Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Mỹ thuật THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 22 trang )

I. Lý do chọn đề tài:
Cuộc sống con người ngày càng phát triển về mọi mặt và hướng đến chân
thiện mỹ. Mỹ thuật dần đi vào cuộc sống của con người trong mọi hoạt động, mọi
công việc. Ví dụ như: làm một ngôi nhà, may một bộ đồ đẹp, chọn màu sắc cho
một chiếc xe máy yêu thích,…Như vậy thuật ngữ “ mỹ thuật ” từ lâu đã đi vào con
người, đó là “ cách làm đẹp ” không thể thiếu. Cũng chính vì tầm quan trọng của
Mỹ thuật mà nó đã được đưa vào chương trình trung học cơ sở ( THCS ) trở thành
một môn học chính thống.
Môn Mỹ thuật ở THCS nhằm giáo dục thẩm mỹ cho các em và tạo điều kiện
cho các em sáng tạo ra cái đẹp, nâng cao khả năng nhận thức thẩm mỹ của các em.
Không những thế, học Mỹ thuật còn giúp các em hiểu về cái đẹp để sống và hoạt
động theo quy luật của cái đẹp.
Môn Mỹ thuật được ngành Giáo dục và mọi người quan tâm, bên cạnh
những thành công bước đầu đạt được việc dạy và học Mỹ thuật còn nhiều hạn chế
và khó khăn. Trong dạy học, đồ dùng dạy học đóng vai trò rất quan trong trong
suốt quá trình dạy học. Đối với môn Mỹ thuật, đồ dùng dạy học càng quan trọng
hơn, nó làm tăng hiệu quả của tiết dạy rất nhiều.
Qua thực tiễn tại trường THCS tôi nhận thấy việc dạy và học môn Mỹ thuật
còn gặp nhiều khó khăn trong sử dụng đồ dùng dạy học. Đồ dùng dạy học chưa
đáp ứng được một tiết dạy hoàn chỉnh và nhu cầu kiến thức của học sinh.
Vì vậy tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài : “Thực trạng về việc sử dụng giáo
cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS ”.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài nhằm đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
1. Khách thể nghiên cứu: sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật ở trường
THCS Đông La - Đông Hưng- Thái Bình.
2. Đối tượng nghiên cứu: thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS Đông La - Đông
Hưng- Thái Bình.


IV. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu một số vấn đề lý luận về môn Mỹ thuật và sử dụng đồ dùng dạy
học môn Mỹ thuật ở trường THCS.
Đánh giá thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS
Đông La - Đông Hưng- Thái Bình.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học
môn Mỹ thuật ở trường THCS Đông La - Đông Hưng- Thái Bình.
V. Phương pháp nghiên cứu:
Trong qua trình nghiên cứu vận dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp điền dã.
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp: đọc sách và tìm tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm:
+Phương pháp phỏng vấn.
+Phương pháp quan sát sư phạm.
+ Phương pháp dự giờ
- Phương pháp điều tra…
B. N I DUNG.Ộ
Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN.
I. Mục tiêu, nhiệm vụ của môn Mỹ thuật ở THCS:
Môn Mỹ thuật ở THCS góp phần hình thành ở học sinh những phẩm chất
tốt đẹp của con người lao động mới, biết thưởng thức cái hay cái đẹp trong cuộc
sống. Chính vì thế môn Mỹ thuật ở THCS có mục tiêu, nhiệm vụ sau:
1. Mục tiêu:
Môn Mỹ thuật ở THCS không nhằm đào tạo hoạ sĩ sáng tác hay những
người chuyên làm về mỹ thuật. Môn Mỹ thuật ở THCS nhằm giáo dục thẩm mỹ
cho học sinh là chủ yếu: tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen, thưởng
thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp, vận dụng cái đẹp vào sinh hoạt học tập hằng ngày
và những công việc cụ thể sau này.
Môn Mỹ thuật ở THCS nhằm nâng cao hơn nữa về năng lực quan sát, khả
năng tư duy hình tượng, sáng tạo, phương pháp làm việc khoa học, nhằm hình

