chèo thuyền dọc các con
sông, leo núi.
Bên cạnh đó, dịch vụ nấu ăn luôn đi kèm với các môn thể thao này. Quan
trọng nhất là dịch vụ cứu hộ phải luôn luôn đi kèm trong bất kỳ loại hình nào của
du lịch mạo hiểm. Ngoài ra còn có các dịch vụ bán và cho thuê trang thiết bị hỗ
trợ cho du lịch mạo hiểm. Thêm nữa là các dịch vụ giúp du khách di chuyển đến
các địa điểm tổ chức các tour du lịch mạo hiểm như dịch vụ cáp treo để chơi trò
leo núi, cần trục để chơi trò nhảy bungee… Trong những trường hợp các phương
tiện xe khách không thể tiếp cận được điểm tổ chức thì đã có ngay các dịch vụ
25
SVTH: Thân Thị Như Ý


Lớp: K50-QLLH1


×