thành ở các em phẩm chất con người lao động mới đáp ứng đòi hỏi của xã hội ngày
càng cao.
2. Nhiệm vụ:
Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh thông qua ngôn ngữ tạo hình.
Cung cấp cho học sinh một số kiến thức phổ thông về Mỹ thuật.
Giúp học sinh nhận thức sâu sắc hơn về nền Mỹ thuật của dân tộc và thế
giới.
Tạo điều kiện cho học sinh tiếo thu tốt hơn tri thức các môn học khác.
Định hướng cho một bộ phận học sinh học tiếp ngành Mỹ thuật, hay tạo điều
kiện cho các em thi vào các trường chuyên nghiệp có liên quan đến Mỹ thuật sau
này dễ dàng hơn ( kiến trúc, mỹ thuật ứng dụng, …)
II. Chương trình môn Mỹ thuật ở THCS:
1. Khái quát chương trình:
Chương trình môn Mỹ thuật ở THCS được chia thành 4 phân môn: vẽ theo
mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh và thường thức Mỹ thuật. Trong đó có các dạng bài lý
thuyết và bài thực hành. Các bài lý thuyết viết dưới dạng giới thiệu theo trình tự
nội dung và cuối bài là câu hỏi hướng dẫn. Các bài thực hành viết dưới dạng: quan
sát, nhận xét; tìm và chọn nội dung đề tài; cách vẽ; bài tập.
Về nội dung: giải thích các khái niệm, nêu lên đặc điểm của từng phân môn
để các em tìm ra cách học, cách vẽ, cung cấp những kiến thứ cơ bản nhất cho từng
phân môn, bài tập ứng dụng.
Chương trình môn Mỹ thuật ở THCS được phân phối như sau:
Stt Phân môn
Lớp/Số tiết
6 7 8 9
1 Vẽ theo mẫu 9 9 9 5
2 Vẽ trang trí 9 7 7 5
3 Vẽ tranh 7 8 8 4
4 Thường thức mỹ thuật 7 6 6 4
2. Đặc điểm từng phân môn:

Môn Mỹ thuật ở THCS được chia thành 4 phân môn với những đặc điểm
sau:
2.1 Phân môn “ Vẽ theo mẫu ”:
Đây là phân môn “ khô ” nhất trong các phân môn, tương đối khó dạy do đó
giáo viên ít quan tâm đến bài dạy để tìm ra những nét khác nhau giữa các bài. Về
phía học sinh , đây cũng là phân môn khó nhất không “ thích ”bằng vẽ trang trí
hay vẽ tranh đề tài. Trên thực tế, kết quả bài vẽ theo mẫu bao giờ cũng thua các
phân môn khác.
Vẽ theo mẫu phải quan sát từ đầu đến kết thúc bài vẽ. Quan sát để tìm ra “
kiến thức ”, vì vậy kết quả của bài vẽ phụ thuộc vào phương pháp quan sát.
Vẽ theo mẫu là vẽ từ mẫu thực. Từ mẫu thực đến bài vẽ do người vẽ quyết
định. Song trên thực tế, các khái niệm vẽ - theo - mẫu chưa được hiểu đúng ở học
sinh và ngay cả ở một bộ phận giáo viên.
Không vẽ tiếp khi không có mẫu ở trước mặt. Trong quá trình vẽ không thay
đổi vị trí của mẫu và vị trí của người vẽ, hướng ánh sáng…để đảm bảo cho bài vẽ
khồng thay đổi, không bị sửa chữa, điều chỉnh…Do vậy mẫu vẽ đối với bài vẽ theo
mẫu là rất quan trọng.
Với những đặc điểm đó, cần vận dụng những phương pháp sau đây khi dạy
vẽ theo mẫu: quan sát, trực quan, gợi mở.
2.2 Phân môn “ Vẽ trang trí ”:
Vẽ trang trí cũng từ những mẫu, từ kiến thức chung nhưng người vẽ có thể
suy nghĩ, tìm tòi để tạo ra bài vẽ, sản phẩm khác một phần hoặc khác hoàn toàn về
hình dáng, bố cục, màu sắc…Vì thế đặc điểm của trang trí là suy ngẫm - tìm tòi -
sáng tạo thường xuyên liên tục để luôn có cái mới, cái đẹp không lặp lại chính
mình, không giống với người khác. Trang trí tạo cho học sinh nếp nghĩ, phương
pháp làm việc khoa học, tư duy sáng tạo, góp phần hình thành phẩm chất con
người lao động.
Trang trí gần gũi, gắn bó với cuộc sống vì nó tạo tra những sản phẩm phục
vụ sinh hoạt hàng ngày cho tất cả mọi người trong xã hội.
Trang trí mang màu sắc dân tộc rõ nét nhất, bởi nó xuất phát từ nhu cầu cuộc

sống của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và như vậy nó mang tính giáo
dục sâu sắc.
Trong dạy học phân môn này cần sử dụng các phương pháp sau: trực quan,
gợi mở, luyện tập.
2.3 Phân môn “ Vẽ tranh ”:
Khai thác đề tài: từ đề tài chung mỗi người tìm ra cách thể hiện sâu sắc, độc
đáo, tìm ra những hình tượng điển hình để có thể diễn tả được tư tưởng chủ đề, ý
đồ của người vẽ, khêu gợi được sự tìm tòi và cảm nhận của người xem.
Phản ánh một cách sinh động bằng sự quan sát và hiểu biết cuả người vẽ; vì
thế, vẽ tranh đề tài là thể hiện sự hiểu biết nhiều mặt về cuộc sống, tự do tạo điều
kiện cho người vẽ có ý thức tìm hiểu thế giới xung quanh.
Khi dạy vẽ tranh cần vận dụng các phượng pháp sau: quan sát, liên hệ thực
tiễn với cuộc sống. Bên cạnh sử dụng các trực quan là bài vẽ của học sinh và họa
sĩ để các em nắm bắt được nội dung.
2.4 Phân môn “ Thường thức mỹ thuật ”:
Đây là phân môn mà học sinh không làm bài thực hành, là phân môn lịch sử
mỹ thuật tóm lược.
Lịch sử mỹ thuật gắn liền với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của
một đất nước, một vùng hay một mốc thời gian. Do đó dạy và học phân môn này
cần có kiến thức về các môn khoa học xã hội và có cách nhìn tổng quát, nhận xét
sâu sắc, phân tích có cơ sở.
Thường thức mỹ thuật nâng cao trình độ văn hoá chung cho học sinh, bồi
dưỡng thẩm mỹ thị giác, giáo dục tình yêu quê hương đất nước và tạo điều kiện
cho các em học tập các phân môn khác có hiệu quả hơn.
Phương pháp dạy thích hợp của phân môn này là: quan sát, vấn đáp, đàm
thoại, liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Giáo viên cần sưu tầm, tìm hiểu nhiều tranh
ảnh liên quan đến bài học.
III. Phương pháp trực quan trong dạy học Mỹ thuật:
1. Dạy Mỹ thuật cũng là dạy học, vì Mỹ thuật cũng là một môn học ở
trường phổ thông. Do vậy, dạy Mỹ thuật cũng phải tuân theo những phương pháp

chung và có phương pháp riêng. Đối với môn học Mỹ thuật có thể kể đến một số
phương pháp thường vận dụng sau:
1.1 Phương pháp quan sát.
1.2 Phương pháp trực quan.
1.3 Phương pháp vấn đáp.
1.4 Phương pháp gợi mở.
1.5 Phương pháp luyện tập.
1.6 Phương pháp liên hệ thực tiễn với cuộc sống.
Đối với môn học Mỹ thuật đó là môn học trực quan, do vậy dạy Mỹ thuật ở
trường THCS dạy trên đồ dùng dạy học là chủ yếu. Đề tài này nhằm nghiên cứu về
sử dụng đồ dùng dạy học trong môn Mỹ thuật nên phương pháp trực quan sẽ được
phân tích sâu hơn.
2. Trực quan trong dạy học Mỹ thuật:
Mỹ thuật là môn học trực quan. Đối tượng của môn Mỹ thuật thường là
những gì ta có thể nhìn thấy, sờ được - có hình, khối, có đậm nhạt, có màu sắc, ở
xung quanh ta, gần gũi và quen thuộc.
Dạy học nói chuung và dạy học Mỹ thuật nói riêng bao giờ cũng mang lại
hiệu quả cao. Riêng với Mỹ thuật, tất cả các loại bài học đều phải sử dụng đồ dùng
dạy học. Dạy Mỹ thuật dạy trên đồ dùng dạy học. Do vậy đồ dùng dạy học là nội
dung, kiến thức của bài học. Đồ dùng dạy học còn phản ánh mức độ kiến thức của
bài học , trình độ của học sinh.
3. Phương pháp trực quan trong dạy học Mỹ thuật:
Nói đến phương pháp trực quan tức là đề cập đến sao cho học sinh thấy
được ngay, thấy một cách rõ ràng, cụ thể và hiểu nhanh, nhớ lâu, đồng thời có
hứng thú học tập, dù là những khái niệm như cân đối, hài hoà hay những gì ẩn
chứa trong bố cục,nét vẽ, màu sắc…mà nghệ sĩ muốn nói. Như vậy, phương pháp
trực quan yêu cầu, giáo viên dạy Mỹ thuật ở góc độ nhận thức cụ thể như sau:
* Về nhận thức: giáo viên phải coi trực quan và phương pháp trực quan là
cần thiết, là nội dung bài dạy.
* Về chuẩn bị: chủ động nghiên cứu bài dạy, tự tìm và thiết kế đồ dùng dạy

học sát với nội dung.
* Về phương pháp: sử dụng trực quan giáo viên cần lưu ý:
- Phân loại đồ dùng sao cho hợp với nội dung, thích hợp với từng thời kỳ,
từng giai đoạn của học tập và ý đồ của giáo viên.
- Hình thức đồ dùng dạy học cần có kích thước vừa phải, dễ quan sát, có
trọng tâm, đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh.
- Trình bày đồ dùng dạy học cần rõ ràng, khoa học.
- Kết hợp giữa trình bày lý thuyết với giới thiệu trực quan đúng lúc, sao cho
lời nói hấp dẫn và minh hoạ đẹp hoà quyện làm một, tạo điều kiện cho học sinh
nhận thức nhanh, nhớ lâu.
IV. Giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật:
1. Các loại giáo cụ trực quan:
Giáo cụ trực quan môn Mỹ thuật là tất cả những phương tiện sử dụng trong
tiết dạy môn Mỹ thuật. Có thể kể đến các loại đồ dùng ( phương tiện ) đó là:
- Vật mẫu: nhiều chất liệu, hình dáng phong phú ( có thể tự làm ) như: hoa
quả, các khối hộp, cái phích, ấm tích, khối cầu, tượng…
- Hình mẫu: dưới dạng vật thật hoặc tự vẽ như: chén đĩa, khăn, gạch hoa…
- Mô hình: kích thước vừa phải, tiện lợi như: mô hình trại…
- Tranh ảnh:
+ Tranh nguyên bản, phiên bản: tranh thiếu nhi, tranh hoạ sĩ, tranh dân
gian…
+Ảnh chụp theo đề tài, hoặc sưu tầm qua sách báo…
- Sơ đồ: sơ đồ có minh hoạ các bước vẽ.
- Sách giáo khoa, học sinh có thể tham khảo thêm sách thực hành Mỹ thuật.
- Bài vẽ của học sinh năm trước.
- Minh hoạ bảng.
- Đồ dùng dạy học: phấn, thước kẽ, bút chì, giấy vẽ…
- Phương tiện hiện đại: máy chiếu.
- Ngoài ra đối với các bài như: Tập vẽ dáng người, Giới thiệu tỉ lệ cơ thể
người ( lớp 8 ),…có thể phải chuẩn bị thêm người mẫu là học sinh hoặc người

lớn…
2. Vị trí, vai trò của giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật:
Bất kỳ một môn học nào trông công tác giảng dạy trực quan đều có vị trí
quan trọng. Sử dụng giáo cụ trực quan trong giảng dạy Mỹ thuật được xem là một
biện pháp tốt nhất để các em dễ dàng năm bắt nội dung bài học, giáo cụ trực quan
là cơ sở để giáo dục thẩm mỹ.
Mỹ thuật là môn học phải có giáo cụ trực quan vì Mỹ thuật là môn rèn luyện
bồi dưỡng và phát triển khả năng cảm thụ thị giác nên Mỹ thuật thông qua trực
quan dạy cho học sinh quan sát, so sánh đối chiếu, phân tích nhằm lĩnh hội tri
thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo. Giáo cụ trực quan nhằm mục đích cụ thể hoá bài
giảng , tăng thêm hiểu biết cho học sinh, giúp học sinh thu nhận thông tin về các sự
vật, hiện tượng một cách đầy đủ và chính xác.
Giáo cụ trực quan nhằm kích thích tò mò và chăm chú, theo dõi bài giảng,
gợi ý cho học sinh hoặc để giải thích chứng minh cho một luận cứ, quy tắc nào đó.
Mặc dù giáo cụ trực quan hết sức quan trọng nhưng cũng hết sức nguy hiểm vì tâm
lý chung của học sinh là hay bắt chước. Nhờ giáo cụ trực quan để thấy được cái
hay, cái đẹp, tránh được cái chưa đạt, thấy rõ mục tiêu bài học, khắc sâu kiến thức
hơn nữa, thế nhưng phải biết sử dụng hợp lý, đúng lúc.
Giáo cụ trực quan là phương tiện giúp trẻ tiếp thu nhận thức tốt lý thuyết
cũng như hướng dẫn thực hành, từ đố gây cho các em niềm say mê hứng thú trong
cái hay, cái đẹp, hình thành thị hiếu tốt, đồng thời giúp các em học tốt các môn
khác.
Chương II : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN.
I. Vài nét về trường THCS Đông La - Đông Hưng- Thái Bình:
Thành lập năm 1940, thuộc địa bàn xã Đông La , diện tích 2076 m
2
.
Trường là đơn vị giáo dục có uy tín và chất lượng của ngành giáo dục Đông
Hưng.
Từ năm 2002, trường được phòng GD và ĐT đánh giá cao về ứng dụng công

nghệ thông tin trong dạy học.
Một số thành tích đạt được :
+ Từ năm học 1989 – 1990 đến nay là đơn vị dẫn đầu của huyện về thành
tích tổ chức quản lý và bồi dưỡng học sinh giỏi khối THCS.
+ Từ 1989 đến 1990 , học sinh trường đạt 87 giải học sinh cấp huyện và cấp
tỉnh.
+ Từ 1999 đến nay, đạt 356 giải học sinh giỏi cấp tỉnh ( 47 giải nhất, 102
giải nhì, 106 giải ba và 101 giải khuyến khích ).
+ Nhiều năm liền trương đạt trường tiên tiến xuất sắc của tỉnh.
+ Có 01 cán bộ giáo viên được tặng danh hiệu “ Nhà giáo Ưu tú ”.
+ Qua nhiều kì thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh có 8 giáo viên đạt danh hiệu
giáo viên dạy giỏi.
+ Qua 3 lần thi tuyển chọn giáo án điện tử do phòng GD và ĐT tổ chức nhà
trường luôn là đơn vị dẫn đầu khối THCS , có 12 giáo án điện tử được cho nhân
bản trên toàn tỉnh.
+ Trường có 35 giáo viên có trình độ đại học.
II. Thực trạng sử dụng giáo cụ trực quan môn Mỹ thuật ở trường THCS
Đông La - Đông Hưng- Thái Bình:
Đề tài này chỉ giới hạn tìm hiểu việc sử dụng đồ dùng dạy học trong môn
Mỹ thuật ở trường THCS Đông La – Đông Hưng- Thái Bình. Để đánh giá thực
trạng này tôi đã tiến hành phỏng vấn, điều tra, tìm hiểu qua Ban giám hiệu nhà
trường, giáo viên giảng dạy, qua học sinh và sản phẩm của các em.
1. Thực trạng:

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×